Chi tiết tin tức Một số nhà sư trụ trì chùa Cao - Sài Sơn qua bia truyền đăng 18:39:00 - 04/03/2025
(PGNĐ) - Chùa Cao trên núi Sài vốn nổi danh trong khu danh thắng chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội.
Chùa tên chữ là Đỉnh Sơn tự, bên cạnh có hang Thánh Hóa (Hiển Thụy am) là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh tu luyện, thành đạo, cũng là nơi ngài giải thi đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu, sau trở thành vua Lý Thần Tông. Từ khi chùa hình thành đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tuy chùa luôn có các vị Tăng Ni trụ trì, nhưng ngoài Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và đệ tử của ngài là Đại Sa-môn Huệ Hưng là có tài liệu ghi chép, thì nhiều vị còn tháp mộ nhưng không còn truyền lại công tích, sự Đạo nghiệp cho ra văn nhà chùa. Mãi đầu thế kỷ XX, khi Thiền sư Thích Thanh Thi trụ trì mới ghi lại hành trạng của sư tổ và sư phụ của mình, nhờ soạn văn bia chữ Hán, khắc lên vách hang Thánh Hóa năm 1927 và in lại trong sách Sài Sơn thi lục do ông chủ biên năm 1930.
Về văn bia Bia Truyền đăng chùa Cao - Sài Sơn với tên nguyên văn chữ Hán là Truyền đăng bi ký 傳燈碑記 được khắc năm 1927, niên hiệu Bảo Đại năm thứ hai. Truyền đăng bi ký có 588 chữ, được Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn bằng chữ Hán qua lời kể của nhà sư trụ trì là Như Tùng Thích Thông Thi trụ trì chùa Cao - Đỉnh Sơn tự. Bia khắc trên vách hang Thánh Hóa, ngay gần cửa vào theo dạng bia ma nhai, hình chữ nhật đứng, cách nền hang hiện nay khoảng 1,5 mét. Năm 1927, Hòa thượng Như Tùng ghi chép lại công tích, hành trạng của sư tổ Lan Hương và sư phụ Tâm Minh, nhờ Cử nhân Hoàng Thúc Hội người làng Cót (nay thuộc Cầu Giấy, Hà Nội) soạn lại bằng chữ Hán, cư sĩ Nguyễn Đặng Huỳnh người Bình Xá, Thạch Thất viết chữ, làm thành bia Truyền đăng khắc trên vách hang Thánh Hóa. Năm 1930, niên hiệu Bảo Đại thứ năm, Hòa thượng Như Tùng chủ biên sách Sài Sơn thi lục, cho in nguyên văn Truyền đăng bi ký vào cuối sách từ tờ số 66 đến 68, mỗi tờ gồm 2 trang. Văn bản Sài Sơn thi lụchiện lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam tại Hà Nội có 1 bản với ký hiệu R.1622, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội có 2 bản với ký hiệu VHv.2358 và A.3033. Các bản Sài Sơn thi lục này đều là bản khắn in, chữ khá rõ nét. Văn bản Truyền đăng bi ký chúng tôi sử dụng tham khảo trong bài viết này là bản lưu tại Thư viện Quốc Gia tại Hà Nội có 1 bản với ký hiệu R.1622. Điểm chú ý của văn bia là dù ở cuối thời Nguyễn nhưng vẫn tuân thủ việc kỵ húy, các chữ thời 時 đổi thành thìn 辰 để tránh húy vua Tự Đức. Nhận thấy bia Truyền đăng chùa Cao - Sài Sơn là tư liệu quý để nghiên cứu lịch sử truyền thừa và hành trạng các vị trụ trì chùa Cao - chùa Thầy nói riêng và Phật giáo miền Bắc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nói chung, do vậy chúng tôi dùng nguyên văn chữ Hán của văn bia được in trong sách Sài Sơn thi lục, tiến hành phiên âm, dịch, giới thiệu toàn văn văn bia này. Về tác giả Cử nhân Hoàng Thúc Hội hiệu Cúc Hương, tự Gia Phủ, sinh năm 1870 tại làng Yên Quyết, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội). Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1906) niên hiệu Thành Thái thứ 18 triều Nguyễn, song không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học. Ông mở trường dạy chữ Hán, có nhiều môn sinh ở vùng Sài Sơn và có công giúp đỡ Hòa thượng Như Tùng rất nhiều trong việc chỉnh lý thư tịch, khắc in kinh sách, soạn thảo văn bia, trong đó có Truyền đăng bi ký. Hiện nay Cử nhân Hoàng Thúc Hội còn để lại cho đời hàng chục tác phẩm sáng tác thơ văn và biên soạn thư tịch gắn với vùng thắng tích Sài Sơn chủ yếu nằm trong hai cuốn sách Sài Sơn thi lục và Sài Sơn thực lục(1). Ông mất năm Mậu Dần (1938), hưởng thọ 68 tuổi. Sinh thời, đạo đức và tài văn chương của ông được nhiều sĩ phu kính trọng.
Về các nhà sư trong Truyền đăng bi ký 1. Hòa thượng Lan Hương Hòa thượng Lan Hương, Thích hiệu Thanh Hà quê tại xã Khắc Niệm, Bắc Ninh. Ngài mất ngày 15 tháng 5 năm Kỷ Hợi (1899) thời vua Thành Thái, hưởng thọ 80 tuổi. Người xưa tính cả tuổi mụ nên năm sinh của ngài là năm 1820. Ban đầu ngài theo nghiệp nhà Nho, sau xuất gia đầu Phật. Ngài xuất gia ở chùa Đại Giác làng Bồ Sơn (Bắc Ninh), làm đệ tử của Hòa thượng Phúc Điền. Ngài vốn là người viết chữ đẹp, ra sức luyện viết chữ khải, tuổi tuy già cả mà ngày ngày đều ám tả, di bút đến thời điểm khắc Truyền đăng bi ký vẫn còn lại rất nhiều. Trong tác phẩm Thiền sư Việt Nam, ở mục Hòa thượng Phúc Điền, Hòa thượng Thích Thanh Từ viết : “Thiền sư Phúc Điền là người có công lớn trong việc bảo tồn sử liệu Phật giáo. Ông biên soạn sách Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục. Ông trú trì chùa Liên Tông, làng Bạch Mai, tỉnh Hà Đông, nhưng công việc san khắc này được thực hiện tại chùa Bồ Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Công việc san khắc, ông giao cho Thiền sư Phương Viên, giám tự chùa Bồ Sơn, đứng ra chủ trì. Một vị Tăng chùa Bồ Sơn pháp danh làThanh Hà phụ trách việc viết chữ khắc bản”(2). Có lẽ vị phụ trách viết chữ, khắc bản Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục chính là Hòa thượng Lan Hương Thanh Hà. Khi quan Đại sứ Bắc Kỳ là Nguyễn Đăng Giai cho xây dựng chùa Báo Ân bên bờ hồ Hoàn Kiếm ông đã thỉnh Hòa thượng Phúc Điền trụ trì. Hòa thượng Phúc Điền cử đệ tử Lan Hương đến trông nom chùa cảnh. Sau khi Hòa thượng Phúc Điền viên tịch, ngài là người soạn “Cúng Hòa thượng khoa” cho Hòa thượng Phúc Điền(3). Đến năm 1882, do chiến tranh, chùa hoang tàn đổ nát, không thể dựng lại, Hòa thượng Lan Hương đi vân du nhiều nơi như: Thúy Sơn Mai Động, Thoán Lĩnh Mỹ Giang, v.v. nhưng không trụ trì cố định ở nơi nào. Đến năm 1897, thời vua Thành Thái, dân làng mới cung thỉnh ngài về trụ trì chùa Cao - Đỉnh Sơn tự. Ngài trụ trì được ba năm thì viên tịch, táng ở chân núi, tên tháp là Phổ Oánh, Thích hiệu Thanh Hà, Không Không nhục thân Bồ-tát. 2. Hòa thượng Tâm Minh Hòa thượng Tâm Minh là đệ tử của Hòa thượng Lan Hương, không rõ năm sinh và quê quán ở đâu. Ngài trụ trì chùa Cao - Đỉnh Sơn tự từ khi sư phụ viên tịch năm 1899, có công xây sửa chùa chiền; sửa đền Khải Thánh, đắp tượng Thánh Mẫu, dựng lầu chuông, xây bếp, đồng thời tu tạo tự viện các nơi, làm tiếp công đức của sư phụ Lan Hương khi còn tại thế. Năm 1906, ngài tu tạo chùa Già Tây, xã Bảo Vệ, huyện Phúc Thọ, ngày 10 tháng 12 năm này, ngài mất mà việc chưa xong. Đến khi hết tang, Hòa thượng Như Tùng đón xá-lợi thầy về táng tại chân núi, tên tháp là Tây Lĩnh, Thích hiệu Kiến Tính, nhục thân Bồ-tát. 3. Hòa thượng Như Tùng Hòa thượng Thích Thông Thi, hiệu Như Tùng, pháp danh Mậu, dân quanh vùng quen gọi là Sư ông Mậu. Quê ngài ở làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội, chưa rõ năm sinh, năm mất, hiện nay nhà chùa giỗ ngài ngày 24 tháng 3 âm lịch. Theo Truyền đăng bi ký, đến năm 1906, sau khi Tôn sư Tâm Minh viên tịch, ngài chính thức trở thành trụ trì chùa Cao, năm 1927 khắc bia Truyền đăng, năm 1930 khắc in bộ Sài Sơn thi lục, năm 1940 khắc in bộ Sài Sơn thực lục. Các công trình, thự tịch trên cho thấy, trong thời gian trụ trì, Hòa thượng Như Tùng đã dành hết tâm sức cho việc xây dựng chùa cảnh, biên soạn, biên tập kinh sách và hoằng dương Phật pháp. Ngài xây dựng Bất nhị pháp môn, sửa đường lên núi, tôn tạo tòa Tam bảo và am Hiểm Thụy, quy tập hài cốt trong hang Cắc Cớ về bể chung làm nơi tưởng niệm. Trong khu vực chùa Thầy còn lưu lại khá nhiều câu đối, văn bia, di văn của ngài. Bên cạnh bia Truyền đăng chùa Cao - Sài Sơn mà Hòa thượng Như Tùng là người kể cho Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn lại bằng chữ Hán, ngài còn soạn một tấm bia Truyền đăng khác bằng chữ Nôm ở chùa Mai Trai - Linh Ứng tự tại thị xã Sơn Tây. Hòa thượng cũng biên tập, khắc in kinh sách, đặc biệt là sách về Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và vùng đất Sài Sơn: Sài Sơn Thánh tổ Đại thừa chân kinh, Sài Sơn thực lục, Thánh tổ linh sám, Sài Sơn thi lục, Sài Sơn văn tập, v.v. Kết quả của các việc làm đó đã khiến cho cảnh chùa ngày càng thu hút sự mến mộ của khách thập phương. Nhiều người đã ca tụng công đức ấy, chẳng hạn như Cử nhân Nguyễn Sư Hoàng khi được đọc tập Sài Sơn thi lục đã viết: “Đáng khen thay nhà sư Như Tùng đã có chí có học lại có tâm với bảo tồn vốn cổ, thực đáng là hào kiệt ít thấy trong hàng Sa-môn vậy”(4). Hòa thượng Như Tùng hoạt động tích cực trong phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, là diễn giả nổi tiếng ở vùng Canh Diễn (Hoài Đức - Hà Nội ngày nay). Trong sách Đông Kinh Nghĩa thục - góc nhìn sử Việt của Chương Thâu có viết: “Sư ông Như Tùng ở chùa Cao (Sài Sơn, Sơn Tây) là một cổ động viên rất đắc lực của Nghĩa thục, vì giọng bình văn lên bổng xuống trầm của ông rất có khả năng thuyết phục người nghe. Nơi diễn thuyết đầu tiên là làng Phương Canh (Hoài Đức) sau đó là các xã Tây Tựu, Hạ Lôi, Thượng Cát, Yên Lộ, Tây Mỗ (thuộc Hoài Đức), Đan Hội (Đan Phượng), Phúc Diễn (Ứng Hòa), Nhị Khê (Thường Tín)”(5). Năm 1907, Hòa thượng Như Tùng cũng là người mang chi nhánh của Đông Kinh Nghĩa thục về hoạt động ở miếu Vũ trước cửa chùa Cả, chùa Cao, chùa Một Mái và đền Thượng trong khu vực danh thắng chùa Thầy. Nhiều cụ đồ Nho ở các làng như các cụ Phan Kiên Tuyên, Nguyễn Tất Khuyến, Nguyễn Đình Tài, v.v. đã tham gia chi nhánh của Nghĩa thục. Miếu Vũ thôn Thụy Khuê thường là nơi tổ chức bình thơ ca yêu nước(6). Ngài cũng tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo ở tỉnh Sơn Tây, là chánh đại biểu Tăng của Chi hội Phật giáo Bắc Kỳ tỉnh Sơn Tây. Ngài có nhiều bài phát biểu, bài viết, phổ khuyến và các hoạt động khác nhằm thúc đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo phát triển(7). Truyền đăng bi ký chùa Cao - Sài Sơn là một tư liệu Hán Nôm quý của giai đoạn cận hiện đại. Tấm bia này sẽ đưa ra những gợi mở để phát triển nghiên cứu lịch sử truyền thừa Phật giáo và tình hình Phật giáo miền Bắc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chúng tôi hy vọng rằng việc giới thiệu, phiên dịch tấm bia này sẽ cung cấp thêm thông tin, có ích cho việc nghiên cứu Phật học.
Nguyên văn chữ Hán: 傳燈碑記 髙山天作。似别一梵宇乾坤也。自俆琞修煉斯山。三生道果。再世聲聞。又成一勝境靈跡也。辰劂後住持于此也者。代有其人。今無聞者。昔無傳也。暨我祖師卓鍚心花覺樹。奕枼流芳。茂其宗派也。 師祖法名蘭香。
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |