-
Giáo lý vô thường trong đạo Phật không phải là một lý thuyết, luận thuyết. Nó là một sự thật. Và sự thật này đòi hỏi chúng ta phải thực tập, quán chiếu để thể nhập, chứng ngộ.
-
Hôn trầm là trạng thái nặng nề của cơ thể và mờ tối của tâm thức, kéo ta vào tâm trạng uể oải, lừ đừ và chán nản. Đây là một tâm lý tiêu cực, trầm nịch làm chướng ngại sự tu tập thiền định cũng như trong sinh hoạt đời thường.
-
Phạm hạnh, thánh hạnh hay tịnh hạnh là lối sống trong sạch, thanh tịnh, minh triết của các đệ tử Thế Tôn. Chính đời sống tối giản về thọ dụng, nghiêm túc về giới luật, tinh cần thanh lọc tâm của các Tỳ-kheo được gọi là phạm hạnh. Chính các yếu tố hỗ trợ này sẽ giúp cho hành giả có nhiều thuận duyên để kiến lập Giới-Định-Tuệ và thành tựu giải thoát.
-
Tôi đã trải qua ít nhất là 60 năm làm công tác hoằng pháp và trước nữa tôi đã có duyên làm thị giả các Hòa thượng, từ Hòa thượng Pháp chủ sáng lập Giáo hội Tăng-già Nam Việt cho đến Hòa thượng Thiện Hoa. Vì vậy, việc hoằng pháp tôi đã thực hiện trong thời gian rất dài và Tăng Ni ngày nay kế thừa truyền thống Phật giáo Việt Nam.
-
Người tu từ thời Thế Tôn cho đến tận ngày nay đều không làm ra của cải mà sống dựa vào tín thí. Hàng tín đồ vừa kính lại vừa thương người tu hành nên nhín bớt phần tiêu dùng của mình để dâng cúng nhằm tích lũy phước báo về sau.
-
Gần nửa thế kỷ du phương hoằng hóa, thuyết pháp độ sinh của Đức Phật chính là thị hiện ba sự giáo hóa. Bằng cách sử dụng các phương tiện vô ngại của bậc Giác ngộ, Thế Tôn hầu hết là thuyết giảng giúp người khai tâm mở trí, phát nguyện tu hành gọi là ‘thị hiện giáo giới’.
-
Thái tử Tất-đạt-đa ra đời, thấy được những bất hạnh của cuộc sống nên Ngài bỏ ngai vàng, cung son điện ngọc, vợ đẹp con thơ ra đi tìm đường giải thoát khổ não cho chúng sinh. Bấy giờ có hai vị đạo sĩ Bà-la-môn nổi tiếng nhất là Alar Kalam và Uddaka Ramputta, Ngài lần lượt tìm đến học đạo, tu tập với từng người nhưng không đạt được giải thoát tối hậu.
-
Giới, Phạn ngữ là “thi-la” (śīla). Luận Đại trí độ quyển 13 nói: “Thi-la, thử ngôn tính thiện, hiếu hành thiện đạo, bất tự phóng dật, thị danh thi-la. Hoặc thọ giới hành thiện, hoặc vô thọ giới hành thiện, giai danh thi-la.” Tức nghĩa của chữ thi-la là tính thiện, thích hành nghiệp thiện, không tự phóng đãng.
-
Thuật ngữ uẩn (蘊), nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm: Tắc-kiện-đà (塞健陀), dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi (saṃskṛta).
-
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn. Trong đó, Chánh kiến tức nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp là chi phần quan yếu, có vị trí đứng đầu (Chánh kiến, …, Chánh định). Nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp sẽ quyết định sự nghiệp tu hành luôn đúng với lời Phật dạy, không bị thiên lệch, thẳng đến giải thoát Niết-bàn.
-
Thế giới từ ngàn xưa cho đến nay thường xảy ra chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, hận thù, xung đột, tỵ hiềm, ganh ghét, con người độc ác với nhau bởi do lòng ham muốn quá đáng. Đức Phật đã thấy rõ cái vòng lẩn quẩn của tất cả chúng sinh, muốn bảo tồn mạng sống cho mình thì phải tương tàn, tương sát lẫn nhau; lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu không có ngày cùng.
-
Cốt tủy của mọi pháp hành theo Phật giáo là thành tựu giới-định-tuệ. Thông thường quan hệ giới-định-tuệ được ghi nhận theo hình tháp, trong đó giới là nền tảng, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Thực tiễn thì quan hệ giới-định-tuệ sinh động hơn, luôn tương tác lẫn nhau, có mặt trong nhau và hỗ trợ lẫn nhau theo cách tức giới, tức định, tức tuệ.
-
Quán bất tịnh là một đề mục thiền rất quan trọng. Bất cứ ai tu học theo giáo pháp Thế Tôn, muốn vượt qua chướng ngại tự thân và tiến bộ tâm linh đều phải thực hành pháp thiền này. Bất tịnh có nghĩa là nhơ nhớp, không sạch, không bền chắc. Đây là một sự thật của thân này. Chỉ cần lưu tâm, xem xét ngay nơi chính bản thân mình cũng giúp nhận ra sự bất tịnh, nhơ bẩn, kể cả lúc mình được xem là sạch sẽ nhất.
-
Sự tái sanh là giáo lý căn bản của Phật giáo. Hạnh nguyện của chư vị Bồ tát thăng hoa trên lộ trình tiến đến Phật quả đều y cứ trên giáo lý tái sanh.
-
Đầu-đà (dhuta) là tịnh hạnh chứ không phải khổ hạnh hành xác. Thực hành hạnh đầu-đà tuy khắc khổ nhưng hỗ trợ rất lớn cho hành giả trong tiến trình tu tập. Thế Tôn luôn tán thán hạnh đầu-đà, vì hạnh lành này trợ duyên tích cực cho hành giả hướng đến thành tựu giới-định-tuệ.
-
Ý tưởng bất ngờ đến từ một buổi chiều ngồi bên đứa cháu giở sách toán Hình học lớp 11, bài Phép đồng dạng có câu: “Đừng thấy bóng của mình ở trên tường rất to mà tưởng mình vĩ đại” của Pythagore (570 - 496 TCN), một nhà khoa học, toán học và cũng là một nhà triết học người Hy Lạp.
|
|