Chi tiết tin tức Pháp chúng học trong hai truyền thống luật tạng 13:38:00 - 09/09/2025
(PGNĐ) - Trong Phật giáo, giới luật giữ một vị trí quan trọng trong việc duy trì đời sống phạm hạnh, bảo vệ sự thanh tịnh cá nhân và sự hòa hợp của Tăng đoàn.
Giới luật không chỉ là những điều răn ngăn ngừa hành vi sai trái mà còn là một phương tiện tu tập, đưa hành giả đến sự tự chủ, từ bỏ và giải thoát. Trong Luật tạng (Vinaya), các điều giới được hệ thống hóa theo những cấp độ khác nhau, trong đó Pháp chúng học (Pācittiya) là một nhóm giới tội thuộc loại nhẹ, tuy không dẫn đến đọa lạc hay mất giới thể, nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến oai nghi, phẩm hạnh và sự tín kính của cư sĩ đối với Tăng bảo. Pháp chúng học là nhóm điều giới chiếm số lượng lớn trong giới bổn của Tỳ-kheo-ni. Những điều giới này phản ánh chi tiết đời sống thường nhật của Tăng sĩ, từ lời nói, cử chỉ, đến các hành vi tế nhị trong tiếp xúc với cư sĩ, tài vật và cộng đồng. Chính vì mang tính gần gũi và thực tế cao, Pháp chúng học không chỉ là khung kỷ luật nội bộ mà còn là biểu hiện sống động của văn hóa Tăng đoàn trong từng thời đại và truyền thống. Luật tạng Pāli, đại diện cho truyền thống Nam truyền (Theravāda), được kết tập bằng tiếng Pāli từ hội nghị kết tập lần thứ nhất tại Ấn Độ, về sau phát triển mạnh tại các quốc gia như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và Campuchia. Trong khi đó, Tứ phần luật thuộc Đàm Vô Đức bộ (Dharmaguptaka) - một trong những bộ phái Phật giáo sau kỳ kết tập thứ hai - được truyền sang Trung Hoa và ảnh hưởng sâu đậm đến Phật giáo Phát triển, đặc biệt trong hệ thống giới luật tại Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Việc khảo sát và đối chiếu Pháp chúng học giữa hai hệ Luật tạng Pāli và Tứ phần luật không chỉ góp phần làm sáng tỏ những khác biệt trong quan niệm và thực hành giới luật giữa truyền thống Nam truyền và Bắc truyền, mà còn giúp nhận diện sâu sắc tiến trình phát triển cũng như tính linh hoạt của giới luật Phật giáo trong các bối cảnh văn hóa - xã hội khác nhau. Thông qua việc so sánh có hệ thống, người nghiên cứu có thể nhận ra không chỉ sự đa dạng về cách diễn giải, phạm vi áp dụng và phương pháp sám hối giữa hai truyền thống, mà còn thấy rõ nỗ lực duy trì cốt lõi của giới pháp trong khi thích ứng với nhu cầu thực tiễn từng thời đại. Sự khác biệt về ngôn ngữ, hoàn cảnh lịch sử và môi trường truyền bá đã góp phần hình thành nên những dị biệt trong hệ thống Pháp chúng học, dù cả hai đều khởi nguyên từ giới bổn nguyên thủy của Tăng đoàn. Một số điều giới có nội dung tương đồng nhưng cách triển khai lại khác biệt về mặt chi tiết và phạm vi thực hành; có điều giới mang cùng tên gọi nhưng được lý giải hoặc áp dụng theo những hướng khác nhau tùy theo truyền thống. Điều này cho thấy giới luật Phật giáo không phải là một hệ thống cứng nhắc mà là một tiến trình vận động linh hoạt, có khả năng thích nghi cao, đồng thời vẫn giữ được giá trị cốt lõi là hộ trì đạo tâm và bảo hộ Chánh pháp. Từ đó, việc nghiên cứu so sánh Pháp chúng học giữa hai truyền thống Luật tạng không chỉ có giá trị về mặt luật học, mà còn mở ra hướng tiếp cận liên tông - nối kết giữa các truyền thống luật chế Phật giáo. Đây cũng là cơ hội để người học giới hiểu rõ hơn giới pháp như một phương tiện nuôi dưỡng đạo lực, thanh tịnh thân tâm, và thể hiện sinh động tinh thần từ bi, trí tuệ trong giáo pháp Như Lai. 1. Khái lược danh từ Pháp chúng học Pháp chúng học (法眾學), Pāli là Sekhiya, nghĩa là huấn luyện học tập và thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Đó là những điều khoản về đi đứng, nằm ngồi, ăn uống… Sự thể hiện tác phong của vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sống đời phạm hạnh. Những hành vi tuy nhỏ nhẹ này, tuy tội nhẹ nhưng rất khó giữ. Nếu vô tình vi phạm thì phải tự sám hối, cố ý phạm thì phải nói với vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sám hối cho ba nghiệp thanh tịnh. 2. Pháp chúng học theo tinh thần hai bộ luật Giới này đối với Tỳ-kheo-ni theo Tứ phần luật có 100 học giới, riêng Luật tạng Pāli thì Tỳ-kheo-ni có 75 điều. Với Pháp chúng học, người viết chia theo thành nhóm, dựa trên nội dung tương ứng của các học giới giữa hai hệ thống luật. Có những học giới riêng biệt ở mỗi bộ luật; có những học giới có nội dung giống nhau hoàn toàn, có những học giới có điểm dị biệt nhỏ trong nội dung, và có vài học giới có nội dung hoàn toàn khác nhau giữa hai hệ thống luật. Cụ thể như sau: 2.1. Nhóm 1: Những học giới chỉ có riêng ở mỗi bộ luật, bộ luật kia không có. a. Luật tạng Pāli(2): Giới 19. Không được lắc lư đầu khi đi vào nhà cư sĩ(3). Giới 20. Không được lắc lư đầu khi ngồi trong nhà cư sĩ(4). Giới 40. Nên làm nắm cơm tròn đều(5). Giới 42. Không đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc ăn(6). Giới 45. Không nên ăn bằng cách cắn vắt cơm từng chút một (ăn nhâm nhi)(7). Giới 53. Không nạo vét bình bát khi ăn(8). Giới 54. Không liếm môi khi ăn(9). Giới 65. Không thuyết pháp cho người ôm đầu gối, trừ bệnh(10). Giới 68. Không thuyết pháp cho người ngồi trên chỗ ngồi, mình ngồi ở nền đất(11). b. Tứ phần luật: Giới 46, 52, 53, 56, 60, 61,62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85, 88, 91, 93, 94, 95, 97(12). 2.2. Nhóm 2: Những học giới có nội dung hoàn toàn tương đồng nhau. Đó là điều 12-19, 24-27, 29-32, 35-38, 40-43, 45, 47, 49-51, 54, 55, 57, 59, 86, 87, 89, 90, 92, 96, 98-100(13). 2.3. Nhóm 3: Những học giới có nội dung khá tương đồng nhưng vẫn tồn tại vài điểm dị biệt trong quy định của điều học. - Điều 1 (quấn nội y). Tứ phần luật: Quấn y tề chỉnh; Luật tạng Pāli: Quấn y (nội) tròn đều (paramaṇḍalaṃ nivāsessāmi)(14). - Điều 3 (không được mặc ngược y khi đi). Luật tạng Pāli: Vén y lên khi vào xóm; Tứ phần luật: Vắt ngược y khi vào nhà cư sĩ. - Điều 4 (không mặc ngược y khi ngồi). Như điều giới trên, chỉ khác là Luật tạng Pāli: Ngồi trong nhà xóm; Tứ phần luật: Trong nhà cư sĩ (bạch y). - Điều 7 (không lấy y trùm đầu khi đi). Luật tạng Pāli: Đi ở nơi xóm nhà; Tứ phần luật: Đi vào nhà bạch y. - Điều 8 (không lấy y trùm đầu khi vào nhà). Như học giới trên, chỉ khác là Luật tạng Pāli: Vào ngồi trong xóm; Tứ phần luật: Ngồi nhà đàn-việt (bạch y). - Điều 9 (không được vừa đi vừa nhảy khi đi vào nhà cư sĩ). Luật tạng Pāli: Không được đi vào nhà với sự nhón gót; Tứ phần luật: Không được vừa đi vừa nhảy. - Điều 11 (không được ngồi chồm hỗm trong nhà cư sĩ). Luật tạng Pāli: Không ngồi với sự ôm đầu gối; Tứ phần luật: Không ngồi chồm hỗm. - Điều 12 (mặc y nghiêm chỉnh). Luật tạng Pāli: Mặc y che kín người, đi nơi xóm nhà; Tứ phần luật: Mặc y tề chỉnh, không có chi tiết “đi ở xóm nhà”. - Điều 20 (không liếc nhìn hai bên khi đi). Luật tạng Pāli: Mắt phải nhìn xuống; Tứ phần luật: Mắt không được nhìn liếc. - Điều 21 (không liếc nhìn hai bên khi ngồi). Luật tạng