Chi tiết tin tức Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục 20:34:00 - 18/06/2024
(PGNĐ) - Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng nhiều triết lý thâm diệu, nhất là tư tưởng bình đẳng của Phật giáo.
DẪN NHẬP ![]() (Ảnh: chùa Hoa Yên núi Yên Tử – sưu tầm) TRẦN THÁI TÔNG VÀ TÁC PHẨM KHÓA HƯ LỤC Vua Trần Thái Tông từng bỏ hoàng thành trốn vào núi Yên Tử, tìm đến chỗ Quốc sư Phù Vân cầu xin xuất gia tu hành. Nhưng rồi, ngay hôm sau, Trần Thủ Độ đem quan quân tiến vào núi Yên Tử, quyết đưa vua về kinh cho bằng được, Trần Thái Tông đành quay về, nhưng lòng luôn ghi nhớ lời dạy của Quốc sư Phù Vân: “Phàm là đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên, sự nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên” [2]. Trần Thái Tông trở về kinh thành, vừa làm vua vừa nghiên cứu kinh điển, ứng dụng lời dạy của Quốc sư Phù Vân: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng mà biết, đó là Phật thật” [3] (Sơn bổn vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh chân Phật). Là người tin hiểu giáo pháp của Phật, tỏ ngộ lý thiền, Trần Thái Tông đã khéo léo đưa giáo lý Phật-đà vào việc trị quốc an dân, phát huy tinh thần bình đẳng, dân chủ, từ bi, khoan dung, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân, phát huy tinh thần tự chủ dân tộc. Bên cạnh đó, ngài còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn học Phật giáo có giá trị về mặt tư tưởng, nhận thức, ứng dụng thực tiễn: Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, kinh Kim Cang tam muội,… ![]() Khái quát nội dung tác phẩm Khóa hư lục Cụ thể, chúng tôi chia nội dung tác phẩm thành 4 phần chính, gồm: TƯ TƯỞNG BÌNH ĐẲNG QUA CÁC PHƯƠNG DIỆN Tự tánh vô sinh hay bản thể vô sinh là chỉ cho tâm chân thật nơi mỗi chúng sinh. Đặc tính của bản thể vô sinh được biểu hiện bằng trí tuệ, từ bi, khoan hòa, rỗng lặng mà sáng suốt, bất động mà sống động, không hình không tướng, thường hằng bất biến. Tánh này còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Phật trí, Phật tâm, Chân Như, Thể tánh Bát-nhã, Tánh Kim Cang, Tánh Như Lai tạng,… Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Ta nay thấy khắp tất cả chúng sinh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ của Như Lai”[5]. Vì tất cả chúng sinh đều đầy đủ Trí tính vô lậu, cùng một thể tính thanh tịnh với chư Phật cho nên hết thảy đều bình đẳng. Đứng trên góc độ pháp tướng thì có phân biệt rõ ràng, có cao thấp, có sang hèn, có trí ngu, có sinh diệt,… nhưng đứng ở góc độ pháp tánh thì bình đẳng không khác. Nói bình đẳng bởi vì tánh này không hình tướng, không sinh diệt, không nhơ sạch. Nhân quả Vua Thái Tông nói: “Phàm các loài sanh từ trứng, thai, ẩm, hóa, tánh vẫn đồng, thấy nghe hiểu biết đâu khác. Chỉ do tạo nghiệp kết oán, nên thọ tên khác hiệu khác. Ngày trước vốn loài người, nay sanh đàn giống khác nhau. Hoặc là bạn bè, hoặc là anh em. Thay đổi áo xiêm đai mũ, biến làm mai vảy cánh lông. Vợ quên chồng, chồng quên vợ, con trái cha, cha trái con” [7]. Tức là, chúng sinh trong ba cõi, một khi đã gây nhân thì phải nhận lấy quả báo; tạo nhân lành thì gặp quả lành, kết oán thù ắt gặp quả ác. Luân hồi vay trả trả vay không mất, có chăng chỉ là thay tên đổi họ, thọ sinh nơi các loài khác, hoán xiêm y thành lông vảy. Dù trải qua vô lượng kiếp, quả báo đã gây tạo không mất. Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách Trượng, mỗi khi thượng đường dạy chúng thường thấy có ông lão theo nghe pháp. Một hôm, chúng ra về hết chỉ còn ông lão ở lại. Sư hỏi: Vì sao bậc đại tu hành (tức bậc đã giác ngộ) lại không lầm nhân quả? Vì các ngài đã giác ngộ, sống được với tánh giác nên không mê lầm. Vì không mê nên không lầm tạo nhân để bị nhân quả chi phối; còn chúng sinh thì mê lầm tạo nhân xấu ác chờ khi có kết quả thì than khóc, còn khi tạo nhân lại không hề hay biết. Cho nên cổ đức nói “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Cuộc đời Đức Phật cũng đã chứng minh điều này, ngài đã thành Phật, đầy đủ trí tuệ, thần thông tuy rằng đời này không còn tạo nhân hữu lậu, nhưng quả báo “kim thương mã mạch” (bị kim đâm vào chân, phải ăn lúa ngựa trong mùa an cư tại thôn Tỳ-lan-nhã) do nhân quá khứ còn sót lại ngài vẫn phải nhẫn thọ. Cho đến tôn giả Mục-kiền-liên có thần thông lớn mà vẫn bị ngoại đạo vây đánh, không thể trốn thoát. Tuy nhiên, khác với chúng sinh, các ngài tuy nhẫn thọ khổ báo mà tâm không hề dao động. Qua đây cho thấy, nhân quả luôn vận hành một cách rõ ràng, bình đẳng với tất cả mọi người không luận là Phật hay chúng sinh, đã ngộ hay chưa ngộ. Khác chăng, người chưa ngộ thì vô minh tạo nghiệp, bị nghiệp quả kéo lôi; bậc giác ngộ thì không lầm trên tướng, không lầm tạo nhân xấu, khéo chuyển hóa nên quả báo sẽ nhẹ đi. ![]() Quả vị tu chứng Thời Phật tại thế, ngài đã thu nhận rất nhiều đệ tử gia nhập Tăng đoàn, gồm đủ các thành phần giai cấp trong xã hội; kể cả người hốt phân như Ni-đề, không thuộc giai cấp nào trong bốn giai cấp xã hội Ấn Độ cũng có thể tu hành chứng đắc quả vị A-la-hán. Cho đến người nữ xuất gia tu hành, ứng dụng lời Phật dạy mà hành trì cũng có thể chứng đắc quả vị cao nhất trong tứ quả Thanh văn. Trong Kinh Tăng Chi Bộ có chép: “Này A-nan-da, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia định trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được quả Dự Lưu, quả Bất Lai, hay quả A-la-hán”[10]. Điển hình như các Tỳ kheo Ni A-la-hán: Ma-ha Ba-xà-ba-đề (Mahāprajāpatī), Gia-du-đà-la (Yasodharā), Liên Hoa Sắc (Utpalavarṇā),… Cũng vậy, Trần Thái Tông nói: “Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp. Loài ốc sò vẫn biết hộ Kinh Kim Cang. Mười ngàn con cá nghe danh hiệu Phật được hóa làm con trời. Năm trăm con dơi nghe tiếng pháp thảy được làm Hiền Thánh. Mãng xà nghe sám hối được sanh thiên. Rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Chúng là loài vật còn hay lãnh ngộ, huống là người sao chẳng hồi tâm” [11]. Qua đây chứng minh rằng, quả vị Chánh đẳng Chánh giác không dành riêng cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bốn quả vị Thánh không đặc quyền riêng cho người xuất gia; tất cả chúng sinh trong mười phương đều có thể thành tựu tùy vào sở nguyện, khả năng, sức tu hành của bản thân. Thế gian có câu “làm công ăn lương”, nghĩa là tùy vào khả năng, công sức mình bỏ ra đối với công việc mà có mức lương thu nhập tương ứng. Cũng vậy, mỗi chúng sinh khi phát nguyện tu hành, tùy vào năng lực hành trì của mỗi cá nhân mà quả vị có khác. Chính cái khác này mới thể hiện tột cùng sự bình đẳng. Cho nên nói, mọi người đều bình đẳng trên quả vị tu chứng. GIÁ TRỊ ỨNG DỤNG CỦA TƯ TƯỞNG BÌNH ĐẲNG ĐỐI VỚI XÃ HỘI Cố Hòa thượng Thiện Hoa từng dạy: “Ai cũng là người đáng thương, đáng giúp đỡ. Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có một sự liên lạc, đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng sung sướng khi thấy xung quanh mình đều là bà con quyến thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan hòa trong Phật tánh” [12]. Lời lẽ tuy giản dị nhưng chứa đựng nghĩa lý uyên thâm của Đạo Phật. Đây cũng là lý do vì sao từ một triết lý cao siêu mà ngài có thể vận dụng, đưa vào đời sống sinh hoạt của người Phật tử tại gia, giúp họ ứng dụng tu hành có kết quả, góp phần xây dựng đời sống thuần thiện. Phật giáo dạy người không làm việc ác để không bị luân chuyển trong ba đường khổ; siêng năng làm việc lành đem lại lợi ích mình và cho người khác. Phật pháp luôn hướng chúng ta đi đến chỗ thiết thực và hiện tại. Tích cực trong công việc Xã hội hiện nay, nữ giới đang cố gắng lên tiếng đòi bình đẳng, bình quyền với nam giới; thế nhưng, tính bình đẳng này cũng nằm trong sự tương đối nhất định, không có sự tuyệt đối toàn hảo. Thử hỏi, thu nhập hàng tháng của một giám đốc và một nhân viên, giữa người công nhân và lao công,… có bình đẳng không? Nói đến vị trí, cương vị của một người lãnh đạo và công nhân viên chức có giống nhau chăng? Nói đến vai trò, thiên chức làm mẹ của nữ giới mãi không có nam giới nào có thể thay thế được, và ngược lại. Có chăng, tính bình đẳng chỉ tồn tại trong phạm vi tương đối nào đó mà không phải là hoàn toàn trong các lĩnh vực. Cụ thể, nam giới lẫn nữ giới đều có quyền học tập và làm việc, thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của một công dân Việt Nam là như nhau; họ đều có quyền bầu cử làm chủ tịch nước, thủ tướng, cho đến làm giám đốc, quản lý, công nhân viên,… nhưng phải tùy thuộc vào năng lực của mỗi cá nhân. Như vậy, mỗi cá nhân đều có cơ hội như nhau, bình đẳng với nhau trong công việc; cùng tích cực phấn đấu, cùng phát huy hết khả năng vốn có của mình. ![]() Phát huy tinh thần hướng thượng Trần Thái Tông nói: “Nếu chưa đạt được Phật tâm, Tổ ý hãy trước nương trì giới tụng kinh. Đến lúc Phật cũng chẳng phải, Tổ cũng chẳng phải, thì giới gì trì, kinh nào tụng. Nơi sắc huyễn cũng là chân sắc, ở thân phàm cũng là thân Phật. Phá sáu thức làm sáu thần thông, dạo tám khổ thành tám tự tại” [14]. Ngài nói, khi chưa ngộ tâm Phật thì phải nương nơi kinh giáo, giữ giới tu hành; đến khi nhận lại chân Phật nơi chính mình thì sắc tướng, ngôn từ ‘Phật’, ‘Tổ’ đều không can hệ, vì lẽ phàm vật gì có hình tướng đều là hư vọng. Tuy nói sắc thân của Phật, Tổ là huyễn những vẫn một tâm cung kính, y giáo phụng hành. Có y giáo phụng hành mới có thể nhận lại chân Phật nơi mình. Lại nói, không có giới để trì, chẳng có kinh nào để tụng nghĩa là thế nào? Sau khi thành đạo, Đức Phật nói ra vô lượng pháp môn, thuyết giới, giảng kinh để độ chúng sinh; tức là kinh và giới vốn từ bản tâm thanh tịnh của ngài nói ra, cho nên khi nhận lại Phật thật nơi mình tức tự đầy đủ Giới – Định – Tuệ, suốt thông kinh giáo. Tuy ngài nói không có giới để trì, không có kinh để tụng nhưng hằng ngày ngài vẫn sám hối, vẫn khuyên người giữ năm giới… Đây là cảnh giới trì giới ba-la-mật, giữ giới mà không thấy có giới để giữ; tụng kinh ba-la-mật, tụng muôn ngàn bộ kinh mà chưa đọc chữ nào. Muốn được như vậy thì phải không tâm chấp trước, không có tướng ngã, tướng nhân trong khi tu tập. Đây cũng chính là tinh thần hướng thượng mà người tu Phật cần phát huy. Kết luận Trên tinh thần đó, vua Trần Thái Tông là người tin Phật, học Phật, hiểu lời Phật, tỏ ngộ bản tâm, thấu đạt lý thiền; vậy nên, ngài đã kế thừa tư tưởng bình đẳng mà đức Phật đã giảng nói, đồng thời lan tỏa tư tưởng ấy, gieo vào tàng thức người dân Đại Việt chủng tử hướng thượng, giải thoát. Tư tưởng bình đẳng trong Phật giáo hoàn toàn có thể ứng dụng vào đời sống xã hội. Vì bình đẳng nên mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội đều có thể phát huy năng lực vốn có của mình để hoàn thành công việc, trách nhiệm được giao phó. Mọi cá nhân hoàn toàn làm chủ cuộc đời và sự nghiệp của chính mình mà không trông chờ vào một thế lực nào khác. Xin nhấn mạnh thêm, tinh thần bình đẳng mà Đức Phật nói là giáo lý tuyệt đối, là bình đẳng tuyệt đối: bình đẳng trên nhân quả, bình đẳng trên tự tánh vô sinh, bình đẳng trên quả vị tu chứng. Chính vì vậy, tư tưởng bình đẳng trong Phật giáo rất phù hợp với tinh thần công bằng, dân chủ, văn minh mà đất nước ta đang cố gắng phấn đấu hoàn thiện từng ngày.
ĐĐ. Thích Đạt Ma Thiền Tuệ Thanh/TCVHPG421
Chú thích: Tài liệu tham khảo:
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |





