Bản phiên dịch Phạn - Việt này được tạo thành cho lớp bồi dưỡng tiếng Phạn tại Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM khoảng vào năm 2018. Phần Sanskrit vốn dựa vào thủ bản được cất giữ tại ngôi chùa cổ Hōryuji ở thành phố Nara Nhật Bản, được hiệu chính lần đầu bởi cố học giả Nakamura Hajime (1) .
Kiến tánh thành Phật luận của Thiền sư Chân Nguyên là một tác phẩm độc đáo của Thiền phái Trúc Lâm giai đoạn phục hưng vào thời Lê. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác của tác giả khi tập trung vào việc làm rõ tông chỉ của Thiền, nhưng tác phẩm có thể sử dụng cho các tông phái khác.
Tịch Thiên (Śāntideva, khoảng thế kỷ VII - VIII CN) là một Tăng sĩ nổi tiếng của Phật giáo Ấn Độ. Ngài giảng dạy tại Nālandā, trường đại học Phật giáo gần Patna Ấn Độ ngày nay, nơi có 10.000 sinh viên theo học và có một thư viện 11 tầng, trong nhiều thế kỷ là một trong những đại học quan trọng của thế giới.
Trong bối cảnh hiện đại, con người đối diện với nhiều áp lực nội tại và xã hội. Việc thực tập thiền theo tinh thần Kinh Kim Cương không chỉ mang tính chất siêu hình mà còn có tính ứng dụng sâu rộng: giúp con người tháo gỡ dính mắc, sống tự do và phụng sự một cách vô ngã.
Đức Phật nhấn mạnh sự quan trọng của giới hạnh như phương tiện đi đến cứu cánh giải thoát rốt ráo (chân giải thoát) vì hành trì giới luật giúp phát triển định lực, nhờ định lực mà chúng ta thông hiểu giáo pháp, thông hiểu giáo pháp giúp chúng ta tận diệt tham sân si, tiến bộ và đạt được an lạc, giác ngộ, và giải thoát.
Kinh lượng bộ (Sautrāntika) thường được nhắc đến như một trường phái triết học lớn của Phật giáo Ấn Độ bên cạnh những trường phái nổi tiếng khác như Nhất thiết hữu bộ, Trung quán phái (Mādhyamika) và Duy thức phái.
Điểm đặc biệt tạo nên giá trị đặc sắc cho Phật giáo đó là triết thuyết về tinh thần bình đẳng tuyệt đối. Đức Phật luôn nhấn mạnh đến tinh thần tự lực để giải thoát và đạt được những gì mình mong muốn.
Các vị Tỳ-Khưu, thường nên nhất tâm siêng cầu đạo xuất-thế. Hết thảy pháp động hay bất động ở thế-gian, đều là tướng-trạng bại-hoại bất an. Các vị hãy ngưng, đừng nên hỏi nữa! Thời-gian sắp qua, Ta muốn diệt-độ. Đây là lời giáo-hối tối-hậu của Ta!”
Nếu vô thường là khổ thì nỗi khổ này có mặt là do có sắc, do sự tập khởi của sắc, sự dính mắc nơi sắc, do chấp ngã nơi sắc, khiến chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói cổ, phải rong ruổi đường dài, luân hồi sanh tử, lưu chuyển sanh tử.