Chúng ta thường nghe nói rằng thiền Tổ sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm. Cách diễn tả như thế có vẻ như để làm nổi bật hai ý chỉ khác nhau, rằng thiền do Như Lai dạy chủ yếu là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp… trong khi thiền do các vị Tổ sư Trung Hoa và Việt Nam dạy chủ yếu là vô niệm, vô tâm.
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật trú tại Già-xà Thị-lợi-sa 2 chi-đề 3 cùng với một nghìn vị Tỳ-kheo mà trước khi xuất gia là những Bà-la-môn bện tóc.
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật trú tại thành Vương-xá. Lúc ấy, có Tôn giả Tịnh Thiên 2 từ nước Tỳ-đề-ha 3du hành trong nhân gian rồi đến vườn Yêm-la 4 thuộc thành Di-hy-la 5.
Có một cuộc sống hạnh phúc là ước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân. Do đó, ý nghĩa hạnh phúc thật là đa dạng và khác biệt.
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân. Các con cần luôn nhớ rằng giờ mình thuộc về một thành phần khác với những gia chủ và những người bình thường ở thế gian.
Căn cứ theo lộ trình tu tập như Phật đã dạy, một Tỳ-kheo khi chưa giải thoát hoàn toàn thì việc thoái thất có thể diễn ra. Tuy nhiên, khi vị ấy đạt đến giải thoát hoàn toàn viên mãn, đã đạt đến bất động, thì không còn bất kỳ một sự thoái thất nào.
Nếu phương Đông có Triết học Ấn Độ là nền văn minh cổ xưa nhất thì phương Tây có Triết học Hy Lạp cổ đại là nền văn minh lâu đời nhất. Những thành tựu của nền văn minh phương Tây vẫn luôn khiến người ta phải ngưỡng mộ, khâm phục.
Tính Không và Chân Như trong Phật giáo không chỉ là những triết lý sâu sắc mà còn có giá trịthực tiễn lớn trong đời sống và tu hành. Sự nhận thức đúng đắn về các khái niệm này giúp chúng ta thoát khỏi các vọng tưởng và phân biệt, đạt đến sự an lạc và thanh tịnh.
Có một cuộc sống hạnh phúc là ước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân. Do đó, ý nghĩa hạnh phúc thật là đa dạng và khác biệt.
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Những tư tưởng triết học của ông giống như mạch nước ngầm nuôi dưỡng triết học phương Tây hơn hai thế kỷ qua. Trong đó, vấn đề “lý trí” và “niềm tin lý trí” là một phạm trù quan trọng và nổi bật nhất trong lĩnh vực đạo đức tôn giáo của I. Kant. Với ông, niềm tin vào một tôn giáo phải được thiết lập trên cơ sở của lý trí chứ không phải là niềm tin mù quáng. Chính quan điểm này đã vô hình trung đưa triết ...
Tổ Trần Nhân Tông, qua giáo pháp của ngài, đã gồm đủ mọi phạm trù, mọi lãnh vực của triết họcxưa nay. Ngài đã bao gồm mọi môn học của cái học tạo ra văn hóa nhân loại. Ngài đã thiết lập một nền tảng triết học cho Phật giáo Việt Nam và nói rộng ra, nền tảng văn hóa Việt Nam.
Tư tưởng nhân quả Phật giáo là tư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo. Tư tưởng nhân quả của Phật giáo có sự kế thừa nhất định đồng thời có sự phê phán các khía cạnh khác nhau trong các quan niệm chính thống và không chính thống của triết học Ấn Độ, để từ đó xây dựng nên hệ thống quan điểm nhân quả riêng.
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lực và trí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
Giáo lý của đức Phật gọi chung là Pháp đều vì mục đích giáo dục mang tính cấp thiết giúp chúng sinh thoát khổ được vui. Đó là những luận điểm chính yếu về giá trị nhân bản cao tột của đạo Phật.