Pāli: Mắt phải nhìn xuống; Tứ phần luật: Mắt không được nhìn liếc(15). - Điều 22 (không được nói khi đi vào nhà cư sĩ). Luật tạng Pāli: Nên nói giọng nhỏ nhẹ, thấp giọng (appasaddo); Tứ phần luật: Nên im lặng (tĩnh mặc 靜默). - Điều 23 (không được nói khi ngồi trong nhà cư sĩ)(16). - Điều 28 (thọ nhận canh). Luật tạng Pāli: Nhận phần canh vừa đủ (samasūpakaṃpiṇḍapātaṃ); Tứ phần luật: Nhận canh vừa ngang bát. - Điều 33 (không dùng cơm che khuất canh để xin thêm). Luật tạng Pāli: Dùng cơm che khuất canh súp hoặc thức ăn; Tứ phần luật chỉ có chi tiết cơm che canh, không có chi tiết thức ăn che thức ăn. - Điều 34 (không nhìn bát người bên cạnh rồi sinh tâm). Luật tạng Pāli: Nhìn bát người với ý tìm lỗi, bất mãn; Tứ phần luật: Sinh tâm tỵ hiềm. - Điều 39 (không đưa cơm liên tục vào miệng). Luật tạng Pāli: Không được đưa thức ăn vào một cách liên tục; Tứ phần luật: Không vắt cơm thảy vào miệng. - Điều 44 (không nên lấy lưỡi liếm thức ăn). Luật tạng Pāli: Lấy lưỡi liếm tay; Tứ phần luật: Lấy lưỡi liếm thức ăn. - Điều 48 (không nên đổ nước rửa bát ở nhà người). Luật tạng Pāli: Nước rửa bình bát có lẫn cơm; Tứ phần luật không có chi tiết này. - Điều 58 (không nói pháp cho người không bệnh mà mang guốc gỗ). Luật tạng Pāli: Người mang giày; Tứ phần luật: Người mang guốc gỗ. 2.4. Nhóm 4: Hai học giới có nội dung hoàn toàn khác nhau ở giữa hai bộ luật. Đó là điều 5 và điều 6(17). Điều 5. Tứ phần luật: Không quấn y nơi cổ khi vào nhà cư sĩ; Luật tạng Pāli: Không múa máy tay chân khi đi vào nhà người. Điều 6. Tứ phần luật: Không quấn y nơi cổ khi ngồi nhà cư sĩ; Luật tạng Pāli: Không múa tay, quơ chân khi ngồi trong nhà cư sĩ. Tổng quát lại, tuy rằng số lượng học giới ở mỗi bộ luật có những điểm giống nhau lẫn khác nhau nhưng trên tinh thần “ẩn ác dương thiện”, những điều học này vẫn có giá trị riêng đặc biệt của chúng. Vì là những học giới nhỏ nhặt thuộc về oai nghi nên nếu không ý thức chánh niệm, chúng ta rất dễ phạm phải. Do đó, chúng ta phải chuyên tâm ghi nhớ để hành trì. Nếu cố tình vi phạm, nên đối trước người kia thể hiện sự hối lỗi của mình; còn nếu trót phạm vì vô ý thì nên khởi tâm tự trách chính mình và cố gắng không tái phạm. Như vậy, đó là cách thức sám hối giải tội đối với Pháp chúng học. 3. Giá trị cốt lõi và công năng tu tập của Pháp chúng học trong hai truyền thống Luật tạng Như vậy, mặc dù tồn tại những khác biệt nhất định về số lượng học giới, hình thức diễn đạt và cấu trúc trình bày trong hai hệ thống Luật tạng Pāli và Tứ phần luật, song cả hai truyền thống đều cùng chung một định hướng căn bản: khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của Pháp chúng học như một phần không thể thiếu trong quá trình rèn luyện ba nghiệp - thân, khẩu, ý - được thanh tịnh và điều phục. Những học giới này tuy thuộc nhóm tội nhẹ (dukkatahay đột-kiết-la), không làm mất giới thể Tỳ-kheo nếu vi phạm, nhưng lại có vị trí đặc biệt trong toàn bộ hệ thống giới luật, bởi tính chất vi tế và phạm vi rộng lớn của nó đối với từng hành vi nhỏ nhặt trong đời sống hàng ngày của người xuất gia. Chính vì vậy, có thể nói rằng Pháp chúng học chính là một cơ chế huấn luyện nội tâm thông qua sự điều chỉnh liên tục các biểu hiện nơi thân và khẩu - như cách đi đứng, nhìn ngó, ăn uống, nói năng, ứng xử - nhằm nuôi dưỡng chánh niệm, trưởng dưỡng tàm quý và thể hiện sự đoan nghiêm, trang trọng của người hành trì giới luật. Điều đáng lưu ý là, do những học giới này liên hệ mật thiết đến thói quen sinh hoạt hàng ngày, vốn được huân tập từ lâu đời, nên việc trì giữ trọn vẹn từng điều học không hề đơn giản. Sự vi phạm, dù là vô tình hay cố ý, đều có thể dễ dàng xảy ra trong một khoảnh khắc thiếu tỉnh thức. Do đó, việc sám hối thường xuyên - dù không bắt buộc đối với nhóm tội nhẹ - vẫn được khuyến khích thực hành như một phương tiện thiết yếu để làm mới tâm thức, khơi dậy tâm tàm quý và củng cố phạm hạnh của người xuất gia. Việc nghiên cứu và đối chiếu nhóm học giới trong hai truyền thống Luật tạng không chỉ có giá trị học thuật ở phương diện làm sáng tỏ các điểm tương đồng và khác biệt về nội dung, hình thức và phương pháp thực hành giới luật, mà còn mở ra một góc nhìn sâu sắc về năng lực thích nghi của giới luật Phật giáo trong tiến trình truyền thừa và triển khai tại các vùng văn hóa - xã hội khác nhau. Sự chuyển hóa về mặt ngôn ngữ, cách thức chế giới, phạm vi ứng dụng và nghi thức sám hối của Pháp chúng học trong mỗi hệ thống Luật tạng đều phản ánh tính linh hoạt, mềm dẻo mà không đánh mất cốt lõi của tinh thần giới luật nguyên thủy do Đức Phật thiết lập: đó là lấy sự nhiếp phục tâm và thanh tịnh hóa thân hành làm nền tảng cho đời sống phạm hạnh. Qua đó có thể khẳng định rằng Pháp chúng học không đơn thuần là một hệ thống giới luật hình thức, mang tính kỷ luật bên ngoài, mà còn là một pháp môn tu học sâu sắc và thực tiễn. Việc hành trì những học giới này giúp hành giả thường xuyên quay về chính mình, nhận diện các tập khí thô tế, và thiết lập chánh niệm trong từng động tác thường nhật - từ cách bước chân, cúi đầu, đưa tay, đến việc tiếp xúc với người khác một cách đúng mực. Nhờ đó, người xuất gia không chỉ giữ gìn phẩm chất thanh tịnh trong nội tâm, mà còn góp phần biểu hiện hình ảnh trang nghiêm, mẫu mực của Tăng đoàn trước mắt hàng cư sĩ và xã hội. Tóm lại, Pháp chúng học - dù là trong Luật tạng Pāli hay Tứ phần luật - đều là phương tiện trọng yếu giúp người xuất gia rèn luyện oai nghi tế hạnh, phát triển nội tâm tỉnh giác và nuôi lớn lòng tàm quý. Việc so sánh hai hệ thống không những làm sáng rõ các khác biệt mang tính lịch sử - văn hóa trong tiến trình phát triển giới luật, mà còn nhấn mạnh tính nhất quán về mặt mục tiêu và công năng của học giới: đó là sự hộ trì phạm hạnh và làm nền tảng cho đời sống giải thoát của hàng Thánh đệ tử. Kết luận Nghiên cứu so sánh Pháp chúng học (Sekhiya) giữa Luật tạng Pāli và Tứ phần luật cho thấy, dù cùng phát xuất từ giới bổn nguyên thủy do Đức Phật chế định, hai hệ thống Luật tạng đã có những điểm tương đồng và dị biệt đáng kể trong nội dung, hình thức diễn đạt và phương pháp thực hành. Điều này phản ánh không chỉ sự khác biệt về môi trường văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ, mà còn cho thấy tính năng động và khả năng thích ứng của giới luật Phật giáo qua tiến trình truyền bá và triển khai trong các truyền thống khác nhau. Xét về bản chất, Pháp chúng học là nhóm giới thuộc loại nhẹ, không làm mất giới thể khi vi phạm, nhưng có vai trò đặc biệt trong việc điều chỉnh oai nghi và rèn luyện chánh niệm nơi thân, khẩu và ý của người xuất gia. Những điều học này tuy đơn giản về hình thức, song đòi hỏi sự tỉnh thức và công phu tu tập bền bỉ để có thể duy trì một cách trọn vẹn trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, đây không chỉ là giới luật mang tính kỷ cương, mà còn là phương tiện thiết yếu trong quá trình huấn luyện nội tâm, gìn giữ phẩm hạnh và biểu hiện tinh thần phạm hạnh trước đại chúng. Những điểm giống nhau giữa hai hệ thống - như số lượng học giới căn bản, nội dung hướng đến việc điều phục thân khẩu ý, và tinh thần hướng thượng - chứng minh sự thống nhất trong tư tưởng giới luật Phật giáo. Ngược lại, các dị biệt phản ánh sự thích nghi sáng tạo của giới luật khi đi vào các vùng văn hóa và hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đây không phải là mâu thuẫn, mà là biểu hiện linh hoạt của cùng một nguyên tắc: “tùy duyên bất biến” - tinh thần ứng cơ tiếp vật nhưng không rời bản chất của con đường phạm hạnh. Trong bối cảnh hiện đại, khi đời sống xuất gia đối diện với nhiều thách thức về hình ảnh, phẩm hạnh và khả năng hội nhập, việc quay về học hỏi các nhóm giới như Pháp chúng học có ý nghĩa đặc biệt: giúp người tu trẻ rèn luyện tác phong đạo đức, giữ gìn oai nghi trong đời sống thực tiễn, đồng thời củng cố niềm tin của hàng Phật tử đối với Tăng bảo. Việc nghiên cứu giới luật không nên dừng lại ở bình diện văn bản, mà cần được tiếp cận một cách liên tông, liên ngành, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa học thuật và thực hành. Đây cũng là hướng đi cần thiết để luật học Phật giáo tiếp tục đóng vai trò tích cực trong đời sống tu tập và giáo dục Tăng tài trong thời đại mới. _______ (1) Ở phạm vi bài nghiên cứu này, người viết chủ yếu so sánh Pháp chúng học theo Luật tạng Pāli và Tứ phần luật. (2)Số thứ tự được đánh theo số thứ tự trong Luật tạng Pāli. (3) Phân tích giới Tỳ-khưu-ni,tr.405. (4)Sđd., tr. 406. (5) Sđd., tr. 419. (6)Sđd., tr. 420. (7)Sđd., tr. 422. (8)Sđd., tr. 428. (9)Sđd., tr. 429. (10)Sđd., tr.438. (11) Sđd., tr.440. (12)Số thứ tự được đánh theo trong Tứ phần luật. Vì nhiều điều giới nên tác giả không ghi lại nội dung học giới, chỉ ghi số giới. Xem Tứ phần luật, tập 2. (13)Số thứ tự được đánh theo trong Tứ phần luật(những nội dung này cũng có trong Luật tạng Pāli, chỉ khác nhau về số thứ tự). Vì nhiều điều giới nên tác giả không ghi lại nội dung học giới, chỉ ghi số giới. Xem Luật Tứ phần, HT. Thích Đỗng Minh, NXB.Phương Đông, 2013; và Phân tích giới Tỳ-khưu-ni, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017. (14)Theo Pháp thức và ý nghĩa hành trì giới luật, TK.Tâm Hạnh soạn, Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Thượng tọa bộ phải mặc y che kín người. Y nội phải mặc trên ngang rún, cách đầu gối 8 ngón tay. Hơn nữa, thời Đức Phật còn tại thế (cả đến Theravāda ngày nay, thêm Hệ phái Khất sĩ), quần tức là y nội (An-đà-hội) chứ không có quần hai ống như ngày nay, mà lúc ấy chỉ có y che ghẻ và y tắm mưa. (15)Như học giới 20, chỉ khác là ngồi trong nhà cư sĩ. (16)Như giới trên, chỉ khác là ngồi trong nhà cư sĩ. (17)Xem Luật Tứ phần, HT.Thích Đỗng Minh, NXB.Phương Đông, 2013; và Phân tích giới Tỳ-khưu-ni, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017. Tài liệu tham khảo: Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017. Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013. Một số vấn đề giới luật, HT.Thích Phước Sơn, NXB.Phương Đông, 2006. Luật học tinh yếu, HT.Thích Phước Sơn, NXB.Phương Đông, 2006. Khuyến phát Bồ-đề tâm văn, HT.Thích Tuyên Hóa dịch, NXB.Hồng Đức, 2016. Pháp thức và ý nghĩa hành trì giới luật, TK.Tâm Hạnh soạn, NXB.Phương Đông, 2007. (NSGN 353) Thích nữ Liên Liên
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |