Chi tiết tin tức

VIỆT NAM Thi Sử Hùng Ca

21:25:00 - 15/01/2015
(PGNĐ) -  Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.

Mục Lục

01. Lời giới thiệu                                                            SG Phạm Trần Quốc Việt                              

02. Một cái nhìn về Thi Sử Hùng Ca                                  Nhật Thu

03. Dẫn nhập                                                                Tác giả

04. Non nước Việt Nam (về địa lý)

05. Mở lối (vào Sử)          

06. Từ Nguồn Cội đến Bắc Thuộc

07. Thời kỳ Bắc Thuộc, cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng - Bà Triệu

08. Cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế - Mai Hắc Đế

09. Cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương

10. Cuộc khởi nghĩa của Họ Khúc - Họ Dương

11. Ngô Quyền - Chiến thắng Bạch Đằng, chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc

12. Triều đại Nhà Đinh (968-980)

13. Nhà Tiền Lê (980-1009)

14. Triều đại Nhà Lý (1010-1225)

15. Triều đại Nhà Trần (1225-1400)

16. Nhà Hồ và Hậu Trần (1400-1413)

17. Lam Sơn Lê Lợi và Triều đại Lê Sơ (1428-1527)

18. Nam - Bắc Triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh (1527-1788)  

19. Triều Nguyễn Tây Sơn (1778-1802)

20. Triều Nguyễn Gia Long (1802-1945)

21. Một cái nhìn về Phương Tây

22. Việt Nam trăm năm Pháp Thuộc

23. Năm năm Nhật xuất hiện và 9 năm Pháp quay lại

24. Một mốc thời gian

25. Em tôi, còn đó quê hương - Lịch sử nối dài

**************

Lời Giới Thiệu

Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca.

Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.

Tôi xin trân trọng giới thiệu và xin mời quí vị, chúng ta cùng đi trên khắp nẻo đường đất nước để tâm tư lắng đọng cùng nhìn lại ngọn nguồn dân tộc, từ nguồn cội đến thời kỳ Bắc Thuộc “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, ba mươi năm . . .” như lời một bài hát của nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn.

Em tôi ơi, xin đừng buồn vì quê hương còn đó, dòng vận mệnh lịch sử sẽ nối dài tiếng gọi Việt Nam như Mặc Giang đã viết :

“Việt Nam non nước một nhà

Muôn ngàn năm nữa vẫn là Việt Nam”

Sài Gòn lập thu Ất Dậu 2005

SG PHẠM TRẦN QUỐC VIỆT

*****

Một cái nhìn về Thi Sử Hùng Ca

      Lục bát là thể thơ đặc biệt của người Việt Nam, từ thuở còn nằm nôi, vầng thơ Lục Bát qua tiếng ru của mẹ đã thấm vào tâm hồn. Lớn lên, khi tiếp xúc với văn hóa, được hai tác phẩm thơ Lục bát là Kim Vân Kiều của Thi hào Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của Cụ Đồ Chiểu soi sáng. Vì vậy, thơ Lục bát đã thấm sâu trong mỗi tâm hồn của người Việt.

Hôm nay, đọc Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của nhà thơ Mặc Giang, thật sự tôi vô cùng thán phục. Bởi ngoài hai tác phẩm vĩ đại, Lục Vân Tiên và Kim Vân Kiều, còn một số tác phẩm đồ sộ xa xưa không danh tác giả nhưng bút trụ trong nền văn học như Phan - Trần, Quan Âm Thị Kính, Bích Câu Kỳ Ngộ, Nhị Độ Mai. Như vậy, thể thơ Lục bát trường thiên (một vài ngàn câu), ít có thi nhân nào thực hiện. Thông thường chỉ vài ba hoặc năm bảy chục câu mà thôi. Như vậy, viết thơ Lục bát trường thiên là một thách thức khó khăn. Ở Kim Vân Kiều và Lục Vân Tiên  thì tác giả dựa vào cốt chuyện Trung Hoa, còn Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, Mặc Giang dựa chính vào lịch sử dân tộc Việt Nam trải dài và xuyên suốt qua các triều đại. Quả thật đây là khó khăn rất lớn khi vận dụng âm sắc thơ Lục bát để chuyển tải đề tài lịch sử .

Thi Sử Hùng Ca sau khi đọc kỹ càng, cẩn trọng, tôi vô cùng xúc động. Nhà thơ Mặc Giang đã khéo léo vận dụng một cách linh hoạt bút pháp của thể thơ Lục bát, để chuyển tải nội dung từng giai đoạn lịch sử, lúc thì hùng tráng, lúc thì tủi hận đau thương v.v. Chỉ với hai câu sáu và tám liên kết nhau thành chuỗi xích dài vô tận. Việt Nam Thi Sử Hùng Ca là một tác phẩm thơ mang tính dân tộc và hiện đại. Chất thi vị của thơ thâm trầm mà tươi sáng, nồng nàn tình yêu quê hương đất nước, cảm hoài thế sự thương đau.

Rất mong tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca sẽ được sự ủng hộ nhiệt tình của bạn đọc yêu thơ. Dù sao, đây cũng là một nổ lực của chính nhà thơ Mặc Giang trên bước đường sự nghiệp văn chương .

                                       Ngày 30 tháng 12 năm 2005

                                             Nhật Thu

* DẪN NHẬP *

Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, là Thi Tập có tính sơ lược, tổng quát, đại cương xuyên suốt chiều dài 5000 năm lịch sử dân tộc, từ Hồng Bàng, các quốc tổ Hùng Vương, cho đến thời cận và hiện đại, tức cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, được soạn bằng thi ca, căn cứ theo các tài liệu :

1. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim

2. Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn

3. Việt Sử của Nguyễn Văn Bường

4. Các Triều Đại Việt Nam của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng

5. Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam của Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức

6. Địa lý Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ – Phạm Đình Tiếu

7. Bản đồ địa lý Việt Nam, theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê năm 1999

Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, được dẫn nhập bài Non Nước Việt Nam, bằng 16 câu thơ biến thể tự do, và tiếp theo 80 câu theo thể lục bát, nói về địa lý Việt Nam, nhưng chỉ liệt kê tên tất cả mọi Tỉnh, Thành của đất nước, từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, để tất cả mọi người Việt Nam dù được sinh ra ở bất cứ nơi đâu, xuyên qua mọi không gian, thời gian, nhưng khi nói về nguyên quán, là để nhớ đến vùng đất đầu đời, và nhớ đến toàn cõi Việt Nam.

Sau đó, để có cái nhìn tổng quát và khái lược 5000 năm lịch sử huy hoàng của dân tộc, dọc theo chiều dài mở nước, dựng nước, giữ nước, từ Tổ Tiên, qua các triều đại, cho đến từng thế hệ hôm nay, được diễn theo Thi Sử Hùng Ca, mở lối bằng 14 câu thơ biến thể tự do, và tiếp theo 722 câu theo thể thơ lục bát.

   Hình dung bản đồ Việt Nam trước mặt, như chính mình đang đi, đang nhìn, đang thấy khắp Ba Miền, đi từ Bắc vào Nam, từ cao nguyên cho tới đồng bằng, qua sông qua suối qua đèo, băng rừng băng núi băng non, qua mọi Tỉnh, Thành của quê hương đất nước :

“Tôi xin mở bản dư đồ Hình cong chữ S

Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng

Của nước Việt dấu yêu

Của giang sơn cẩm tú mỹ miều...

... Mở đầu, Miền Bắc khai nguyên

... Anh lên Miền Ngược, em về Miền Xuôi

Xuôi về Hà Nội mới thôi

Thăng Long hoài cổ, đổi dời Thành Đô

... Sài Gòn chưa vẹn câu thề

Em đi, đi nữa xuôi về Miền Nam

... Em đi, đi nữa em ơi

... Hình cong chữ “S” nơi nơi

Non non nước nước của Người Việt Nam”.

Khi từng miền đất nước, như đã cấu thành cho con người Việt Nam máu đỏ da vàng, cho tình tự yêu thương chạy dài từ thành thị đến thôn trang. Thật vậy, từng nẻo đường quê hương như phảng phất : Kia bóng cờ bay “Những lối đi, chạy ngang qua đất đỏ”. Reo khúc khải hoàn với “Những lối về, chạy dọc dưới trời xanh”. Và mỗi bước đi như có hồn thiêng khói quyện, hồn sử lung linh, máu lệ đầy vơi nhưng lẫm liệt oai hùng, hy sinh gian khổ nhưng huy hoàng bất khuất. Mỗi chúng ta hãy lần theo từng trang sử qua từng thời kỳ của 5000 năm văn hiến của đất nước Việt Nam, đang được mở ra :

“Tôi xin mở bản đồ đất nước Việt Nam

... Tổ quốc, giang sơn, giòng giống Tiên Rồng”

“Quê hương từ độ khơi dòng

Mở trang Sử Việt oai hùng ngàn năm

Đi từ huyền sử xa xăm

Hồn thiêng sông núi Việt Nam muôn đời

... Em đi trong mộng trong mơ

Năm ngàn năm đã đợi chờ thật lâu...

  Và cuối cùng, đi vào kết thúc lịch sử 5000 năm, rồi lại mở ra 5000 năm nữa ...

“Nước là nước, nhà là nhà

Nhà là của nước, nước là của sông

Em ơi, con cháu Lạc Hồng

Em ơi, dòng dõi con Rồng cháu Tiên

Quê hương còn đó, Ba Miền

Việt Nam còn đó, núi liền với sông

Trường Sơn có thấu Biển Đông !

Thái Bình có thấu Sông Hồng, Cửu Long !

Đồng Nai đứng đợi cuối dòng

Nước bao nhiêu nữa, cũng nguồn mà ra

VIỆT NAM, NON NƯỚC MỘT NHÀ

NĂM NGÀN NĂM NỮA CŨNG LÀ VIỆT NAM”.

Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, được soạn thảo bằng cách, nhìn vào bản đồ Việt Nam và cuốn Địa lý Việt Nam từ Bắc vào Nam ; đọc, lược, đối chiếu qua 5 bộ sách lịch sử, qua thời gian, qua từng thời kỳ và các triều đại, cảm tác suốt một tuần lễ, tổng cộng qua 832 câu thơ, gồm 30 câu biến thể tự do, 802 câu theo thể lục bát. Sau đó, tự tác giả đọc lại, sửa, đánh máy, bình chú cũng xuyên suốt trong một tuần lễ.

Như vậy, cả hai hai tuần lễ của tháng 9 năm 2003, Thi Tập VIỆT NAM THI SỬ HÙNG CA, một sản phẩm của con tim, khối óc, tình tự, trí tuệ được thành hình. Thi tập này chưa nhưng sẽ được tác giả tự ấn hành trong nay mai.

Rất mong những bậc cao minh góp ý hoặc mách bảo những sai sót, khiếm khuyết, nhất là về sử, hay tự chính tác giả khi phát hiện được, sẽ sửa chữa, đính chính, trước khi in ấn, hoặc vào những lần tái bản, để Việt Nam Thi Sử Hùng Ca được hoàn thiện hoàn mỹ, không phải của riêng tác giả mà của tất cả mọi người.

   Rất mong, Việt Nam Thi Sử Hùng Ca sẽ được chân thành gởi đến, và như một cống hiến dâng tặng đến tất cả mọi người Việt Nam, qua mọi không gian thời gian, và ao ước mọi người Việt Nam đều mang tình tự quê hương đậm đà, đều có những nỗi niềm khắc khoải nhưng tràn đầy diễm phúc tự hào, qua âm hưởng Việt Nam Thi Sử Hùng Ca 5000 năm dân tộc và Ba Miền nước Việt dấu yêu.

 Ngày 06 tháng 8 năm 2005

Trân trọng và cẩn chí

Mặc Giang

Non Nước VIỆT NAM (về Địa Lý VN)

Quê Hương để giữ gìn, để thương, để nhớ

********

01. Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”

Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng

Của nước Việt dấu yêu

04. Của giang sơn cẩm tú mỹ miều

Cho dòng giống Lạc Hồng gìn giữ nâng niu

Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”

Bắc Nam Trung một dãi nối liền

08. Của quê hương gấm vóc Ba Miền

Để thắm tô Sông Núi Hồn Thiêng

Nối tình dài Con-Cháu-Tổ-Tiên

Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”

12. Biển rộng sông dài non nước Việt Nam

Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan

Đi từ rừng cao cho đến đồng sâu

Đi từ bờ đê cho đến ruộng dâu

16. Đất nước yêu thương con cháu da vàng

01. Mở đầu Miền Bắc khai nguyên

Thượng du miền ngược, xuôi miền Trung du

LAI CHÂU kê núi gối đầu

04. LÀO CAI Bản Giốc sương mù HÀ GIANG

LẠNG SƠN cách khoảng CAO BẰNG

QUẢNG NINH ven biển chờ trăng ánh vàng

Vàng lên tựa cửa BẮC GIANG

08. THÁI NGUYÊN, BẮC KẠN, TUYÊN QUANG một nhà

Ô kìa YÊN BÁI, SƠN LA

Anh lên Miền Ngược, em về Miền Xuôi

Xuôi về HÀ NỘI mới thôi

12. Thăng Long hoài cổ, đổi dời thành đô

Năm ngàn năm, dựng cơ đồ

Theo dòng lịch sử điểm tô muôn đời

Em đi, đi nữa em ơi

16. Băng qua PHÚ THỌ lên đồi BẮC NINH

VĨNH YÊN, VĨNH PHÚC xoay mình

Chở che Hà Nội, HÒA BÌNH, HÀ TÂY

Hà Tây còn có SƠN TÂY

20. HÀ ĐÔNG bên đó, bên nầy HẢI DƯƠNG

Đi ra tận cửa HẢI PHÒNG

Trùng dương sóng vỗ HẠ LONG tuyệt vời

HƯNG YÊN một chuyến rong chơi

24. HÀ NAM bén gót, buông lơi THÁI BÌNH

NINH BÌNH, NAM ĐỊNH xinh xinh

Hồng Hà sông nước, Thái Bình nước sông

Em về THANH HÓA hơn không

28. NGHỆ AN, HÀ TĨNH mênh mông núi đồi

Sông Đà, sông Mã dặm soi

Bắt ngang Đồng Hới, mù khơi QUẢNG BÌNH

Còn kia, QUẢNG TRỊ điêu linh !

32. Sông Gianh, Bến Hải vặn mình kêu sương !!!

THỪA THIÊN, Phố Huế, sông Hương

Hội An – Đà Nẵng, dặm trường QUẢNG NAM

Thương ra QUẢNG NGÃI mới cam

36. Thương vô BÌNH ĐỊNH bao hàm PHÚ YÊN

Thương lên đến tận Cao Nguyên

KON TUM, ĐÁC LẮC giữa miền GIA LAI

Tình xưa lối cũ dấu hài

40. Hoàng Triều Cương Thổ thở dài một phen !

Thu Bồn khói quyện quen quen

Đà Rằng lượn khúc, chưa hoen KHÁNH HÒA

Thùy dương cát trắng phôi pha

44. PHAN RANG, PHAN RÍ xót xa thuở nào !!!

Em đi lòng dạ nao nao

Thời gian đi mãi vẫy chào tháng năm

CAM RANH mây nước xanh lam

48. ĐÀ LẠT mơ mộng Suối Vàng, Cam Ly

Đường lên BÌNH PHƯỚC anh đi !

Em về PHAN THIẾT có chi ngại ngùng ?

VŨNG TÀU, BÀ RỊA một vùng

52. Ra khơi nhớ Bưởi mà rung BIÊN HÒA

BÌNH DƯƠNG cây trái lá hoa

TÂY NINH là tỉnh cuối bờ Trường Sơn

SÀI GÒN nói thiệt nào hơn !

56. Viễn Đông Hòn Ngọc dễ sờn mấy ai ???

Ai về GIA ĐỊNH, ĐỒNG NAI ?

Đừng quên Bến Nghé, mối mai Nhà Bè !

SÀI GÒN chưa vẹn câu thề !!!

60. Em đi đi nữa xuôi về Miền Nam

Kề vai xỏa tóc LONG AN

MỸ THO mấy khúc, TIỀN GIANG mấy bờ

Em đừng vội đến CẦN THƠ

64. Mà quên ĐỒNG THÁP dựng cờ phía Tây

Sông Tiền, sông Hậu là đây

BẾN TRE bên đó, bên này TRÀ VINH

VĨNH LONG in bóng theo hình

68. SÓC TRĂNG cuối ngọn, đầu ghình AN GIANG

Hà Tiên, Rạch Giá, KIÊN GIANG

BẠC LIÊU rẽ bước đôi hàng CÀ MAU

Muốn ra PHÚ QUỐC lên tàu

72. CÔN SƠN mờ tỏa một màu xanh xanh

Việt Nam muôn thuở thanh bình

Việt Nam sông núi đầu ghềnh, biển Đông

Việt Nam còn đó non sông

76. Mẹ u, Cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên

Việt Nam sông núi Ba Miền

Bắc Nam Trung, quyện an nhiên muôn đời

Hình Cong Chữ “S” nơi nơi

80. Non non nước nước của Người Việt Nam.

 

Mở Lối 
                 (Từ câu 01 đến câu 14)

 

*******

01. Tôi xin mở bản đồ Đất Nước Việt Nam

Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan

Đi từ Vùng Sâu lên đến Cao Nguyên

04. Đi khắp quê hương, đi khắp mọi miền

Tôi xin mở bản đồ Đất Nước Việt Nam

Đi từ Biển Đông lên tới Trường Sơn

Đi từ làng quê, đi khắp phố phường

08. Đi khắp đất liền, đi khắp non sông

Tôi xin mở bản đồ Đất Nước Việt Nam

Là thịt là da xương máu Tổ Tiên

Là thịt là da xương máu Cha Ông

12. Là thịt là da xương máu cháu con

Truyền trao thế hệ, tô thắm non sông

14. Tổ quốc, giang sơn, dòng giống Tiên Rồng

[①]

            ********

         

TỪ NGUỒN CỘI đến BẮC THUỘC

Việt Nam độc lập 2768 năm

(Từ câu 1 đến câu 54)

*******

Quê hương từ độ khơi dòng

Mở trang Sử Việt oai hùng ngàn năm

Đi từ huyền sử xa xăm

04. Hồn thiêng sông núi Việt Nam muôn đời

Đi từ nguồn cội em ơi !

Lạc Long Quân kết duyên đời Âu Cơ[②]

Năm mươi xuống biển đợi chờ[③]

08. Năm mươi lên núi dựng cờ an bang

Triển khai lập quốc Văn Lang [④]

Người con trai trưởng đăng đàn làm vua

Tựa nương bảo vệ cho vừa

12. Anh em một bọc nắng mưa đỡ đần

Trước sau thứ đệ một vần

Đều mang danh hiệu cao ngần Hùng Vương

Mười tám đời thật phi thường

16. Chung lưng đấu cật lo lường mến thương

Hùng Vương thứ sáu, Bắc phương

Giặc Ân ôm mộng mở đường xâm lăng

Thiên Vương Phù Đổng oai thần

20. Thét roi ngựa sắt, giặc Ân qui hàng [⑤]

Sóc Sơn biến mất mây ngàn [⑥]

Mở ra Hội Gióng leo thang mà thờ[⑦]

Mỵ Nương công chúa huyền mơ [⑧]

24. Sắc hương cá nước vật vờ chim sa

Hoàng hôn nán đợi chiều tà

Lẻn nhìn nét ngọc trăng ngà soi gương

Hai chàng đều ngỏ đều thương

28. Sơn Tinh nhanh bước, quê hương Ba Vì[⑨]

Thủy Tinh hận mối tình si [⑩]

Làm mưa làm gió, đuối thì phải thua

Nắng mưa nhờ đó bốn mùa

32. Nước Nam hưng thịnh thuận hòa bình an

Kéo dài lịch sử Văn Lang

Hăm sáu hai một là ngàn với năm [11]

Hai năm bảy, trước công nguyên

36. Biến thành Âu Lạc lưu truyền Dương Vương[12]

Cổ Loa xây dựng phi thường [13]

Bao nhiêu thành lũy là phương huy hoàng

Rùa Vàng xuất hiện Hồ Gươm[14]

40. An bang định quốc nỏ thần giương cao

Giặc Tần chạy rớt chiến bào

Quân năm mươi vạn ào ào lá thu[15]

Chuyện tình sử, lệ chưa nhòa

4. Tình đang như mộng Cổ Loa kinh thành[16]

Thương thay hai mái đầu xanh

Mỵ Châu – Trọng Thủy ôm vành trăng soi

Dương Vương ngoảnh lại mà coi

48. Thanh gươm đã toát đầu rơi nghẹn ngào[17]

Hai lẻ bảy, sóng rạc rào [18]

Vỗ tan Âu Lạc vẫy chào châu sa

Ấy là kế sách Triệu Đà

52. Nam Việt danh hiệu kinh qua một thời[19]

Triệu Vương truyền nối năm đời

54. Dù sao đi nữa cũng người nước Nam [20]

Cuộc Khởi Nghĩa của

HAI BÀ TRƯNG, BÀ TRIỆU

(Từ câu 55 đến câu 82)

Năm ba số một mới cam

56. Là thời Bắc thuộc ngàn năm oán hờn [21]

Mở đầu, Nhà Hán vẽ, sơn

Chia thành chín quận dễ vờn, dễ sai [22]

Nhâm Diên, Tô Định oằn vai [23]

60. Trưng Trắc, Trưng Nhị cỡi voi diệt thù [24]

Đất Mê Linh đẹp thiên thu

Ba năm hưng khởi oán thù chưa tan

Đoàn quân Mã Viện kéo sang

64. Hai Bà Trưng, mượn Hát Giang trầm mình

Em xin giọt lệ lung linh

Tuổi hai mươi hiến dâng mình nước non

Điểm ghi thật đậm nét son

68. Cho trang Sử Việt huy hoàng mai sau

Vàng ròng há lộn chì thau

Lửa nung mới sáng ửng màu tinh anh

Ra khơi vỗ sóng Cá Kình

72. Chớ làm tôm tép dầm mình dưới thung[25]

Nữ nhi đáng mặt anh hùng

Triệu Trinh mười chín nghĩa chung khởi cờ[26]

Bốn năm tinh luyện binh cơ

76. Xuất chinh Thanh Hóa, Đông Ngô hãi hùng

Đấu tranh oanh liệt vẫy vùng

Năm hai bốn tám, núi Tùng gởi thân [27]

Bà Trưng, Bà Triệu một vần

80. Anh thư Nước Việt quần thần phải kiêng

Ba Bà xưng tụng Ba Miền

82. Sử xanh rực sáng hậu tiền soi chung.

LÝ NAM ĐẾ – MAI HẮC ĐẾ

(Từ câu 83 đến câu 124)

Nhà Ngô suy tính lo lường

84. Nước Nam biến mất, rẽ đường thật sâu

Giao Châu ngăn cách Quảng Châu

Quảng Châu từ đó gồm thâu bên Tàu [28]

Lòng tao loạn, biến thật mau

8. Giao Châu cuốn hút cúi đầu Nhà Lương [29]

Mà dày mà xéo tang thương

Lý Bôn xuất hiện dẹp phường ngoại xâm

Giành độc lập, cứu nước Nam

2. Kinh đô Tô Lịch, Vạn Xuân tô bồi[30]

ăm trăm bốn bốn lên ngôi

Tiền Lý Nam Đế phục hồi dựng xây [31]

Lập chùa Trấn Quốc, Hồ Tây [32]

96. An dân, an quốc, đêm ngày chỉnh trang

Kinh qua sức kiệt lực tàn

Bèn giao danh tướng Triệu Quang lo lường

Lên ngôi hiệu Triệu Việt Vương [33]

100. Hải Hưng-Dạ Trạch tầm phương lâu dài [34]

Lý Phật Tử, quyết một hai

Giành ngôi rồi lại mắc quai Nhà Tùy [35]

Vạn Xuân ngắn ngủi phải suy

104. Tay mang ách vác khốn nguy kéo dài

Nhà Đường đày ải vạn tai

An Nam đô hộ trâu cày lưỡi le[36]

Dương Quí Phi, phận phòng the [37]

108. Nhờ hương sắc nước mà đè mày râu

Vua Đường cùng các chư hầu

Món ngon vật lạ đêm tâu ngày trình

Vì ăn mà khổ dân mình

112. Lệ chi - trái vải, lội sình trèo non [38]

Đất Hà Tĩnh – Mai Thúc Loan

Nâng cao sĩ khí căm hờn thúc quân

Giặc Đường tan rã thoát thân

116. Tung hô vạn tuế muôn dân tôn thờ

Xưng, Mai Hắc Đế huyền cơ

Một năm nung nấu cơ đồ mai sau

Vạn An thành, khóc đêm thâu

120. Một năm còn có gì đâu dặm trường[39]

Nhà Đường cử vạn binh nhung

Vạn An ngập lửa chập chùng máu xương

Thúc Loan yếu thế cùng đường

124. Lui binh, thúc thủ, bỏ xương trong rừng

Cuộc Khởi Nghĩa của

BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG

(Từ câu 125 đến câu 140)

Non sông là sự nghiệp chung

Dấy lên ngọn đuốc Phùng Hưng – Ba Vì

Hai mươi năm, trí dũng phi

128. Khi đánh khi thủ có khi vây thành

Tướng Đường sợ thấu mật xanh

Một tuần bủn rủn phải đành trút hơi [40]

Tướng còn kinh đảm rụng rời

132. Quân quỳ lập cập, van lơi xin hàng

Muôn tâu Bố Cái Đại Vương [41]

Một thời ngang dọc tỏ tường hồn ai

Mai sau con nước còn dài

136. Bạch Đằng linh hiển oai tài giúp Ngô [42]

Mang thân đem vá cơ đồ

Suối vàng đoái tưởng đội mồ báo tin

Chín năm công đức vang rền

140. Đại Vương Bố Cái thênh thênh đất trời.

VIỆT NAM, THỜI KỲ BẮC THUỘC

Từ năm 111 trước Dương lịch đến năm 939 sau Dương lịch

Cuộc Khởi Nghĩa của

Họ KHÚC và Họ DƯƠNG

(Từ câu 141 đến câu 158)

Chưa tàn giọt lệ đầy vơi

Máu xương chồng chất tiếp đời mai sau

Khúc Thừa Dụ, chẳng bao lâu

144. Người Hải Hưng, hận mối sầu điêu linh [43]

Chiêu quân mãi tướng xuất chinh

Quan quân đô hộ, Tống Bình tan hoang

Đường dài mới biết ngựa boong

148. Chiến bào mấy lớp, sắc mòn xông pha

Khúc Hạo, Khúc Mỹ một nhà

Chín lẻ sáu, chín hăm ba – một thời [44]

Một thời máu lệ đầy vơi

152. Một thời trong cả suốt thời Bắc xâm

Xương chồng, máu đổ từng năm

Từng năm xương máu, tơ tằm lột da

Dương Đình Nghệ, thuộc tướng nhà

156. Khởi thân Thanh Hóa, Đại La công đồn [45]

iều Công Tiễn, dạ sói chồn

ướp ngôi giết chủ, cúi lòn ra chi [46]

*******

 

NGÔ QUYỀN CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG
Chấm dứt Ngàn Năm Bắc thuộc

 

(Từ câu 159 đến câu 188)

*******

Trời sanh cũng đất Ba Vì

160. Ngô Quyền lẫm liệt nam nhi oai hùng

Dọc ngang chinh chiến vẫy vùng

Hoàng Thao – Nam Hán ùn ùn kéo sang

Bạch Đằng giang, Bạch Đằng giang

164. Ngàn năm Bắc thuộc âm vang chốn này

[47]

Bạch Đằng giang, khói lửa bay

Ba phương bốn hướng ra tay diệt thù

Quân mai phục hiện lù lù

168. Giữa dòng sông, cọc nhọn, vù sáng choang

Chiến thuyền xuyên thủng ngửa nghiêng

Bắc quân ngã gục lòng sông nghẽn dòng

Vua Nam Hán, bật khóc ròng

[48]

172. Bạch Đằng dậy sóng rửa lòng thiên thu

[49]

Hồn tử sĩ gió vi vu

Vọng vang vang vọng, mịt mù nỉ non

Bạch Đằng đưa nước về non

176. Dân Nam ca khúc khải hoàn thái lai.

Ngàn năm thống trị lâu dài

Kinh bao kháng chiến đến nay mới là

Giành độc lập, thiết triều ca

180. Dựng xây, khai phóng nước nhà Việt Nam

Bạch Đằng giang, Bạch Đằng giang

Bạch Đằng sử tích ngàn năm vẫn còn

Ngô Vương truyền lại cháu con

184. Ba đời non trẻ, nước non cấu thành

Non như vận nước mới toanh

Mới như con nước đầu ngành trên non

Em ơi, xin mở triện son

188. Khắc ghi dấu ấn huy hoàng Việt Nam

[50]

*******

Triều Đại NHÀ ĐINH
Từ năm 968 đến năm 980(từ câu 189 đến câu 214)

*******

Lau chùi bóng dáng ngoại xâm

Ruột gan phơi núi tơ tằm phơi non

Nhưng rồi lồi lõm cục hòn

192. Cục hòn danh lợi bào mòn núi sông

Mười hai cái loạn sứ quân

Loạn danh loạn lợi, quân dân cấu nhàu

[51]

Tí hon Bộ Lĩnh cờ lau

196. HoaLư tập trận, chăn trâu anh tài

Một là một, hai là hai

Tướng danh, danh tướng mấy ai sánh bằng

Mười hai bộ sứ như măng

200. Dễ hơn tre chẻ, mà băng lên đài

Đinh Tiên Hoàng Đế lên ngôi

Nước Đại Cồ Việt cho dài tâm can

Hoa Lư thiết trí đăng đàn

204. Quân dân tướng sĩ bá quan vui mừng

[52]

Cờ lau Bộ Lĩnh anh hùng

 

Chưa dày triều chính nên chung khóc thầm
Em ơi, nên nhớ lỗi lầm
208. Khinh trưởng trọng ấu nên cầm lưỡi dao[53]
Đỗ Thích đêm lẻn vào trào
Chưa an giấc điệp máu đào tuôn rơi[54]
Cờ lau Bộ Lĩnh, em ơi !
212. Nhà Đinh kế nghiệp nửa đời không xong
Cha thì hàm én mày rồng
214. Con vừa sáu tuổi mà trông được gì[55]

 

 

********

 

 NHÀ TIỀN LÊ (980 – 1009) 
(Từ câu 215 đến câu 254)

*******

Xin ngâm một bản trường thi

216. Ngày thì trổi nhạc đêm thì hát ca

Dương Vân Nga, Dương Vân Nga

Được như Thái Hậu quê nhà mấy ai ?

Biết việc lớn, trọng người tài

220. Việc nhà việc nước phân hai rõ ràng

[56]

Ai mà chí cả đã mang

Nam hùng, nữ kiệt, định, ban, cả rồi

Tệ là cái nạn của tôi

224. Của tôi, mà phải da mồi tóc phơ

Của tôi, mà phải xác xơ

Vân Nga Thái Hậu tôn thờ chẳng phai

Lê Hoàn đáng bậc anh tài

228. Chuyển trao sự nghiệp nắng mai chan hòa

Đinh – Lê như một vườn hoa

[57]

Vườn hoa hai sắc chan hòa cả hai

Nực cười Nhà Tống chạy dài

232. Hai đường thủy – bộ dép giày xốc mang

Một Bạch Đằng, một Chi Lăng

Vua Tống hống hách phải lăn phục tài

[58]

Mở trang oanh liệt ngày mai

236. Đại Hành rực rỡ lên đài vinh quang

[59]

Ai hay danh nghĩa Lê Hoàn

Tình riêng khen trách bồ hòn đắng cay

Cho dù là đúng là sai ?

240. Thời gian có khóc sắc tài phấn hương

Đại Hành đã vẹn đường đường

Vân Nga lại vẹn tình thương cùng chồng

[60]

Tiếc là tiếc những người con

244. Tranh giành cấu xé có còn chi đâu

Tệ hơn bãi biển nương dâu

Bạc hơn sóng vỗ trên đầu trùng dương

[61]

ê Long Đĩnh, thật chán chường

248. Ôdanh bốn chữ “đế vương ngọa triều”

ật qua trang sử tiêu điều

Nhắc gì không nhắc, nhắc nhiều vô luân

[62]

Biết bao cái quí để tuân

252. Có đông thu hạ thì xuân mới toàn

Có chì thiếc, có vàng son

Tiểu nhân quân tử đều trong cuộc đời

[63]

**************

 

Triều Đại NHÀ LÝ 
Từ năm 1010 đến năm 1225
(Từ câu 255 đến câu 288)

 

********

Bước sang Triều Lý rạng ngời

256. Nước non Đại Việt tuyệt vời thanh cao

[64]

Tối tăm đã hiện nắng đào

Vươn từ bùn đất mới chào ánh dương

Nếu không những trải phong sương

260. Nối từng viên gạch thành đường thênh thang

Cũng đừng chỉ biết vẻ vang

Mà quên sỉ nhục, phũ phàng, đắng cay

Kết tinh lâu tháng lâu ngày

264. Ngày qua tô thắm, ngày nay huy hoàng

[65]

Rồng vàng xuất hiện Thăng Long

[66]

Pháp cương, đức trị, nức lòng ngợi ca

[67]

Mở mang, kiến thiết nước nhà

268. Tiếng thơm vang dội thật là rạng danh

Lý Triều trung liệt hùng anh

Trong ngoài thịnh vượng an lành bốn phương

Nhớ Công Uẩn, nghĩ mà thương !

272. Nhớ Vạn Hạnh, thắp nén hương, để thờ !

Nhớ Thường Kiệt, vịnh vầng thơ

Vầng thơ bất tuyệt dưới cờ Việt Nam

[68]

Xưa bất khuất, nay quyết tâm

276. Biển khơi phải dội trời xanh phải chùn

Sá gì lũ kiến chồn ong

[69]

Việt Nam đâu phải dễ tròng lắm sao

[70] 

Em thương một mảnh má đào

280. Chiêu Hoàng phận đã trọn trao cho chồng

Dù không tát cạn biển đông

Của em không một của chồng không hai

Giang sơn một gánh còn dài

284. Tình sông nghĩa biển nào phai sắc màu

Lý – Trần cắt rốn chôn nhau

Vương dây vướng nhợ một bầu bí ơi

Nặng nợ nước, nặng nợ đời

288. Cả hai mà vẹn hết lời ngợi khen.

[71]Triều Đại NHÀ TRẦN
Từ năm 1225 đến năm 1400(Từ câu 289 đến câu 330)

********

289. Đẹp thay triều đại Lý – Trần

Non xanh nước biếc xanh ngần nước non

Ngược dòng lịch sử không hơn

292. Xuôi dòng ai bảo đẹp hơn Lý – Trần

[72]

Đẹp hơn diễm ảo cẩm vân

Tinh hơn nét ngọc đã lần minh châu

Trăm năm bia đá cần cầu

296. Ngàn năm sử sách tô màu sắc son

Đã vừa Thái, Thánh, Nhân Tôn,...

[73]

Lại thêm Hưng Đạo Đại Vương phi thường

Quốc Toản, Bình Trọng nhớ thương

300. Quang Khải, Nhật Duật,... tấm gương để đời

Bao nhiêu tinh túy rạng ngời

Bao nhiêu kiệt xuất cũng thời này đây

Lan từ góc biển chân mây

304. Sáng soi kim cổ đông tây khen thầm

[74]

Em đi dưới ánh trăng rằm

Ngàn sao lấp lánh xa xăm gợn lòng

Ơn tổ quốc, nợ tang bồng

308. Muôn người như một Diên Hồng đưa tay

[75]

Trời phải chuyển, đất phải xoay

Việt Nam sừng sững, đừng bày dễ ngươi

Nguyên-Mông Âu – Á không người

[76]

312. Tiến vào Đại Việt tơi bời tan hoang

Ba lần máu đỏ còn loang

Ba lần xương trắng chồng hòn núi cao

[77]

Nguyên–Mông vung vãi chiến bào

316. Ngựa tung té ngã, dẫm gào thoát thân

Gan đã nát, rủn tay chân

Van lơn qui phục triều thần Việt Nam

[78]

Đường đi gác lại tơ tằm

320. Đường về để lại hoa vàng thế thân

Em thương công chúa Huyền Trân

Hai châu Ô – Lý phương gần phương xa

Đền ơn nước, báo ơn cha

324. Sắc hương ngà ngọc gởi ra núi rừng

Huyền Trân, giọt lệ rưng rưng

Ra về sao nỡ ngập ngừng phút giây

Ô hay ! Một nỗi niềm tây ?

328. Ô hay ! Chớ trách dạ này lâng lâng ?

[79]

Thôi, không nói nữa Lý - Trần

330. Bốn trăm năm chỉ mấy vầng được ru !!!

[80]

*********

NHÀ HỒ và HẬU TRẦN (1400-1413)
Từ năm 1400 đến năm 1413

(

Từ câu 331 đến câu 346)

*******

331. Em về thăm nước Đại Ngu

Đại Việt sao lại Đại Ngu là gì ?

Hồ Quý Ly, lỡ một khi

334. Tài không đúng chỗ trách gì tiếng tăm

Vào đầu thế kỷ mười lăm

Ép Trần kế vị lập nên Nhà Hồ

[81]

Bảy năm thương ghét Nhà Hồ

338. Hai điều đáng nhớ để nhờ nghe em !

Mở ra tiền giấy đầu tiên

Lại còn đúc súng thần công trước Tàu

[82]

Tài mà không lượng trước sau

342. Nhân tâm bất phục biển sầu đeo mang

Hậu Trần vá víu chóng tàn

Hết thời thịnh lạc hạ màn phải xong

Tình xưa vương nhợ đèo bồng

346. Cho tròn danh nghĩa chớ mong chi nào !

[83]

*******

LAM SƠN LÊ LỢI 
Và Triều Đại LÊ SƠ (1428-1527)

(Từ câu 347 đến câu 382)

********

347. Lên non mới biết non cao

Xuống biển mới biết biển khơi điệp trùng

Đường xa mới biết anh hùng

350. Ngựa hay mới biết dặm trường chưa xa

Em về thưa với mẹ cha

Đang cơn nguy biến nước nhà thuộc Minh

[84]

Mười năm kháng chiến Quân Minh

354. Lam Sơn - Áo Vải xuất chinh diệt thù

[85]

Bình Ngô Đại Cáo thiên thu

[86]

Mười năm sương khói mịt mù khói sương

Làng quê, rừng núi, phố phường

358. Ùn ùn trai tráng lên đường tòng chinh

Chưa quên quốc nhục ngàn năm

Lại mang chính khí Lý-Trần-Đinh-Lê

Anh hùng tên Lợi họ Lê

362. Công, thương, nông, sĩ dưới cờ phạt Minh

Thương người đấu cật thay lưng

Lê Lai cứu Chúa, Lê Vương mới còn

[87]

Mở ra thêm một dấu son

366. Một hai rõ nét nào ân nào thù

Thù khi ngất ngưởng gật gù

Thất tha thất thểu, ta vù mở ân

Vừa thương vừa tiếc tiễn chân

370. Họ thương họ phục lòng nhân của mình

[88] 

Ô kìa cành trúc xinh xinh

Trúc xinh đâu có trau mình phấn son

Tây Hồ, em gái chiếu gon

374. Chiếu gon ba mảnh, có còn không em ?

Tơ lòng kiếp trước chưa quên

Kiếp này em trả, lại thêm ba đời

Hồn em còn đó tăm hơi

378. Có ai thương tiếc đôi lời “chiếu gon”

Chiếu gon dù hết hay còn

Còn không một mảnh chiếu gon Tây Hồ ?

Trăm năm hết vận Nhà Lê

382. Nhưng em muôn thuở, câu thề chiếu gon !

[89]

***********

 

NAM – BẮC TRIỀU
TRỊNH – NGUYỄN Phân Tranh Kéo dài từ 1527 đến Tây Sơn 1788
(Từ câu 383 đến câu 426)
383. Khổ đau đeo mãi đèo bồng
Tang thương đeo mãi nỗi lòng héo hon
Em về nghe tiếng nỉ non
386. Em đi nghe tiếng bồ hòn đắng cay
Gần ba thế kỷ úa gầy
Sông Gianh gãy nhịp, đọa đày Bắc – Nam 
Vì đâu ập phủ màu tang ?
390. Vì đâu khổ ải miên man vô cùng
Mở đầu Nhà Mạc Đăng Dung
Sáu mươi năm lẻ, trong chùn ngoài xiêu[90]
Năm mươi năm, Nam – Bắc triều 
394. Nam – Lê, Bắc – Mạc tiêu điều núi sông[91]
Hậu Lê rối tựa tơ bòng
Biến thành Trịnh - Nguyễn, Đàng Trong - Đàng Ngoài[92]
Nồi da xáo thịt tơi bời
398. Hai trăm năm nữa rụng rời thịt da
Hai bên Trịnh – Nguyễn một nhà [93]
Vì say quyền lực mà ra thế này
Quay lưng chặt đứt chân tay
402. Bằm tan thân thể tháng ngày chưa nguôi
Bằm nhừ, bằm tới, bằm lui
Bằm lên bằm xuống bằm nhùi tan hoang
Máu đâu còn nữa để loang ???
406. Thịt đâu còn nữa để còn mai sau !!!
Thân đi không có mái đầu
Tay chân không có xỏ xâu đem về 
Đem về mà đắp bờ đê 
410. Đắp sông đắp núi ê chề nghe em ! [94]
Tìm trong le lói sao đêm
Tối tăm mới biết, hết thèm canh thâu
Tìm trong bãi biển nương dâu !
414. Bước chân đã mỏi, cuối đầu Cà Mau [95]
Thương Chiêm Thành cuốn bờ lau
Thương Chân Lạp, nước chìm sâu dưới cầu
Qua cầu dừng bước bên cầu
418. Nước lung linh mãi chân cầu dặm soi[96]
Còn kia, hai ánh sao rơi
Một Lê Chiêu Thống rước voi về nhà 
Chạy sang tận Pháp, Xiêm La
422. Thêm một Chúa Nguyễn bôn ba cậy nhờ [97]
Tan đi cho hết vật vờ !
Cuốn đi cho tận cuối bờ trầm kha !
Còn chăng là những mồ ma ???
426. Gần ba thế kỷ, quốc đà kêu sương !!![98]

 

 

************ 

 

 
NGUYỄN TÂY SƠN 1778-1802

(Từ câu 427 đến câu 458)

An Khê, Bình Định quê hương

Đất cày sỏi đá, kim cương cũng cày

Nếu không sỏi đá xưa nay

430. Bao nhiêu thành quách ai bày đứng yên

Quang Trung Nguyễn Huệ lên yên

Ba quân tướng sĩ, khiếp liền chạy tan

Bắc bình Nam phạt chỉnh trang

434. Bình Vương Nguyễn Huệ sấm vang dậy trời

Xuất quân như chỗ không người

Nhà Thanh ngã gục tơi bời Đống Đa

[99]

Tây Sơn quét sạch nước nhà

438. Bao nhiêu rác rưới tiêu ma cấp kỳ

[100]

Nửa đường Lưỡng Quảng lượng suy

[101]

Nửa đường thôi hết, lỡ thì Quang Trung

Quang Trung ơi ! hỡi Quang Trung !

442. Anh hùng hơn những anh hùng xưa nay

Một nhật lệnh, khói mù bay

Một bước chân, vạn dấu giày phải rung

Nhà Thanh cũng phải hãi hùng

446. Thỉnh ngai rước kiệu cùng chung giải hòa

[102]

Một Hưng Đạo, thắm rừng hoa

Một Nguyễn Huệ, chớp sáng lòa đỉnh cao

Bước chân chưa vẹt chiến bào

450. Vầng trăng vụt tắt, ngàn sao chập chùng

Còn đâu nữa, hỡi Quang Trung !

Mới bốn mươi, đã mệnh chung xuất thần

[103]

Em thương công chúa Ngọc Hân

454. Em thương Công chúa - Càn Long tuyệt trần

[104]

Xót thay mờ khói Phú Xuân

Hương không chỗ tụ, chập chờn hồn ai ?

[105]

Quang Trung ngủ dưới tuyền đài

458. Gia Long kế đó lên ngai Hàm Rồng

[106]

******** 

Triều NGUYỄN GIA LONG
Triều Đại Vua Chúa cuối cùng của Việt Nam
Từ năm 1802 đến năm 1945
(Từ câu 459 đến câu 506)

Lựa là núi núi sông sông

Lựa là phù ảnh tang bồng lung linh

Em về đất Huế thần kinh

[107]

462. Thăm Triều Nguyễn, nước non mình nghe em

Bước đi từng bậc cung thềm

Nghe trong gió thoảng nghe mềm tâm tư

Cố đô trầm lặng bao chừ !

466. Vân Lâu, Núi Ngự, bóng đò Hương Giang

Lâu đài, cung điện huy hoàng

Dòng thời gian, đã phủ mòn gió sương

Trường Tiền gõ nhịp còn vương

470. Nào ai đưa đẩy nhớ thương một thời

Nhớ Hoàng Triều, khuất xa khơi !

[108]

Nhớ Thuận An, nước đầy vơi sóng dồn

Thời gian sỏi đá cũng mòn

474. Cuối cùng, Bảo Đại cựu hoàng theo mây

Mây mờ tận cuối trời Tây

[109]

Còn Nghi - Tân nữa, lòng này xót xa

[110]

Nam Kỳ lục tỉnh, em qua

478. Phan Thanh, Minh Giảng la đà nghe em !

[111]

m thương tổ quốc Việt Nam

[112]

Em thương quốc ngữ Việt Nam rõ ràng

Chỉ bao chữ, dấu gọn gàng

482. Học vần xuôi ngược lẹ làng là xong

Lại càng đa phú đa phong

Rồng bay phượng múa chỉ trong mấy vần

Thay cho chữ viết lần quần

492. Nào Nôm nào Hán dễ lầm lộn nhau

Học chữ trước, quên chữ sau

Nhớ sau quên trước mà đau cái đầu

Qua cầu, lại nói qua cầu

496. Cầu bao nhiêu nhịp, có cầu “nghĩa ân” ?

Là Việt Nam, đã có ân

Là chữ Việt, cũng có phần Nguyễn Gia

[113]

.

Em thương nước em thương nhà

500. “Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

Kìa Từ Dũ ! Nọ Nam Phương !

[114]

 

Em mang tiếng khóc lên đường biết không ?
Nước ơi, cứ đổ về sông
504. Hoa ơi cứ cuốn theo dòng buông trôi
Vừa mang tiếng khóc chào đời
506. Đã mang tiếng nói con người Việt Nam !!!

 

 

Một Cái Nhìn Về PHƯƠNG TÂY
(Từ câu 507 đến câu 570)

 

Vàng xanh đỏ trắng lam lam

508. Còn đen còn xám biết kham sao này !

Cái thời xâm thực mới gay

Người Tây Phương, họ cố bày cuộc chơi

Họ dùng thủ thuật khơi khơi

512. Bán buôn, truyền giáo khắp nơi khắp vùng

Nơi nào đóng cửa quay lưng

Họ vung khí giới, đùng đùng dọa đe

Thực dân một lũ một bè

516. Bán dân, rao đạo cá mè giống nhau !

Thương nhân, Giáo sĩ một tàu

Tới đâu, không trước thì sau cũng vùi

Một khi họ đã tới lui

520. Thuộc địa, đô hộ cùng nhùi cả lên

Phân chia đi khắp lền khên

Năm châu bốn biển có quên chỗ nào

Thuộc địa, giáo địa cùng đào

524. Cùng xâm, cùng thực, cùng gào, cùng la

[115]

Cùng vơ, cùng vét, cùng chà

Cùng moi, cùng móc, cùng tha về nhà

Đã năm thế kỷ trôi qua

528. Cuối đà xâm thực, vậy mà không yên

Châu Phi chết chóc triền miên

Trung Đông, Châu Á đảo điên rợn mình

Còn kia, Châu Mỹ – La Tinh

532. Châu Âu cũng thế, rung rinh từng vùng

Đã là Đạo ! Chẳng tương dung ?

Lại thêm chủng tộc, phát khùng lên không ?

Chiến tranh cứ thế ! Lên nòng

536. Oán thù cứ thế ! Móc tròng lên nhau

Còn thêm đen, đỏ, trắng, màu

Khinh khi, kỳ thị khổ đau dậy trời

Cũng chính họ cho ra đời

540. Tư bản – Cộng sản tơi bời dập nhau

Thế giới từ đó cuốn màu

Một màu Cộng Sản, một màu Tự Do

Lưng chừng, nhũn nhẵn, cân đo

544. Biến thành Trung Lập thập thò hai bên

Thế thời, thời thế tạo nên

Đường nào cũng lún, bấp bênh đường nào

Bước ra, chân đã vướng vào

548. Bước vào lại dính, chân nào bước ra ?

Gập ghềnh đày ải phong ba

Gần một thế kỷ đâu đà đã xong !

Đạn bom Hai Khối trời long

552. Đất còn lún lở, mà mong chi người

Khối Kia đâu có êm xuôi

Cũng đánh, cánh đấm, cũng bươi, cũng tầm

Ngắc ngư tận cuối đường hầm

556. Ba đường gặp lại, âm thầm nhắc thôi

Bày trò xâm thực : lỗi thời

Bày trò lưỡng cực : mà nhồi mà thưng

Bày trò giải thực : đọ chừng

560. Bày trò dân chủ, nhân quyền : đu dây

Nhìn xem thế giới hôm nay

Bao nhiêu cái thứ đã bày ra kia

Từng quốc gia, đã yên chưa ?

564. Khắp năm châu, đã đẩy đưa thế nào ?

Nước tiên tiến, khuấy lao chao

Nước chậm tiến, loạn cào cào khó khăn

Vì Trí – Đức thiếu cân bằng

568. Vì Mạnh – Yếu mà đẩy, đằng, thúc, thoi

Vì thế lực mà đãi bôi

570. Còn tình nhân loại, hạ hồi tính sau !!!

********

VIỆT NAM
Trăm Năm Pháp Thuộc
Từ năm 1859 đến năm 1945

(Từ câu 571 đến câu 616)

*******

571. Em ơi, nói nữa chi đau

Về thăm lịch sử từ lâu quê nhà

Việt Nam những luống can qua

574. Địa dư không thể thoát ra cái vòng

Cái vòng truyền giáo cong cong

Cái vòng mua bán, lòng thòng thực dân

Đã từ thế kỷ mười lăm

578. Cả hai thứ ấy ăn nằm nước ta

[116]

Khi nói gần, khi nói xa

Cái màn xâm thực hiện ra cả rồi

Đời Thiệu Trị, họ châm ngòi

[117]

582. Đến đời Tự Đức, coi mòi không xong

[118]

Hai lần đại bác đì đùng

Hai lần Đà Nẵng, lưng tròng đứng trông

Rồi thì Ba tỉnh Miền Đông

586. Miền Tây Ba tỉnh cũng vong theo ngày

Miền Nam tự trị từ đây

[119]

Miền Bắc thuộc địa, lan lây mấy hồi

Miền Trung bảo hộ, ôi thôi

590. Ba Miền nước Việt đến hồi tang thương

Xéo dày cho nát quê hương

Trăm năm Pháp thuộc, trăm đường âm u

Đường đi kháng chiến mịt mù

594. Đường vào thăm thẳm ngục tù mở ra

Đường thì đày ải châu sa

Đồn điền, phu tải, thịt da lưng còng

Hàm Nghi mang nỗi hờn vong

[120]

598. Thanh Giảng tuẫn tiết trôi dòng vấn vương

Em thương Hoàng Diệu, Tri Phương

[121]

Phận làm tướng, chỉ một đường tử sinh

Duy Tân biệt xứ một mình

[122]

602. Huế Triều nuốt ngậm điêu linh âm thầm

Cả dân tộc, khối hờn căm

Cả quê hương, bóng ngoại xâm phủ mờ

Cần Vương lên ải mịt mờ

[123]

606. Văn Thân gắng gượng xác xơ não nùng

[124]

Đông Kinh Nghĩa Thục, điệp trùng

[125]

Tiếng lòng cứu nước đều cùng đứng lên

Đường đi kháng chiến thênh thênh

610. Khi nào hết giặc, quê mình mới thôi

Hoàng Hoa Thám, tựa núi đồi

[126]

Nguyễn Trung Trực, mượn con mồi hiếu ân

[127]

Em thương Thái Học vong thân

614. Còn quay nhìn, lưỡi dao đâm vào người

Trước khi chết, ngạo nghễ cười

616. Hôm nay ta chết, mai người Pháp tây

[128]

Tù đày, xử tử, phanh thây

618. Biết bao liệt sĩ tháng ngày âm vang

Em thương Cô Bắc, Cô Giang

[129]

Tuổi còn xuân, gãy nửa đàng, em ơi !

Bắc – Giang, về với chơi vơi

622. Em theo Trưng-Triệu, muôn đời nhớ thương

Em đi khắp phố khắp phường

Từng đốt xương, nối con đường quê hương

[130]

Ba Kỳ, hai chữ đoạn trường

626. Một Kỳ đã khổ, còn vương Ba Kỳ

[131]

Bắc Nam Trung đẹp thế ni !

Đừng kêu đừng gọi Ba Kỳ nữa nghe !

Võng đưa kẽo kẹt trưa hè

630. Em ơi, có cảm tiếng ve kêu sầu

Sầu ai réo tận canh thâu !

632. Khóc ai réo tận tinh cầu lan xa !!!

*******

Năm Năm Người NHẬT Xuất Hiện
Và Chín Năm Người PHÁP Quay Lại
(Từ câu 633 đến câu 666)

Nhìn thêm chút nữa chưa qua

634. Chiến tranh thế giới xảy ra hai thời

[132]

Năm châu bốn biển nơi nơi

Đạn bay bom xéo tơi bời muôn phương

Nhìn về thân phận quê hương

636. Việt Nam đâu có thoát đường tóc tang

Nực cười đất nước Phù Tang

[133]

Tròng hia bảy dặm, vượt ngàn biển khơi

Năm năm kế sách động trời

642. Thực dân, quân phiệt, ai người ách tai

[134]

Ất Dậu chết đói, chết dài

Chết la, chết liệt đến hai triệu người

[135]

Việt Nam vựa lúa xinh tươi

646. Lúa đâu biến mất, khóc cười với ai ?

Văn minh, tiến bộ khôi hài

Lòng lang, dạ thú phơi bày thối tha

Chiến tranh đệ nhị hết đà

650. Nhật mang cờ trắng về nhà đóng khung

Tưởng rằng xâm thực cáo chung

Bàn tay lông lá chập chùng phủ lên

Mượn giải giới để trùm mền

654. Phân chia thế giới trùm lền khắp nơi

[136]

Việt Nam mình đó em ơi !

Chín năm Pháp nữa, tơi bời không thôi

Tiếng kháng chiến, vọng nức đồi

658. Tiếng hồn đau, vọng xa xôi đáy mồ

Thương anh lính chiến xương khô

Thương em thiếu phụ khăn sô quấn đầu

Thương Mẹ Quê, khóc ưu sầu

662. Thương em bé nhỏ dãi dầu không cha

Chín năm một mảnh quê nhà

Trăm năm Pháp thuộc cũng là thuộc Tây

Năm Mươi Tư, cuốn trời mây

[137]

666. Việt Nam sao nữa, em nầy, biết không ?

*******

 

Một Mốc THỜI GIAN
Từ Năm 1954 đến Năm 1975
(Từ câu 667 đến câu 694)

 

*******

Xuân chưa hết, đã vào đông

Oi nồng mùa hạ đã lồng thu phong

Nhìn trông ngọn lá thu phong

670. Lá thu tàn tạ theo dòng thời gian

Nhìn trông ngọn lá thu vàng

Lá vàng rơi rụng bẽ bàng bờ cây

Nhìn trông ngọn gió heo may

674. Trời vừa hanh nắng chưa ngày lại đêm

Năm Tư chia cách Hai Miền

Tình Nam nghĩa Bắc nỗi niềm chưa xong ?

Kìa Bến Hải, chỉ một dòng

678. Sao phân Nam–Bắc để thòng tang thương

Hăm mốt năm, rẽ hai đường

Hai đường làm ngập máu xương dân mình

Mịt mù khói lửa chiến chinh

682. Nát thân con Việt, nát mình núi sông

Nát cả ruộng, nát cả đồng

Nát phường, nát phố, nát chồng lên cao

Một tấc đất, đẫm máu đào

686. Lượm từ tấc đất, đất cào thịt da

Là xương là thịt ông cha

Là con là cháu một nhà, khác chi ?

Em ơi ! Sao nặng bờ mi ?

690. Chảy ròng lên má, nước gì hở em !!!

Ru em nước mắt ngủ êm

Còn non còn nước thì em vẫn còn

Bảy Lăm, một dấu chấm thêm

694. Cùng bao dấu chấm trên thềm quê hương

 

EM TÔI, CÒN ĐÓ QUÊ HƯƠNG
Từ Năm 1975 trở đi, Lịch Sử Nối Dài !
(Từ câu 695 đến câu 722)

 

***

695. Em đi, lòng những vấn vương

Em về, lòng những nhớ thương muôn đời

Em đi, mang nặng xa khơi

698. Em về, mang nặng đầy vơi bên dòng

Em đi, lòng nhớ dặn lòng

Em về, đếm lại chờ mong đợi chờ

Non ơi ! Đứng đó ! Bao giờ !

702. Nước ơi ! Đứng đó ! Bên bờ lên non !

Trăm năm, núi cũng núi non

Ngàn năm, nước cũng nước non bên bờ

Em đi, trong mộng trong mơ

706. Năm ngàn năm, đã đợi chờ thật lâu !

Dòng lịch sử, bãi nương dâu

Nhục vinh, vinh nhục ngập đầu núi sông

Một nét nhục, cũng phải lồng

710. Một nét vinh, cũng phải trông, mới là !

Nước là nước, nhà là nhà

Nhà là của nước, nước là của sông

Em ơi, con Lạc cháu Hồng

714. Em ơi, dòng dõi con Rồng cháu Tiên

Quê hương còn đó, Ba Miền

Việt Nam còn đó, núi liền với sông

Trường Sơn có thấu Biển Đông !

718. Thái Bình có thấu Sông Hồng, Cửu Long !

Đồng Nai đứng đợi cuối dòng

Nước bao nhiêu nữa, cũng nguồn mà ra

VIỆT NAM, non nước một nhà

722. NĂM NGÀN NĂM nữa cũng là VIỆT NAM !!!

 

[①] Dòng họ Hồng Bàng thay nhau gìn giữ dòng giống Lạc Việt ở Phương Nam. Cho tới đời Vua Kinh Dương Vương, truyền lại Lạc Long Quân hiệu Hùng Hiền Vương và truyền lại đến 16 đời sau, đều mang hiệu Hùng Vương, chỉ khác nhau chữ húy chính giữa, từ Hiền, Quốc, Việt, . . . đến Duệ là vị thứ 17. Từ Kinh Dương Vương đến Hùng Duệ Vương gồm 18 đời, nên gọi là 18 đời Vua Hùng Vương. Quốc hiệu là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, và kéo dài từ năm 2879 đến năm 258, tức được 2621 năm, trước Dương lịch.

* Vua Đế Minh lấy một nàng tiên rồi sanh ra Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Long Quân lấy Âu Cơ, con gái người đất Âu, sinh ra 100 anh chị em. Do đó, Thời sơ khai, nước ta có khi gọi là nước Lạc Việt, có khi gọi Âu-Lạc, là kết hợp người gốc Lạc gốc Âu mà thành. Khi người con trưởng nối ngôi, tức đời Hùng Vương thứ 3, mới đặt quốc

hiệu là Văn Lang. Lạc Long Quân gốc Rồng, Âu Cơ gốc Tiên, cho nên dân tộc Việt Nam được gọi con cháu Lạc Hồng thuộc dòng giống Rồng Tiên là vậy.

* Hùng Vương khai quốc, bảo quốc, truyền trao tiếp nối cho tới hôm nay. Do đó, nên gọi Quốc Tổ Hùng Vương. Lập đền thờ tưởng nhớ gọi là Đền Hùng.

 

[②] Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh được 100 người con. Khai triển lập quốc Văn Lang. Một nửa cùng Mẹ ở lại quê nhà cùng nhau đùm bọc, một nửa theo Cha cặp theo dòng nước xuống tận biển để khai khẩn tìm kế sinh nhai. Từ 100
anh chị em, lần lần kết duyên với những bộ tộc khác và truyền tiếp giống nòi

 

[③] NT

[④] NT

[⑤] Nhà Ân (Trung Hoa) xâm lăng VN lần thứ nhất vào đời Hùng Vương thứ 6, nhưng thất bại. Nhờ cậu bé làng Phù Đổng, cỡi ngựa sắt, gươm sắt, nón sắt phi mã như thần, giặc Ân tan nát, qui hàng. Phá xong giặc Ân, về đến Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, lập đền thờ tại Phù Đổng, và tôn Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, ngày 8-4, làng Gióng (Phù Đổng) mở hội lớn gọi là Hội Gióng, lan xa cả Miền Bắc, đến nay vẫn còn.

[⑥] NT

[⑦] Nhà Ân (Trung Hoa) xâm lăng VN lần thứ nhất vào đời Hùng Vương thứ 6, nhưng thất bại. Nhờ cậu bé làng Phù Đổng, cỡi ngựa sắt, gươm sắt, nón sắt phi mã như thần, giặc Ân tan nát, qui hàng. Phá xong giặc Ân, về đến Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, lập đền thờ tại Phù Đổng, và tôn Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, ngày 8-4, làng Gióng (Phù Đổng) mở hội lớn gọi là Hội Gióng, lan xa cả Miền Bắc, đến nay vẫn còn.

[⑧] Thời Hùng Vương, các công chúa đều gọi là Mỵ Nương. Hùng Vương thứ 18, công chúa Mỵ Nương đẹp tuyệt trần, Sơn Tinh, Thủy Tinh đều muốn xin làm Phò Mã. Sơn Tinh được chọn, đón Mỵ Nương về Ba Vì.

[⑨] NT

[⑩] NT

[11] Nước Văn Lang kéo dài 2621 năm thì biến thành nước Âu Lạc, thời An Dương Vương, đóng đô tại Phong Châu, kéo dài 50 năm.

[12] NT

[13] Cổ Loa, một kinh thành tại Phong Châu, đồ sộ, cổ nhất của dân tộc

[14] Tương truyền Thần Kim Quy xuất hiện tại Hồ Gươm (tức Hồ Hoàn Kiếm) mách bảo cho phương cách để xây thành Cổ Loa.

[15] Nhà Tần thống nhất Trung Hoa, xâm lăng VN lần thứ 2, nhưng thất bại.

[16] Tìm hiểu nỏ thần Liên Châu là kế sách chính trị, nhưng không thể phủ nhận chuyện tình sử đẫm lệ giữa Trọng Thủy – Mỵ Châu ! 

[17] Một câu nói “kẻ thù sau lưng“, An Dương Vương quay lại, không thấy ai, đành rơi lệ chém con gái của mình rồi trầm mình xuống biển.

[18] Triệu Đà lên ngôi năm 207, sáp nhập Nam Hải, Âu Lạc thành Nam Việt. Từ Hùng Vương đến cuối Nhà Triệu năm 111 trước Dương lịch, VN kéo dài nền độc lập tự trị 2768 năm, sau đó là 1000 năm Bắc thuộc.

[19] NT

[20] NT

[21] Tể tướng Lữ Gia và vua tôi Nhà Triệu đều bị bắt giết bỡi tướng Lộ Bác Đức, Dương Bộc của Vua Hán Vũ Đế. VN chỉ được gọi Giao Chỉ Bộ,chia ra 9 quận, mà các thái thú như Tô Định vờn, sai như mèo vờn chuột.

[22] NT.

[23] NT

[24] 151 năm đầu của 1000 năm Bắc thuộc, mới có cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên vào năm 40 của Hai Bà Trưng, đánh quân Nam Hán ra khỏi VN, lên ngôi xưng Trưng Vương, đóng đô Mê Linh, kéo dài được 3 năm (40-43). Kể cũng lạ ? Càng lạ hơn, mãi đến năm 248, mới có cuộc khởi nghĩa đáng kể thứ 2 của Bà Triệu thời Đông Ngô. Nghĩa là 359 năm đầu Bắc thuộc, chỉ có 2 lần gọi là khởi nghĩa, đều là Bậc Nữ Nhi, tuổi vừa chớm đôi mươi !!!

[25] Cuộc khởi nghĩa thứ hai được lãnh đạo bỡi cô Triệu Thị Trinh. Mới 19 tuổi. Anh của bà là Quốc Đạt, bảo phận gái 12 bến nước, không lo sớm coi chừng ... Cô Trinh đáp, em phải ra khơi, cỡi Cá Kình, lấp biển Đông, đạp sóng Ngô,... Và thật vậy, Đông Ngô khiếp vía, nhưng vì có nội gian phản bội, không biết đàn ông hay đàn bà ? Bà phải hy sinh tại Núi Tùng, Thanh Hóa năm 23 tuổi. Còn Hai Bà Trưng trầm mình tại Hát Giang, Mê Linh, tuổi còn nhỏ hơn Bà.

 

[26] Cuộc khởi nghĩa thứ hai được lãnh đạo bỡi cô Triệu Thị Trinh. Mới 19 tuổi. Anh của bà là Quốc Đạt, bảo phận gái 12 bến nước, không lo sớm coi chừng ... 
Cô Trinh đáp, em phải ra khơi, cỡi Cá Kình, lấp biển Đông, đạp sóng Ngô,... Và thật vậy, Đông Ngô khiếp vía, nhưng vì có nội gian phản bội, không biết đàn ông hay đàn bà ? Bà phải hy sinh tại Núi Tùng, Thanh Hóa năm 23 tuổi. Còn Hai Bà Trưng trầm mình tại Hát Giang, Mê Linh, tuổi còn nhỏ hơn Bà.

 

[27] Như trên

[28] Nhà Tây Hán nước Việt từ Giao Châu tới Quảng Châu, thời Đông Hán chỉ còn Giao Châu. Khi Ngụy-Thục-Ngô thời tam quốc kết thúc, nước Trung Hoa nhanh chóng loạn lạc thành nhiều nước nhỏ Tấn, Tần, Triệu, Yên, Lương, Hạ, Hán, Tống, Tề tranh bá đồ vương, thành Nam – Bắc Triều, thay ngôi đổi chủ, thì Giao Châu lần lượt cũng bị chuyển theo, rồi lệ thuộc Nhà Lương, cho tới cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn vào năm 544. Đã thấy Nam nhi xuất hiện !!!

[29] Như trên

[30] Lý Bôn người Thái Bình, mồ côi cha mẹ lúc lên 7 tuổi, ở nhờ nhà chú. Sau được Thiền sư chùa Linh Bảo đem về nuôi. Lớn lên kháng chiến giành độc lập, đặt tên nước Vạn Xuân, xây kinh đô tại Sông Tô Lịch (Hà Nội), lên ngôi hoàng đế, mở ra Nhà Tiền Lý khá dài (544-602). Lập Chùa Trấn Quốc (Hồ Tây) để cầu nguyện gia hộ cho nước nhà.

[31] NT

[32] NT

[33] Triệu Quang Phục người Hải Hưng, là danh tướng của Vua Lý Nam Đế, đóng quân tại chiến lũy Dạ Trạch, lên ngôi tức Triệu Việt Vương, còn gọi là Dạ Trạch Vương, đến năm 571 thì mất.

[34] NT

[35] Lý Phật Tử tiếp ngôi Triệu Việt Vương, tức Hậu Lý Nam Đế, kéo dài đến năm 602, thì lệ thuộc Nhà Tùy. Lúc bấy giờ, nhà Tùy lớn mạnh, tóm thâu các nước nhỏ, dẹp yên Nam Bắc triều, thống nhất Trung Hoa.

[36] Nhà Tùy chuyển sang Đường, học kinh nghiệm các triều đại trước. Nước ta không những bị xâm thuộc Nhà Đường, mà càng thêm khốn khổ bội phần. Năm 671, Vua Cao Tông nhà Đường đặt tên nước ta là An Nam đô hộ phủ.

[37] Dương Quí Phi một ái khanh kiều diễm của thời nhà Đường. Xem những diễn xuất, sách vở, ai không khen là một tuyệt thế giai nhân. Nhưng cũng chính vì Bà, nước ta vì trái lệ chi, mà khổ, mà đày, mà nhục, mà chết.

[38] NT

[39] Đã từng gian khổ trước đó, nên Mai Thúc Loan, tự luyện võ-văn, thúc giục nhân tâm, chờ ngày phục hận, và mùa vải năm 722, thời cơ chín mùi, cùng đoàn dân phu tải vải, một người vì vải bể đầu, một ông gìa sắp bị chẻ đôi, Thúc Loan vùng lên, đánh tan quân áp tải, chiếm cả Tống Bình, đuổi quân Đường về nước, lên ngôi Hoàng Đế. Đặt tên nước Vạn An, xây Vạn An

thành, nhưng rất tiếc, Nhà Đường đang hồi cực thịnh, đem quân báo thù, Thúc Loan phải bỏ thân trong rừng, nước ta mất thêm một cơ hội khôi phục.

[40] Phùng Hưng 20 năm kháng chiến, trận quyết định tại Tống Bình – Hà Nội năm 791, quân Đường thúc thủ, tướng Đường là Cao Chính Bình run sợ mà chết, quân giặc đầu hàng. Phùng Hưng được tôn là Bố Cái Đại Vương. Ở ngôi và truyền cho con là Phùng An kéo dài 9 năm, thì bị chiếm năm 802.

[41] NT

[42] Tương truyền trận Bạch Đằng, Phùng Hưng hiển linh để giúp Ngô Quyền, làm cho quân Nam Hán khiếp vía, bị chết chìm và tan rã nhanh chóng.

[43] Họ Khúc dấy nghiệp giành nền tự chủ nước ta kéo dài 17 năm (906-923). Lúc bấy giờ, Trung Hoa là thời ngũ đại tranh quyền. Năm 923, Quân Nam Hán xâm chiếm nước ta, bắt gia đình họ Khúc hãm hại.

[44] Họ Khúc dấy nghiệp giành nền tự chủ nước ta kéo dài 17 năm (906-923). Lúc bấy giờ, Trung Hoa là thời ngũ đại tranh quyền. Năm 923, Quân Nam Hán xâm chiếm nước ta, bắt gia đình họ Khúc hãm hại.

[45] Dương Đình Nghệ là tùy tướng của Khúc Hạo tiếp tục sự nghiệp, đánh thắng ngoại xâm năm 931, độc lập 6 năm thì bị nha tướng là tên Tiễn hãm hại, soán đoạt. Quân Giao Châu quyết trừ thì Công Tiễn thần phục nước Tàu.

[46] Dương Đình Nghệ là tùy tướng của Khúc Hạo tiếp tục sự nghiệp, đánh thắng ngoại xâm năm 931, độc lập 6 năm thì bị nha tướng là tên Tiễn hãm hại, soán đoạt. Quân Giao Châu quyết trừ thì Công Tiễn thần phục nước Tàu.

 

[47] Đây là trận chiến sau cùng vào năm 939, kết thúc chuỗi dài 1050 năm Bắc thuộc, dù trước đó có đôi lần giành độc lập thành công nhưng chẳng bao lâu lại bị thống trị, và sau này, cái mộng xâm lăng vẫn còn, nhiều phen xua 
quân toan tính, kể cả vào cuối thế kỷ 20, nhưng có lẽ, người Trung Hoa, đã đến lúc không khóc ròng như triều thần Nam Hán, thì cũng ê ẩm trước sức quật khởi quật cường bất khuất của người VN, đành phải giảng hòa, cầu hòa, bang giao ngang hàng, và nể mặt VN, như sử sách và thời đại chứng minh.

 

[48] Như trên

[49] Như trên

[50] Ngô Quyền giành độc lập tự chủ hoàn toàn cho nước ta vào năm 939 và truyền nhau ba đời, kéo dài 26 năm (939-965).

[51] Tục ngữ có câu “thừa nước đục thả câu”, có lẽ lúc nào cũng có, thời nào cũng có. Hễ tham vọng ít thì gây đau khổ ít, tham vọng nhiều thì gây đau khổ nhiều. Bất luận là thành phần nào, giỏi hay dở, có học hay thất học. Cái loạn 12 Sứ Quân này, và biết bao nhiêu giai đoạn khác nữa trong lịch sử, thật đúng nghĩa với câu tục ngữ này. Nói câu này, ai cũng nói được, nhưng tránh được, phàm làm người dễ được mấy ai ! Cái loạn 12 Sứ Quân này kéo dài 3 năm thì mới yên được.

[52] Đinh Bộ Lĩnh, người đất Hoa Lư, Ninh Bình. Còn gọi là Anh Hùng Tí Hon. Dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi Hoàng Đế, đóng đô tại Hoa Lư, quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Nhà Đinh không tới 2 đời, kéo dài được 12 năm (968-980)

[53] Tiên Hoàng bỏ trưởng lập ấu. Người anh giận, bèn giết em. Xin mở dấu ngoặc nơi đây, cái chữ ruột thịt, dòng họ, có lẽ chỉ đẹp lúc cơ hàn, nhưng khi giàu sang, quyền thế, lợi danh, đã diễn ra thế nào, lịch sử nước mắt quá nhiều. Riêng chính mỗi chúng ta, đã đang sẽ sống ra sao, tự suy tự nghĩ !!!

[54] Một nha lại, một thuộc hạ, vì sao phản trắc ? Xưa nay đâu phải chỉ có một mình Đỗ Thích ??? Lịch sử phê phán, hậu thế chê cười là một chuyện, nhưng những tang thương, đổ nát, ai đền bù, ai trả được ?

[55] Sau khi cha con Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại, thì Đinh Toàn lên ngôi năm 980 mới 6 tuổi, tại vị được 8 tháng thì sự nghiệp Nhà Đinh chuyển sang Nhà Lê cũng cùng vào năm này. Vì vậy, Đinh Toàn còn gọi là Đinh Phế Đế.

[56] Thái Hậu Dương Vân Nga, giữ kỷ cương thay con, tức Đinh Phế Đế mới 6 tuổi, lên nhiếp chánh. Vì nước không vì nhà, không vì chồng, không vì con. Và việc nước biết đặt trên việc nhà, không lấy cái chung làm cái riêng, không lấy cái riêng làm cái chung, tận trao sự nghiệp nước nhà lại cho thập đạo tướng quân Lê Hoàn, để mở ra Nhà Tiền Lê (980-1009). Dùng chữ Tiền Lê ở đây, để phân biệt với Triều Lê Lợi tức Hậu Lê sau này. Đinh Phế Đế vẫn giữ một vị trí trong triều Lê suốt 20 năm. Làm người mà có được cái nhìn, và ứng xử như Thái Hậu đâu phải dễ. Thật đáng tôn thờ !

[57] nt

 

[58] Năm 980, Nhà Tống xuất đại quân hai đường thủy bộ xâm lăng nước ta. Không ngờ một Bạch Đằng lại tái diễn, thêm một Chi Lăng trên bộ kinh hoàng. Bạch Đằng, Chi Lăng đã nhận chìm và chôn quân nhà Tống. Và, VN đâu muốn là nơi đón nhận người phương Bắc đến để bị chôn vùi. Nhưng rất tiếc cả quá khứ, cả đường dài về sau, vẫn còn tái diễn. Họ quên mất câu :
Tiếc thay Phương Bắc dễ ngươi. Nước Nam định sẵn cho người Phương Nam.

 

[59] Lê Hoàn lên ngôi tức Vua Lê Đại Hành, tạo sự nghiệp Nhà Lê được 29 năm. Đại Hành Hoàng Đế và nước ta lại thêm một lần làm cho Trung Hoa thời Nhà Tống phải ngã gục, tháo chạy về nước.

[60] Thái Hậu Vân Nga sau này lại là Hoàng Hậu của Đại Hành. Đại Hành lại là tướng quân của Bộ Lĩnh. Hoàng Đế Cờ Lau lúc sinh thời thì vợ là Vân Nga. Có trớ trêu không ? Có oan nghiệt không ? Nếu không có Vân Nga, chưa chắc có nhà Lê, nếu không có Lê, Đinh hẳn đã yên, nước hẳn đã còn ? Hơn nữa, Đinh Bộ Lĩnh đã ra người thiên cổ rồi, thì chuyện kia mới có đến sau này !!!

[61] Lại cảnh 4 anh em ruột chém giết nhau vì lợi danh quyền lực ! Tưởng sao, cuối cùng, người còn sống sót lên làm đế vương lại là Long Đĩnh. Hèn chi họ đã chém giết với nhau, tranh giành với nhau để trở thành hôn quân bạo chúa ! Chúng ta đừng vội trách quá nặng, hãy nhìn lại chính chúng ta đi ! Nhớ ngẫm :“Gót danh lợi bùn pha sắc xám. Mặt phong trần nắng nám mùi dâu,. . .“ ???

[62] Nếu không có Hạ, Thu, Đông thì làm sao có Xuân ? Ngược lại, nếu không có đá, sắt, chì thì làm sao biết được kim ngân, ngọc thạch ? Nhưng, nếu có đáng tiếc chăng, là tiếc một người ngồi trên ngôi tột đỉnh, mà lại có một cuộc sống, hành vi, bản chất không bằng một người hạ tiện trong bàng dân thiên hạ.

[63] nt

 

[64] Sang Triều Lý (1010-1225), đổi tên nước Đại Việt. Đại La đổi thành Thăng Long, truyền nhau được 9 đời thái bình thịnh trị, kéo dài 215 năm. Ở đây, nên suy, Triều Ngô-Đinh-Lê ngắn ngủi, tao loạn là lẽ đương nhiên vì là cái cây mới vươn lên từ sóng gió, còn Triều Lý, và Trần sau này được như thế là hoa trái tự thành.
* Lý Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, Hà Bắc, mất cha từ trong bụng mẹ, vừa ra đời mẹ cũng không còn. Sống, lớn lên nhờ tương chao nuôi dưỡng của Chùa Tiên Sơn, với sự dìu dắt, nương tựa đức độ của Thiền sư Vạn Hạnh. Đây là triều đại dài nhất trong lịch sử các triều đại VN, nếu không tính thời Hồng Bàng và triều đại Hùng Vương. Xin thương kính một em bé mồ côi trở thành bậc Minh Quân, và xin thắp một nén hương hướng về Vạn Hạnh !!!

 

[65] nt

[66] nt

[67] nt

[68] Bốn câu thơ để đời của danh tướng Lý Thường Kiệt, : “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư . . .” như câu sấm, từ nay VN là của người VN. Dù có trải những oan nghiệt đã đang sẽ ra sao, nhưng VN vẫn mãi mãi là của người VN !

[69] nt

[70] nt

 

[71] Công chúa Chiêu Thánh lên ngôi tức Lý Chiêu Hoàng năm 1225, và nhường ngôi cho chồng tức Trần Cảnh lập nên nhà Trần. Lý-Trần vẫn yên thắm, sơn hà xã tắc vẫn thái bình kéo dài thêm 175 năm vàng son. Ắt hẳn đó là ân của
Nhà Lý và đức của Nhà Trần !

 

[72] Hai triều đại Lý – Trần từ 1010 đến 1400, kéo dài 390 năm huy hoàng nhất, rạng rỡ nhất, thái bình thịnh trị nhất trong dòng lịch sử VN. Có thể nói, những nhân vật tài ba xuất chúng cũng đều xuất hiện trong thời này, để cấu thành một VN 4 thế kỷ văn võ toàn tài, vua dân toàn thiện, và mở ra trang sử dài toàn mỹ toàn chơn. Có lẽ 1000 năm Bắc thuộc đã tôi luyện nhuần nhuyễn, chín muồi, và 70 năm của ba triều Ngô-Đinh-Lê đã sàn sảy gạn lọc, quá dài, quá nhiều và quá đủ để hoàn thành một vườn hoa kỳ diễm cho Dân Tộc Việt Nam.

[73] nt

[74] nt

[75] Hội nghị Diên Hồng đã có tại VN vào thời kỳ này. Phải chăng, cha ông ta đã bằng trí tuệ, con người và tình tự dân tộc, thể hiện ý thức dân chủ trước nhân loại đến nhiều thế kỷ.

[76] Sử sách để lại cho biết nước Trung Hoa thời Mông Cổ đã tung gót vó chiến chinh đởm lược khắp Á, Âu, đánh đâu thắng đó, nhưng ba lần tấn công xâm lược đều ba lần đại bại tại VN. Vậy mà, vẫn chưa đủ là bài học cho nước này !

[77] nt

[78] nt

 

[79] Thời Nhà Trần, nước ta thái bình, cực thịnh. Trong thì an cư lạc nghiệp, xây dựng quốc gia, tài bồi văn hóa, hòa hóa tam giáo đồng nguyên, thắm tô đạo đức. Ngoài thì bang giao tương nhượng bình đẳng, nhưng nếu cần, cũng không ngại thể hiện sức mãnh liệt bất khuất oai hùng biến thành trời long đất lở để dẹp tan quân xâm lược bạo tàn. Như Nguyên Mông ba lần đã chứng minh. Tuy nhiên, nhà Trần cũng nêu cao đức hiếu sinh, biết thương nước nhỏ và yếu hơn mình, giao hảo hiền hòa, mà câu chuyện Huyền Trân công chúa là một cách ứng xử. Đứng bên ngoài, có thể có khen chê, nhưng chúng ta không phải là Nhân Tôn ! Dù ai dù oán, nhưng chúng ta không là Huyền Trân công chúa ! Riêng tôi, thầm nhớ câu ca dao thuở nào :
“Tiếc thay Cây Quế giữa rừng, Để cho “dây” mán “rễ” mường nó leo”

 

[80] 400 năm Lý – Trần vàng son, bao nhiêu sử sách mà còn thiếu còn thừa, huống chi chỉ mấy vầng thơ giản lược mà đề cập đến cả 400 năm lịch sử huy hoàng !

[81] Hồ Quý Ly, người Thanh Hóa, ép Vua Trần lên ngôi năm 1400, đổi tên nước Đại Ngu, dời đô vào Thanh Hóa, sau này còn gọi Tây Đô. Có tài nhưng thiếu thiên thời, nhân hòa. Một khi đã mất lòng dân thì không chóng thì chầy sẽ chuốc họa vào thân, và 3 cha con, vừa đỡ đòn bên trong, vừa chống trả bên ngoài, sau cùng bị bắt và bỏ thân bên Tàu. Cờ trong tay chỉ vung được 7 năm.

[82] như trên

[83] Con cháu Hậu Trần xuất hiện và chống đỡ 6 năm, nhưng cuộc cờ đã tàn, đành nhảy xuống biển tự tử. Hành động này cũng là khí phách Nhà Trần, thật đáng khen ! Nhà Trần trước sau làm Vua được 14 đời.

[84] Khi nước ta lâm biến thì Trung Hoa xuất hiện. Và nên nhớ họ lúc nào cũng lâm le nuốt trửng VN. Khi cường thịnh thì ra bộ bang giao, khi suy vi thì không ngại xâm thực, mà lòng dạ của họ đã đầy ắp tham vọng cống cao là “thiên tử” là “Trung Quốc, có nghĩa nước lớn ở giữa”

[85] Thời Nhà Trần, có Trần Hưng Đạo với Hịch Tướng Sĩ. Thời Nhà Lê, có Nguyễn Trãi với Bình Ngô Đại Cáo. Hưng Đạo giúp nhà Trần ba lần đại thắng Mông Cổ thì Nguyễn Trãi một lần giúp Lê Lợi chiến thắng quân Minh. Đó cũng là lẽ tự nhiên mà thôi. Và Lê Lợi mở ra triều Lê Sơ 100 năm, trải qua 10 đời.

[86] nt

 

[87] Nhớ Lê Lợi, lại nhớ Lê Lai. Và VN ta vốn đã có nhiều Lê Lai từ xưa tới nay để bừng sáng lên ai là vương mệnh, tướng mệnh để cầm cân nẩy mực. Xin mở một dấu ngoặc ở đây, 10 năm bị đàn áp tàn bạo, nhưng khi quân Minh thất trận
và qui phục, nước ta rơi lệ tiễn chân, còn cung cấp cả phương tiện nữa. Phải chăng nhờ ân đức cao dày mà tổ tiên ta đã đi trước thiên hạ nhiều thế kỷ về chính sách tù binh hàng binh !

 

[88] nt

[89] Câu chuyện Thị Lộ “chiếu gon” và danh thần quân sư Nguyễn Trãi bị ba đời tru di tam tộc, dù là lệnh nước và thân phận làm tôi, nhưng chúng ta vẫn cảm nhớ, thương tiếc cho Nguyễn Trãi và khóc thương cho cô gái Tây Hồ !!!

[90] Mạc Đăng Dung người Hải Dương tiếp nối Lê Sơ nhưng cơ nghiệp không thành, cho đất nước biến thành Nam – Bắc triều tang tóc hơn 50 năm. Từ Hậu Lê sản sanh Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài cả 200 năm, lấy Sông Gianh chia đôi và từ đó, cảnh nồi da xáo thịt cay nghiệt nhất, tang thương nhất, dai dẳng nhất trong lịch sử 5000 năm của Dân Tộc.

[91] Dù Nhà Mạc, rồi Vua Lê Chúa Trịnh Đàng Ngoài có làm được gì ? Nam triều rồi Chúa Nguyễn Đàng Trong có làm được gì ? Những thành công đó có đủ để trả lại 261 năm xương máu của dân tộc, và hàn gắn 261 năm dày nát non sông ???

[92] nt

[93] Khởi đầu giúp Nhà Hậu Lê, vì không thần phục Nhà Mạc, là cha vợ con rể Nguyễn Kim – Trịnh Kiểm. Từ giúp Vua giúp nước biến thành cha con, anh em, rồi kéo theo cả dòng họ, cả dân tộc, cả đất nước lâm vào cảnh nồi da bại hoại 261 năm. Yêu nước ư ? Quyền lực ư ? Danh vọng ư ? Còn chúng ta, sống ra sao đối với gia đình ? Đối với quê hương ? Đối với đất nước ?

[94] Chiến tranh là như thế. Tàn cuộc là đầu rơi, tay chân đứt lìa, thân thể nát tan mà hốt, mà xâu từng bó đem về mà chôn tập thể, vì không thể nhận diện !!!

[95] Đứng về mặt mở mang đất nước, Việt Nam chúng ta đến thời này đã kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Vì có lẽ hình thái quê hương đã ẩn trong chữ “S”, hai đầu bao la, chính giữa nhỏ lại, như Người Cha Việt Nam gánh cả giang sơn, như Người Mẹ Việt Nam gánh cả nước non, chứ đầu bên kia, nếu tiến xa hơn nữa về Phía Tây, hay xa hơn ra Phía Bắc, thì hình thể của nước Việt Nam đã khác !!!

 

[96] Trên quê hương Miền Trung VN còn nhiều ngọn Tháp điêu tàn, dù muốn dù không, nhất là đọc vài bài thơ của Chế Lan Viên, nghe vài tiếng hát của Chế Linh, hay nhìn một ít người đầu quấn khăn, thân quấn xà rông, về tính giang
sơn xin tạm gác lại, về tính tình tự, vẫn nghe một nỗi khắc khoải, u hoài !!!

 

[97] Lại thêm một vị Vua cầu cứu Bắc phương, bao bài học đã qua đâu cần nghĩ tới. Ông Vua này đã đưa đến một hậu quả, may nhờ có Quang Trung xuất hiện chứ không thì VN dễ gì thoát khỏi cái ách đã bị tròng lên ??? Nhưng rất tiếc, một cái ách xa hơn, lại từ Chúa Nguyễn mở đường cho họ mang về !!!

[98] Nhớ lại Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Ở đây, con quốc đã 261 năm trường có còn nước miếng để kêu, có còn hơi để lên tiếng nữa không ? Không biết con quốc của Bà Huyện là con quốc nào ???

[99] 20 vạn quân Thanh ngã gục tại Đống Đa, tiếp tục truy quét, đang tiến tới một nửa Lưỡng Quảng thì tạm dừng chân. Nếu Quang Trung còn, chưa biết phía Bắc nước VN sẽ ở vị trí nào ?

[100] Nhà Nguyễn Tây Sơn kéo dài 24 năm, tuy có ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ, nhưng nếu không có người ở giữa thì hai người kia chưa chắc làm nên chuyện lớn, mà lịch sử để lại đã đủ chứng minh.

[101] 20 vạn quân Thanh ngã gục tại Đống Đa, tiếp tục truy quét, đang tiến tới một nửa Lưỡng Quảng thì tạm dừng chân. Nếu Quang Trung còn, chưa biết phía Bắc nước VN sẽ ở vị trí nào ?

[102] Thừa thắng Đống Đa năm 1788, đang tiến tới nửa hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, tạm cho nghỉ quân. Quang Trung Hoàng Đế lo chỉnh trang đất nước, về kinh đô Phú Xuân để vừa giữ Bắc phòng Nam. Vua Càn Long vừa muốn kết giao hai nước, vừa mến tài đảm lược nên đã bằng lòng gả một công chúa do Quang Trung chọn lựa, để tạo mối thâm tình, và giao Lưỡng Quảng cho Quang Trung cai quản. Chẳng may tuổi mới 40 đã băng hà, đất hai Quảng chỉ còn là câu chuyện. Và nếu Quang Trung còn thì VN sau đó chưa biết sẽ ra sao ?

[103] nt

[104] nt

[105] Ai có tưởng Quang Trung thì truy niệm, chứ nấm mộ còn đâu mà khói mà hương !!! Có trách là trách Nguyễn Ánh khi lên ngôi, vì mối thù bôn tẩu, đã quật mồ Quang Trung rồi ném xuống biển. Tấm lòng một vị vua mà như vậy, thật đáng tiếc !

[106] Quang Trung băng hà năm 1792, vậy mà mãi đến 10 năm sau, Chúa Nguyễn Ánh mới thống nhất được nước nhà vào năm 1802.

[107] Vua Gia Long lên ngôi năm 1802, đặt quốc hiệu Việt Nam, kinh đô tại Huế, đây là triều đại Vua Chúa cuối cùng của nước VN, kéo dài đến năm 1945. * Nhà Nguyễn gần gũi tới thời cận đại của đầu nửa thế kỷ 20, nhiều âm vang thời này vẫn còn. Hơn nữa, triều Nguyễn Gia Long còn để lại khá nhiều tàn tích cho VN, Huế cố đô còn đó, tên nước Việt Nam đang dùng, chữ nước Việt Nam đang gọi, làm sao không nhớ không thương và làm sao quên được !!!

[108] nt

[109] Bảo Đại, vị vua cuối cùng của VN mất tại Pháp mới đây, với 50 năm lưu vong. Chợt lại nhớ Vua Hàm Nghi, Duy Tân, vì yêu nước phải mất tận Phi Châu trong cuộc sống lưu đày. Để em có nghe “Con đường Duy Tân, cây mát bóng mát,...” ?

[110] nt

[111] Đi đường Phan Thanh Giản, Trương Minh Giảng tại Sài Gòn, hay trên những phố thị đó đây. Một vị là Trấn Tây Thành tức Cam Bốt bây giờ, bị bịnh mất tại An Giang, một vị tuẫn tiết bỡi Nam Kỳ Lục Tỉnh thất thủ. Ai còn nhớ không ?

[112] Tên nước Việt Nam được đặt vào năm 1804, sau 2 năm Gia Long lên ngôi, và chữ Việt trở thành chữ quốc ngữ VN ngày nay, cho dù Bá Đa Lộc là vị khai tổ, nhưng cũng có phần của Triều Nguyễn vậy !

[113] Tên nước Việt Nam được đặt vào năm 1804, sau 2 năm Gia Long lên ngôi, và chữ Việt trở thành chữ quốc ngữ VN ngày nay, cho dù Bá Đa Lộc là vị khai tổ, nhưng cũng có phần của Triều Nguyễn vậy !

 

[114] Trước khi kết thúc Triều Nguyễn, xin nhắc lại :
a) Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho câu sấm : “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” để báo trước dòng dõi Chúa Nguyễn về sau.
b) Chúa Nguyễn Hoàng nằm mơ có thấy một người đàn bà từ trên trời xuống báo mộng, nên xây một ngôi chùa tại địa điểm nầy thì tự thân mới an, cơ nghiệp mới thành. Nên ngôi chùa được trùng tu, sắc tứ, các Chúa Nguyễn và nhân gian có khi gọi là Linh Mụ, có khi là Thiên Mụ.
c) Bảo sanh viện Từ Dũ tại Sài Gòn được đặt tên Mẫu hậu của Vua Tự Đức và là Hoàng thái hậu Vua Hàm Nghi. Khi Hàm Nghi bị Pháp bắt mới 16 tuổi, đày sang Phi Châu, rồi chết tại đó sau này, thì Bà Từ Dũ đưa các cung phi, cung tần, đàn bà ốm yếu, trẻ thơ về Kinh chăm sóc. Có lẽ từ đó, để tưởng nhớ tới bà, xem như một người mẹ bảo bọc cho những đứa con thơ, mà Bảo sanh viện được chọn tên Từ Dũ, mang danh của Bà. Và xin nhắc tới Bà Nam Phương, để nhớ tới một Hoàng hậu sau cùng của vua chúa Việt Nam

 

 

[115] Các nước Tây Phương bắt đầu tìm thị trường buôn bán, người của họ vốn theo đạo Ki Tô, nên cũng theo bước chân đó lan đi. Hễ nơi nào dễ bị khuất phục bỡi hào quang vật chất, để họ mở thị trường và người của họ tự do vừa truyền giáo
vừa ban bố phần nào vật chất, thì nơi đó sẽ mang cái ách nhẹ hơn. Hễ nơi nào cứng rắn, cấm cản, thì họ gào, họ la và trước sau gì cũng có chuyện.
Xanh : Tư Bản ; Đỏ : Cộng Sản ; Đen : Quân Phiệt ; Lam : nô lệ ; Trắng : đầu hàng ;
Vàng : Trung Lập nửa mùa ; Xám : Bản chất các thể chế.
* Bài này, sơ lược tính thực dân của những nước thực dân bắt đầu từ thế kỷ 15 trở đi cho tới hôm nay. Từ hình thái đó biến thành Thực dân, Tư Bản, Cộng Sản, Trung Lập, mà tất cả các quốc gia, tự cuốn vào không khối nầy thì khối kia, rồi chậm tiến, tiến bộ hay siêu cường. Lại rêu rao tự do, dân chủ, nhân quyền nhưng là những mỹ
từ mà kẻ mạnh lúc nào cũng hơn. Vì vậy, thế giới chưa yên được, nhân loại chưa yên được. Đạn bom ba khối đã đổ ra, trời còn long, đất còn lở, huống chi con người. Và tài nguyên để chạy đua vũ khí lo phòng, chống, đỡ, mà dừng lại được, để dùng vào mục tiêu nhân sinh, môi trường, . . . và hàn gắn lại những đổ vỡ thì cuộc sống con người sẽ an lành thay, trái đất sẽ an lành thay !!!

 

[116] Những doanh nhân và những nhà truyền giáo các nước Pháp, Bồ, Hòa Lan đã có mặt tại VN rất sớm, từ những thế kỷ 15 trở đi rồi.  

[117] Nói nặng với kẻ mạnh đã mệt, mà máu của kẻ mạnh đã đổ ra, thiếu tinh tế, bén nhạy để nhìn tình hình, cái trục quay đang chuyển, nghiền những sức cản yếu đuối, lại còn hà khắc, bảo thủ, thì đương nhiên phải có chuyện. Và năm 1847 đời Thiệu Trị, năm 1857 đời Tự Đức, 2 lần súng nổ là 2 lần báo hiệu với khoảng cách 10 năm, cho biết đất nước ta đã được chấm điểm và chấm tọa độ rồi. Vậy mà để đến nhất quá tam là xong !!!

[118] nt

[119] Sau tiếng súng lần thứ 2 bắn vào cửa biển Đà Nẵng mà triều thần Tự Đức chưa bừng tỉnh. Hai năm sau 1859, Pháp chính thức tấn công xâm chiếm Vũng Tàu, Sài Gòn. Năm 1861 chiếm Định Tường. Mất 3 tỉnh miền Đông : Gia Định, Biên Hòa, Định Tường. Năm 1882, mất tiếp 3 tỉnh miền Tây : An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long. Phan Thanh Giảng đã tuẫn tiết vì mất Nam Kỳ Lục Tỉnh.

[120] Năm 1883, Pháp tấn công Miền Bắc, tấn công Hà Nội, Nguyễn Tri Phương bị thương, không chịu băng bó, không chịu ăn uống rồi chết. Hoàng Diệu tiếp tục chống cự nhưng chẳng bao lâu Hà Nội bị thất thủ. Ông đã treo cổ tự tử.

 

[121] Hòa ước Patenôtre 1884, nước ta bị Pháp thuộc hoàn toàn : Miền Nam tự trị, Miền Bắc thuộc địa, Miền Trung bảo hộ. Vua Hàm Nghi và các trung thần lập kế hoạch chống Pháp. Phong trào Cần Vương nổi lên, Hàm Nghi là linh hồn của
phong trào này. Năm 1888, nhà vua bị bắt. Khâm phục một vị Vua mới 16 tuổi đã nói : nước đã mất, nhà đã tan, thân tôi nào đáng gì, mấy ông làm gì thì làm. Vì không mua chuộc được, nên bị đày đi Algérie, thuộc địa của Pháp ở Phi Châu. Rồi chết tại đó.

 

[122] Vua Duy Tân, chưa đầy 16 tuổi đã nói : “Tay dơ lấy nước rửa, nước dơ lấy gì rửa ?”, lời nói của Nhà Vua có khác ! Ai mà không Cần Vương cho được ? Ai mà không Văn Thân cho được ? Vua bị bắt năm 1916, mới 16 tuổi, nhốt 10 ngày tại đồn Mang Cá, rồi đày đi Phi Châu, chết tại xứ người. Hai nhà vua Hàm Nghi, Duy Tân còn như thế, thành ra bao nhà cách mạng không lên đường sao được, dù bị tử trận, tù đày, xử tử cũng chỉ vì nước vì dân.

[123] nt

[124] nt

[125] Đông Kinh Nghĩa Thục được khai sinh năm 1904 bỡi nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, và kẻ đồng sàng Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền...

[126] Hoàng Hoa Thám, con hùm xám Yên Thế, khét tiếng những vùng đồi núi Bắc Việt với 26 năm trường dai dẳng đấu tranh, chết năm 1913.

[127] Khét tiếng Miền Nam có Nguyễn Trung Trực “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạt Kiên Giang khắp quỉ thần”, Pháp phải dùng quỉ kế “bắt mẹ làm mồi", và Ông bị bắt, bị tử hình năm 1868.

[128] Nguyễn Thái Học, một sinh viên, 25 tuổi đã là lãnh tụ Quốc Dân Đảng, bị bắt cùng 12 chí sĩ bước lên đoạn đầu đài Yên Bái năm 1930, Thái Học vừa tròn 28 tuổi.

[129] Tức Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, hai chị em ruột, sinh tại Bắc Giang, nên cha mẹ đặt tên cô chị là Bắc, cô em là Giang. Phong trào Yên Bái thất bại, cô Bắc bị giam, tự tử trong tù trước khi đưa ra hành quyết. Cô Giang, một nữ đảng viên, hôn thê của Thái Học, cô chưa bị bắt, tính phá pháp trường, nhưng không được, cô nhìn tận mắt 13 anh hùng Yên Bái lên đoạn đầu đài, rồi cô tìm về Vĩnh Yên, quê quán cố nhân, thắp một nén hương truy niệm, và kết liễu đời mình, được 22 tuổi.

[130] Từng con đường thành phố của quê hương, nào Hùng Vương, Thái Tổ, Hưng Đạo, Quang Trung, Nào Trưng Vương, Bà Triệu, Cô Bắc, Cô Giang, . . . Anh có nghe ? Chị có nghe ? Em có nghe ? Tôi có nghe và ai có nghe ???  

[131] Danh từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ là hình ảnh đau thương 100 Pháp thuộc, cái từ để phân chia, phân hóa, ngăn cách, và có thể hàm ý ai oán, hận thù. Đúng ra, nó đã bị tự diệt theo Pháp từ ngày biến khỏi VN, ta không nên dùng và không nên để nó tồn tạị. Bắc Nam Trung là địa dư, chứ đã là người VN thì đâu nên ám thị quá nặng người Bắc Kỳ, người Trung Kỳ, người Nam Kỳ cho Mẹ Việt Nam đau khổ !!!

[132] Thế giới chiến tranh đệ I : 1914-1918 ; Đệ II : 1939-1945 cùng thế kỷ 20.

[133] Khối trục Đức, Ý, Nhật chủ động và phát khởi chiến tranh thế giới đệ nhị. Nhật Bản chiếm toàn bộ Đông Dương, trong đó có Việt Nam từ năm 1940 đến năm 1945, thay thế Pháp. Khi đồng minh thắng Trục thì Nhật đầu hàng vô đìều kiện, quân Nhật đóng tại nước ta phải rút về

[134] Pháp, Nhật cùng cai trị VN và năm Ất Dậu 1945, gạo thóc biến mất, 2 triệu người Việt Nam phải bị chết đói, không căm thù nhưng ta không quên : Một Ba Lê, thủ đô ánh sáng, và một Đông Kinh, Thái dương Thần Nữ !!!

[135] nt

[136] Đệ II thế chiến kết thúc, những nước gọi là đồng minh đứng trong thế lưỡng cực, tự họ khoanh vùng, phân chia, chấm điểm cài răng lược khắp các quốc gia, mà những nước nhỏ, tự bị cuốn theo, và bị trùm lên cái mền được phủ sẵn. Mọi đỡ chống là chỉ để co để duỗi sao cho khỏi bị nắng táp ba đào, phải thế không ???

 

[137] Năm 1954, cái mền của Pháp đã hết hiệu nghiệm trên quê hương Việt Nam. Những 90 năm rồi 9 năm quay lại nữa. Đã trùm đã phủ rồi.
Trăm năm đô hộ còn gì ? Trăm năm đô hộ còn chi ?

 


Ta đi trên nước non mình

Tháng 03 - 2004. 

Ta đi trên mọi con đường

Ta đi khắp nẻo quê hương

Ta đi khắp lòng đất nước

Đường lên miền ngược

Đường về miền xuôi

Lên truông qua mấy lưng đèo

Cao nguyên, miền ngược cheo leo núi đồi

Xuôi về tận cuối miền xuôi

Dọc theo bờ biển mặn mùi phù sa

Dọc ngang lên xuống lại qua

Để thăm đất nước hương hoa ba miền

Ta đi khắp nẻo tình quê

Ta về khắp lòng phố thị

Lên cao nguyên, núi rừng hùng vĩ

Ghé thượng du, heo hút buôn làng

Ghé trung du, tiếng hát còn vang

Về Hà Nội, ngàn năm văn vật

Gió bay lất phất

Gợi bóng Cổ Loa

Hồn thiêng sông núi chưa nhòa

Xa xa hương khói đền thờ Hùng Vương

Thăng Long dấu ấn còn vương

Hà Nội ba sáu phố phường dấu yêu

Ta đi các tỉnh địa đầu phương Bắc

Nhìn về dấu móc, ghi Ải Nam Quan

Nghe tiếng kêu sử tích chưa tàn

Mù khói lửa trải dài thời đại

Đường đi quan ải

Nhớ nước non nhà

Hồn vi vu, tiếng gọi của ông cha

Đau da diết đã ngàn năm gìn giữ !

Đường về bến Ngự

Ghé chợ Đông Ba

Lá me đưa đẩy la đà

Vương vương nhớ bóng chiều tà Cố Đô

Sông Gianh, mấy trăm năm, xương máu phơi khô

Bến Hải, mắt rưng rưng, lệ nhòa tình tự

Đường trường xa, ta còn đi nữa chứ

Đáp Qui Nhơn, văng vẳng tiếng Đồ Bàn

Xuyên vào Phan Rí, Phan Rang

Rêu mờ khép kín Tháp Chàm hồn bay

Miền Trung sỏi đá khô cày

Thùy dương cát trắng có hay nỗi niềm 

Đường dài chưa hết

Mấy nẻo chưa quên

Đi về thành phố Sài Gòn

Ba trăm năm cũ vẫn còn khắc ghi

Sài Gòn giã biệt ra đi

Và bao năm nữa, bờ mi khép hờ

Sài Gòn, còn đó mộng mơ

Bạch Đằng gợn sóng bên bờ thành đô

Miền Nam ta đó nên thơ

Bước đi từng bước cuối bờ Cà Mau

Xanh xanh bát ngát một màu

Miền Nam ơi hỡi, dạt dào mến thương

Ta đi trên khắp nẻo đường

Ta về trên khắp phố phường dấu yêu

Đi qua mấy nẻo cầu kiều

Đi về mấy nhịp nâng niu dân tình

Ta đi trên nước non mình

Ta về lưu lại bóng hình quê hương

Ta đi một nhớ hai thương

Ta về ta nhớ vấn vương muôn đời

Tình quê, xin gởi nụ cười

Hồn quê, xin gởi con người Việt Nam.

Tình Ca Muôn Thuở

Của Người Việt Nam

 * Xuân Giáp Thân 2004 *

Tôi đứng bên này biển

Anh đứng bên kia bờ

Cách nhau một đại dương

Nhìn biển khơi trùng điệp !

Từng làn sóng, thấp cao hòa nhịp

Dù gần xa, nối tiếp kéo theo

Vừa đẩy vừa xô, rác rưới, bọt bèo

Tấp vào bờ, cho biển lộng

giữa trời xanh mây trắng

Nhìn quê hương, anh nghe nhiều cay đắng

Nhìn cội nguồn, tôi thấm những niềm đau

Sừng sững Trường Sơn thăm thẳm một màu

Mênh mông Thái Bình rạt rào tiếng gọi

Mẹ nằm đó, mắt lệ nhòa, không nói

Cha trầm ngâm, trắng phếu, bạc mái đầu

Đêm phủ đã dài, bóng tối vẫn chìm sâu

Mặt trời còn ngủ, bình minh chưa ló dạng

Kéo mặt trời lên, cho vừng đông tỏ rạng

Đẩy bóng tối đi, cho ánh sáng hiện về

Những con đường quê hương nối nhịp đề huề

Reo khúc nhạc tình ca, lên ngôi lịch sử

Mẹ còn đó, gối đầu tình tự

Cha còn đây, ôm mảnh dư đồ

Biển rộng sông dài, gìn giữ điểm tô

Nguồn cội ngàn xưa, tình non nghĩa nước

Từng thế hệ trao nhau, lần dấn bước

Con đường dài, vang khúc nhạc quê hương

Hoa lá đơm bông trên vạn nẻo đường

Cho Tổ quốc Việt Nam, ngàn năm tươi sáng

Tôi đứng từ nguồn cạn

Anh đứng tận đầu ghềnh

Và những đàn em hụt hẫng, chênh vênh

Khơi nước chảy, cho sông dài biển rộng

Dòng lịch sử còn rung thời tiết đọng

Thuở dựng cờ, khai tổ quốc giang san

Tình non nghĩa nước mênh mang

Như tia nắng rọi trên hàng thùy dương

Anh đi xây đắp nẻo đường

Tôi đi vá lại quê hương rã rời

Em đi môi thắm hoa cười

Tình ca muôn thuở của người Việt Nam.

Điệp Khúc QUÊ HƯƠNG

* 12-2003 *

Tôi hát khúc nhạc Trường Sơn

Cao vút núi non hùng vĩ

Tôi ca âm điệu Thái Bình

Rạt rào biển cả mênh mông

Nối liền tình biển nghĩa sông

Tình non nghĩa nước một dòng hùng ca

Bắc Nam Trung thật đậm đà

Ba miền đất nước một nhà Việt Nam

Hát từ thuở Vua Hùng, lập quốc Văn Lang

Ca nguồn cội Rồng Tiên, mẹ Âu cha Lạc

Truyền nối nhau năm mươi thế kỷ đã thừa

Hát về tình tự xa xưa

Hát vang không dứt để chừa mai sau

Da vàng máu đỏ một màu

Nắm tay xây dựng nhịp cầu quê hương

Hát vang trên khắp nẻo đường

Hát vang thôn xóm, phố phường thân yêu

Tôi hát tiếng kiêu sa, dựng cờ lịch sử !

Tôi hát tiếng oai hùng, bảo vệ non sông !

Năm ngàn năm, mãi khơi dòng

Kết tinh thành mảnh hình cong dư đồ

Giang sơn gấm vóc điểm tô

Non sông cẩm tú nên thơ diệu kỳ

Hát trên những bước đi

Miền Bắc khai nguyên

Cái nôi dân tộc

Thăng Long, Hà Nội

Hát trên những nẻo đường

Lịch sử vươn dài

Từ ải Nam Quan

Đến mũi Cà Mau

Hát thành phố Sài Gòn

Hòn ngọc viễn đông

Ba trăm năm, trang sử lên ngôi

Hát Huế Kinh đô 

Tiếng vọng Trường Tiền mấy nhịp

Dạ sầu sông Hương núi Ngự

Hát nữa đi em, bài ca tình tự

Hát nữa đi em, tiếng hát tình quê

Trường Sơn lan tỏa câu thề

Thái Bình loáng bạc, sóng kề nước reo

Hát lên cao vút lưng đèo

Ngân sâu bóng nước, mái chèo đò ngang

Tâm tư hòa điệu cung đàn

Em reo khúc nhạc tình tang trở về

Nhạc vàng trổi khúc tình quê

Năm ngàn năm, vẹn ước thề núi sông

Trường Sơn ca khúc Biển Đông

Em reo ca khúc Lạc Hồng Việt Nam

Núi non ca khúc xanh lam

Em reo ca khúc ngàn năm Tiên Rồng

Non sông ca khúc một dòng

Em reo ca khúc một lòng nhớ thương

Tình quê ca khúc nẻo đường

Em reo ca khúc quê hương muôn đời

Thuyền reo ca khúc xa khơi

Em reo ca khúc muôn đời Việt Nam.

Dệt Mộng MƯỜI ĐI

Tháng 02 - 2004. 

            Ai đi thơ thẩn dưới trăng

Ngẩn ngơ cho ánh trăng vàng lung linh

          Ai ngồi ủ dột đầu ghềnh

Trơ vơ cho đá chênh vênh tháng ngày

          Ai lùa gió nhẹ heo may

Phất phơ cho lá lung lay bụi trần

          Ai lồng cho áng phù vân

Lửng lơ trôi nổi xa gần trời mây

          Ai nghiêng nắng đổ về tây

Cho chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời

          Ai làm mặt nước chơi vơi

Cho thuyền khuất bóng tăm hơi chưa về

          Ai làm lở lói bờ đê

Cho sông hỏi nước não nề nước sông

          Ai làm trơ trọi ruộng đồng

Cho lúa hỏi mạ trổ bông mấy mùa

          Đếm trong vụn vỡ được thua

Cái quay búng sẵn, gió lùa đêm đông

          Đầu ghềnh nói chuyện núi sông

Hỏi non non thẳm, hỏi sông sông dài

          Ngày nay rồi lại ngày mai

Và ngày mai nữa một hai chưa tròn

          Núi bao nhiêu tuổi núi non

Non bao nhiêu tuổi non còn núi cao

          Đêm đêm tỉnh mộng thì thào

Non non nước nước nao nao mấy bờ

          Một đi bến đợi sông chờ

Hai đi non đợi nước chờ xanh xanh

          Ba đi xây nguyện ước thành

Bốn đi sức lực để dành quê hương

          Năm đi kêu gọi tình thương

Sáu đi xây đắp nẻo đường Việt Nam

          Bảy đi tay chống tay làm

Tám đi kinh Bắc bình Nam không sờn

          Chín đi gìn giữ sắt son

Mười đi toàn vẹn cháu con Tiên Rồng

          Một đi là núi là sông

Mười đi là giống là giòng Việt Nam.

Người Cha Việt Nam

Người Cha nước Việt thật đường đường

Luyện sử đan thanh vẹn sắt son

Đánh trống khua chiêng khi quốc biến

Kinh bang tế thế lúc bình mông

Người Cha nước Việt thật kiên cường

Vị quốc vị gia nhuộm máu xương

Bao thưở can qua tàn khói lửa

Chiến bào rũ áo tóc pha sương

Người Cha nước Việt thật kiên trinh

Vị nước vị non trọn nghĩa tình

Quan ải biên thùy yên giới tuyến

Hương thơm đồng nội ổn quê mình

Người Cha nước Việt thật tinh kỳ

Phớt gió lông hồng vó ngựa phi

Ngang dọc tung hoành trong bốn biển

Tư nghì tâm lực chẳng hề chi

Người Cha nước Việt của Vua Hùng

Quốc Tổ dựng cờ mở nước chung

Kế thế truyền lưu trang sử ngọc

Muôn đời con cháu chẳng lao lung

Giang sơn gấm vóc nước non nhà

Chữ « S » dư đồ lộng sắc pha

Sông núi hồn thiêng an ngự trị

Ba miền đất nước sử hùng ca

Việt Nam một cõi vững như thần

Sông núi này là của nước Nam

Thuở trước đời sau truyền mãi mãi

Tấm lòng không thẹn với tiền nhân

Ta hát ca vang Cha Việt Nam

Người Cha kỳ vĩ giống da vàng

Sản sinh dân tộc kiên trinh nhất

Tự thuở đất trời đã định ban

Nói thế, cho hay dân tộc này

Trời không thể chuyển, đất không lay

Sao dời vật đổi, ra sao nữa

Vũ trụ càn khôn nể mặt thay

Huống chi nhân loại trên trần gian

Đừng có dễ ngươi lửa thử vàng

Dạ sói lòng lang un tro bụi

Bao thời rồi đó, nhớ thì kham

Trổi khúc nhịp nhàng ca hát vang

Đông Tây Nam Bắc khắp trần gian

Cổ kim xuyên suốt ngàn sau nữa

Con cháu Vua Hùng nước Việt Nam .

Tháng 10 – 2008

Ông Cha của ta

Ông Cha khai quốc dựng gia

Khai sơn phá thạch đắp nhà Việt Nam

Ông Cha miệng nói tay làm

Lòng son dạ sắt tâm đan không sờn

Ông Cha lên núi đỡ non

Xuống sông tát biển xây hòn đảo xa

Ông Cha xuống móng dựng đà

Lên ruôi đỡ nóc lợp nhà quê hương

Ông Cha xẻ núi mở đường

Xây cầu lấp hố thông thương ba miền

Ông Cha gốc cội Rồng Tiên

Kết tinh sông núi hồn thiêng muôn đời

Dù cho vật đổi sao dời

Kinh qua lịch sử giống nòi kiên trinh

Dù cho dâu biển điêu linh

Lạc Hồng muôn thuở tự tình thủy chung

Ông Cha lẫm liệt oai hùng

Chữ hoành hết mức chữ tung tột đường

Ông Cha kiệt xuất phi thường

Giữ yên bờ cõi đuổi phường xâm lăng

Tre già che chở nụ măng

Lúa vàng ươm mộng mạ non xanh đồng

Sông dài biển rộng mênh mông

Muôn người như một chung lòng hòa vang

Kể từ mở nước Văn Lang

Năm ngàn năm đã vững vàng giang sơn

Kể từ một Mẹ trăm con

Gần chín mươi triệu vuông tròn tinh anh

Da vàng máu đỏ thiên thanh

Muôn ngàn năm nữa trong lành Việt Nam .

Bài ca Mẹ Việt Nam

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Đồng bào một bọc một trăm con

Năm mươi theo Mẹ lên rừng núi

Một nửa theo Cha xuống Biển Đông

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Một tay nuôi dưỡng cả đàn con

Một tay chống đỡ lo nhà cửa

Gia thất khang trang thật vẹn toàn

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Một sương hai nắng mỏm non sông

Thân cò lặn lội trên bờ vắng

Nhẹ gánh, chồng đi cứu nước non

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Nữ lưu vùng đất ở phương nam

Đảm đang trinh tiết tròn son sắt

Thùy mỵ nết na vẹn ngọc vàng

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Một đời gian khổ, không than van

Một đời lao nhọc, không hờn dỗi

Trăm đắng ngàn cay cũng chẳng màng

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Tình thương bát ngát hơn biển Đông

Tấm lòng cao cả hơn trời đất

Nam Bắc Đông Tây, khó sánh bằng

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Vuông tròn cháu cháu với con con

Vẹn toàn hai gánh Nội cùng Ngoại

Tâm vẫn không suy, lực dẫu mòn

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Nữ nhi thục đức vốn trời ban

Anh thư tài trí đan thanh sử

Khi cá vàng hoe, khi cá kình

Ta hát ca vang Mẹ Việt Nam

Xứng danh với lá ngọc cành vàng

Thời bình, cơm áo vui nhà cửa

Thời chiến, nếu cần voi trận xung

Ai mà không nhớ Hai Bà Trưng

Bà Triệu giương oai, thét vẫy vùng

Cô Bắc Cô Giang cùng sánh bước

Đời sau thuở trước mãi soi gương

Tấm thân của Mẹ vốn là Tiên

Hễ nữ phải nhi không hậu - tiền

Tuy nữ nhưng nam còn nể mặt

Mẹ hiền muôn thuở vĩnh châu viên

Thế mới hát ca Mẹ Việt Nam

Thanh thanh như quít, ngọt như cam

Như xôi nếp một, đang mùa mới

Như mía đường lau, hạn hán khan

Thế mới hát ca Mẹ Việt Nam

Tay tiên của Mẹ Âu Cơ ban

Vóc tiên của Mẹ soi trời đất

Nhân loại năm châu đâu sánh cùng

Trổi khúc nhịp nhàng ta hát vang

Vỗ tay hòa điệu với cung đàn

Người người nối nhịp cùng nhau hát

Ca hát tưng bừng Mẹ Việt Nam .

Tháng 10 – 2008

Mặc Giang

Hồn non nước

Ta đi từ Nam ra Bắc

Ta đi từ Bắc vô Nam

Đâu đâu cũng cẩm tú giang san

Đâu đâu cũng quê hương gấm vóc

Ghềnh thác đổ trên núi rừng Bản Giốc

Ải Nam Quan, cửa ngõ của biên thùy

Một ngàn năm Phương Bắc, vẫn còn ghi

Nhắc cháu con đời đời không quên lãng

Thăm Cổ Loa, nghe tâm hồn xao xuyến

Nhìn lâu đài nền cũ, bóng tịch dương

Nhớ Văn Lang của Đức Tổ Hùng Vương

Đất Phong Châu mờ mờ loang dấu tích

Về Hà Nội với sắc màu thanh lịch

Thoáng đâu đây ba mươi sáu phố phường

Chân bước đi mà lòng dạ vấn vương

Nhớ Thăng Long kinh qua bao thời đại

Vượt Sông Gianh ta đi vào Bến Hải

Sóng vỗ bờ xây xát mảnh hồn đau

Những tang thương chưa vá hết biển dâu

Những vết tích còn hằn sâu tam thể

Đến Cố Đô, trầm buồn đeo nỗi nhớ

Cầu Trường Tiền nhịp khúc gợn Hương Giang

Để Kinh Kỳ trầm mặc với thời gian

Lý tình tang, hò Nam Ai không dứt

Vào Sài Gòn, đèn muôn màu sáng rực

Nét lung linh mờ ảo nhớ Đô Thành

Đèn sáng trưng vẫn nhấp nháy sao đêm

Hoàng hôn xuống, sương sa sa thấm lạnh

Vào Miền Nam , cò bay như rủ cánh

Chưa giáp vòng vùng châu thổ Cửu Long

Lúa cũng vàng nhưng trời bớt xanh trong

Bởi rộng quá giữa viễn đông hòn ngọc

Mũi Cà Mau, điểm cuối cùng chữ “S”

Sóng vỗ bờ, ôm ấp Đảo Hòn xa

Phú Quốc, Côn Lôn, Hoàng Sa, Trường Sa

Vô số Đảo, dọc biển Đông nước Việt

Anh có biết

Chị có biết

Và em có biết

Dân Việt Nam, dòng dõi của Tiên Rồng

Đất Việt Nam, đất nước của Vua Hùng

Ta bước đi, nghe tiếng gọi kêu chung

Hồn non nước muôn ngàn năm sống mãi

Đẹp lung linh tận biên thùy quan ải

Ngát thanh thiên cả đồng nội châu thành

Ngào ngạt bay khắp biển rộng trời xanh

Hồn non nước Việt Nam cao quý quá.

Tháng 10 – 2008

Mặc Giang

Tuyên Ngôn

của Nước Việt Nam

Dõng dạc tuyên ngôn thuở dựng cờ

Cha Long Quân với mẹ Âu Cơ

Đồng bào trăm trứng dòng Hồng Lạc

Của giống Rồng Tiên đẹp ước mơ

Dõng dạc tuyên ngôn thật đích đang

Hùng Vương Quốc Tổ dựng Văn Lang

Phong Châu dấy nghiệp yên bờ cõi

Văn hiến ngàn năm, sống vững vàng

Dõng dạc tuyên ngôn thật rõ ràng

Trời Nam là của đất dân Nam

Báo cho cùng khắp trong thiên hạ

Mộng bá đồ vương, đập nát tan

Dõng dạc tuyên ngôn của Việt Nam

Đội trời, đạp đất, sống hiên ngang

Bang giao, kết nối trong bình đẳng

Cương quyết không tha bọn bá quyền

Tuyên ngôn dõng dạc của Dân Nam

Đã nói quyết tâm, quyết sẽ làm

Tứ mã nan truy, đinh đóng cột

Đừng mong tha thứ bọn tham tàn

Tuyên ngôn dõng dạc thật đường đường

Khí Việt Nam là khí quật cường

Chất Việt Nam là chất quật khởi

Đụng vào, không chết cũng tan xương

Tuyên ngôn dõng dạc thật tinh tường

Nam Bắc Đông Tây khắp bốn phương

Nhân loại năm Châu trên thế giới

Việt Nam chỉ trọng nghĩa giao tương

Nói thế cho hay dân tộc này

Hiền thì, quả thật hiền lành thay

Dữ thì, cũng nhất trong thiên hạ

Đã nói là làm, trị thẳng tay

Hiền, với những ai biết kết giao

Hổ tương, không có thấp hay cao

Công bằng, bình đẳng cùng trân trọng

Như nghĩa Vườn Đào đẹp biết bao

Dữ, với những ai không biết điều

Ngang tàng, hống hách, nghểnh kiêu kiêu

Giương giương, tự đắc, kênh kênh kiệu

Quật sụm bà chè, hồn phách tiêu

Dõng dạc tuyên ngôn nước Việt Nam

Hùng anh lẫm liệt giống da vàng

Hiên ngang bất khuất không hề khiếp

Quật khởi quật cường chống ngoại xâm

Dõng dạc tuyên ngôn nước Việt Nam

Ngàn xưa trang sử lộng huy hoàng

Ngàn sau trang sử tô son sắt

Kiên quyết trung trinh thập vẹn toàn

Dõng dạc tuyên ngôn nước Việt Nam

Cơ đồ lịch sử của dân Nam

Giang sơn vấm vóc non sông Việt

Sắt lộng pha lê, son thiếp vàng

Dõng dạc tuyên ngôn nước Việt Nam

Đất ta ta sống, không ai xâm

Trời ta ta sống, không ai phạm

Vũ trụ càn khôn đã định ban.

Tâm hồn Việt Nam

Anh hùng phỉ chí tang bồng

Dọc ngang bốn biển lông hồng nhẹ bay

Trời không chuyển, đất không lay

Lòng không đổi, dạ không thay, một đời

Đến khi gác kiếm, buông lơi

Tìm về chốn cũ ngỏ lời tiếc thương

Trượng phu, quân tử đường đường

Kinh bang tế thế tầm phương cứu đời

Nặng nghĩa lớn, nhìn xa xôi

Tình nhà gói ghém nhỏ nhoi treo cành

Đến khi cuối nẻo tung hoành

Tìm về chốn cũ, mái tranh quê nghèo

Người thường đâu dám leo trèo

Thanh bần an phận eo sèo thứ dân

Người ta quyền biến lượng phân

Dân quèn giản dị, không cần bon chen

Xa nhà, nỗi nhớ lên men

Từ khi giã biệt, chưa quên chút nào

Xa nhà, nỗi nhớ nao nao

Con thuyền bến cũ cắm sào ngóng trông

Mai về, tìm lại dòng sông

Lên thuyền chèo chống qua sông tới làng 

Xa quê, tre cũng ít vàng

Xa nhà, trúc cũng ngỡ ngàng ít xanh

Ruộng đồng trơ trọi nắng hanh

Bờ ao cá bỏ ngậm vành trăng soi

Dân quê chỉ nói thế thôi

Không hoa không mỹ đãi bôi ngượng ngùng

Dân quê không chút thiệt hơn

Vậy mà trọn vẹn tâm hồn Việt Nam .

Tháng 10 – 2008

Anh hùng rơi lệ !

Xa nhà, ai chẳng nhớ thương

Nhớ nhà, ai chẳng đoạn trường canh thâu

Có nghe sỏi đá kêu đau

Có nghe bãi biển bờ lau xạc xào

Đêm còn le lói vì sao

Trăng còn vòi vọi trên cao băng ngàn

Sông đi hai ngả giăng ngang

Cuối dòng còn đợi trên đàng ra khơi

Người đi, cá lặn biệt hơi

Trùng trùng sóng vỗ biết trồi nơi đâu

Bơi lên, ngược nước phủ đầu

Dễ gì gặp lại nhịp cầu xa xưa

Người đi, như thể gió lùa

Thời gian con đẩy bốn mùa lại qua

Ngày về, cứ thế đi xa

Nhớ thương, cứ thế câu ca tang tình

Tình tang tích tịch tang tình

Cung đàn réo rắt quê mình chìm sâu

Tình tang tích tịch con tàu

Nhà ga đứng lại con tàu chạy đi

Xịch xình phụt khói đen sì

Đường tàu nhỏ lại kinh kỳ xa mơ

Tàu đi, còn có chuyến về

Người đi, gởi gió lê thê mây ngàn

Xa nhà, khép mở đoạn đàng

Nhớ nhà, mất hút đoạn đàng tìm quên

Phương trời một nỗi thênh thênh

Mênh mang nỗi nhớ, tìm quên não lòng

Nhiều khi đem nhớ ra hong

Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng

Cho rằng suy nghĩ mông lung

Xưa nay biết mấy anh hùng lệ rơi !

Tháng 10 – 2008

Nặng tình nước non

(Đọc trang Sử Việt)

Nhìn qua hình ảnh quê mình

Đọc trang Sử Việt nặng tình nước non

Nơi đâu cũng có dấu son

Nơi đâu cũng có gợn hồn núi sông

Nhìn qua hình ảnh quê hương

Đọc trang Sử Việt vấn vương tự tình

Nơi đâu cũng có anh linh

Nơi đâu cũng có bóng hình Tổ Tiên

Nhìn qua hình ảnh Ba Miền

Đọc trang Sử Việt hồn thiêng hiện về

Hiện về khắp nẻo sơn khê

Băng qua sông biển vỗ về đảo xa

Nam Quan, Việt Bắc la đà

Cà Mau, Rạch Giá mặn mà thùy dương

Thượng Du đón nắng gối sương

Trung Du ươm mộng trên đường về Xuôi

Xuôi về Hà Nội không nguôi

Thăng Long ẩn bóng u hoài Cổ Loa

Văn Lang muôn thuở không nhòa

Hùng Vương cao vợi trên tòa Quốc Ân

Bạch Đằng mưa vũ mây vần

Bức tranh tuyệt thế phong thần Hạ Long

Vào thăm Xứ Nghệ khơi dòng

Sông Gianh gờn gợn Đàng Trong – Đàng Ngoài

Vào thêm chút nữa ai ơi

Bên dòng Bến Hải ru hời tình tang

Cố Đô khép kín mơ màng

Phải chăng sợ Phá Tam Giang thuở nào

Dừng chân Bình Định nao nao

Hồn Chiêm phưởng phất rì rào gió bay

Nha Trang mây nước sóng lay

Thùy dương cát trắng tỏ bày cùng ai

Bước vào Gia Định - Đồng Nai

Ba trăm năm cũ hoa cài Thành Đô

Vũng Tàu, bãi Trước mời vô

Bãi Sau xin hẹn Cần Giờ xuôi Nam

Vào thăm sông nước mênh mang

Đồng bằng Sông Cửu bạt ngàn phì nhiêu

Cần Thơ như lụa bọc điều

Bước đi như vướng cầu kiều Hậu Giang

Cà Mau, Rạch Giá đôi đàng

Đàng kia Côn Đảo, đây đàng Hà Tiên

Bọc lên ranh giới Cao Miên

Đi thêm chút nữa nối liền Ai Lao

Trường Sơn nghe gió Thượng Lào

Nghe sóng lồng lộng xạc xào biển Đông

Nhìn qua thế núi thành đồng

Kết trang Sử Việt non sông nước này

Hèn chi khói tỏa ngàn bay

Hồn thiêng Dân Tộc thêm dày keo sơn

Dù cho nước chảy đá mòn

Ươm trang Sử Việt sắt son muôn đời.

Tháng 10 – 2008

Anh về thăm lại tình quê

Anh về thăm lại tình quê

Nghe hồn sông núi vỗ về cảm giao

Mỗi bước đi, một tự hào

Mỗi bước chân, một rạt rào nhớ thương

Làm trai trả nợ núi sông

Hai vai gánh vác tang bồng xưa nay

Lông hồng phất gió tung bay

Chiến bào bạc trắng dấu giày bốn phương

Giang san chồng chất cốt xương

Máu đào thắm đượm quê hương xanh màu

Mấy ai chinh chiến bạc đầu

Ly bôi chưa cạn đã chầu anh linh

Thẻ bài xóa mất tên anh

Thêm một chiến sĩ vô danh hương thờ

Kể từ mở nước dựng cờ

Bàn thờ Tổ Quốc mịt mờ khói bay

Bao tấc đất, núi sông này

Lũy thừa nhân cộng sâu dày thân trai

Bao ngõ ngách, chốn tuyền đài

Không nơi nào thiếu hình hài chinh nhân

Nơi đâu, anh cũng dấn thân

Ở đâu, anh cũng dự phần máu xương

Bước đi từng bước trên dường

Lắng lòng, mới thấu đêm trường sương pha

Tại sao tiếng quốc kêu gia

Tại sao tiếng hạc lan xa vọng dài

Hương quê đậm nét phương đài

Hồn quê đậm nét dấu hài trường chinh

Viếng thăm thương lấy quê mình

Chắp tay khấn nguyện đượm tình núi sông.

Tháng 10 – 2008

Em về thăm lại quê xưa

Em về thăm lại quê xưa

Em nhớ mang máng chứ chưa biết nhiều

Sinh ra không bọc vải điều

Mà bọc khố rách chắt chiu thân nghèo

Nhớ rằng lòng mẹ hắt heo

Tấm thân cô phụ eo sèo nuôi con

Ngày ngày mua gánh bán bưng

Đêm đêm thức giấc xoay lưng mẹ ngồi

Có khi mẹ khóc xa xôi

Con không hiểu thuở đầu đời mẹ ơi

Ngày xưa hỏi mẹ đôi lời

Cha đâu không thấy đơn côi cửa nhà

Mẹ rằng cha đi thật xa

Cha dâng cho nước, cửa nhà cho “Me”

Ve sầu chín khúc ruột se

Đến nay còn nhớ câu vè dân ca

“Thân trai là của quốc gia

Thân gái là của cửa nhà nuôi con

Thân cha gieo đỉnh Thái Sơn

Thân mẹ khung cửa mỏi mòn vọng phu

Vọng phu gởi gió ngàn thu

Mền đơn chiếc bóng mịt mù khóc sương

Nỗi lòng nát cõi tơ vương

Một thân chống đỡ trăm đường xót xa »

Lớn lên con mới hiểu ra

Hèn chi cha đã đi xa không về

Thỉnh thoảng nhìn mẹ ủ ê

Dưa muối mẹ gắp, cá mè cho con

Có khi mẹ quẹt lối mòn

Từ trong mắt mẹ giọt tròn lăn lăn

Có khi tay áo làm khăn

Mẹ lau thật vội sợ con mẹ buồn

Hèn chi lòng mẹ héo hon

Ít cười ít nói không son không màu

Mẹ em già sớm ốm đau

Theo cha đi xuống chuyến tàu tử sinh

Còn em, mấy chị em mình

Lớn lên mỗi đứa lưu linh lạc loài

Nay về như thể tìm tòi

Chôn nhau cắt rốn cõm còi tuổi thơ

Vậy mà Quê Mẹ đó nghe

Quê Cha đó nhé, tiếng ve trưa hè

La đà chi nữa lá me

Lơ thơ nhánh trúc lũy tre đầu làng

Lòng em vẫn nhớ mênh mang

Nhà quê không có, nén nhang vẫn còn

Mắt em cũng có lối mòn

Như mẹ ngày trước giọt tròn chảy quanh

Ngồi bên bãi cỏ xanh xanh

Bóng Cha nhìn Mẹ ngậm vành trăng soi

Kia là nấm mộ Cha ơi

Đây là nấm mộ Mẹ ơi hương mờ

Chìm sâu vào cõi trơ vơ

Thương Cha khóc Mẹ thả bè con côi

Ghé thăm Quê Nội lưng đồi

Nào Cô nào Bác đã ngoài mấy mươi

Ghé thăm Quê Ngoại đôi người

Cậu, Dì cũng đã nụ cười già nua

Chào nghe, tiếng gọi quê xưa

Chào nghe, tình tự gió lùa hây hây.

Tháng 10 – 2008

Cha về thăm lại quê nhà

Cha về thăm lại quê nhà

Trên đôi nạng gỗ yếu già nửa thân

Nửa này gió bụi phong trần

Nửa kia phân mục góp phần quê hương

Bao năm túy ngọa sa trường

Cùng anh em, nhuộm máu xương biên thùy

Mịt mù khói súng tinh kỳ

Đạn bom siêu đẳng còn gì thịt da

Chiến trường sôi động xông pha

Trận địa khủng khiếp nhào ra tuyến đầu

Núi rừng lá thấp chìm sâu

Đèo cao hú gió nhuộm màu dọc ngang

Nửa thân còn lại đang mang

Biết bao đồng đội nát tan mấy lần

Nửa thân còn lại cơ bần

Biết bao đồng đội tấm thân sao tìm

Suối vàng anh đã ngủ yên

Hương hồn vất vưởng giữa triền núi xanh

Ghi thêm chiến sĩ vô danh

Hương đài tưởng niệm tựu thành sử ca

Nay cha về lại thăm nhà

Mấy lần đã bỏ quê nhà ra đi

Khi đi có mẹ tiễn đi

Khi về mẹ đã biệt ly lâu rồi

Khi đi vợ tiễn nghẹn lời

Khi về vợ ngủ biệt khơi đáy mồ

Người thời thiếu phụ khăn khô

Cha thời binh phế thắp nhòa nén hương

Quê nhà không phải hậu phương

Cha con dắt díu tìm đường phó thân

Nay về thêm nữa một lần

Mái đầu bạc trắng phù vân cuối đời

Con nay gần nửa kiếp người

Thì cha đã quá bảy mươi cõi còm

Chống đôi nạng gỗ lom khom

Một trời quê cũ mắt mòn kéo mây

Trên đền tổ quốc khói bay

Dưới đền cha chống đôi tay lựa lần

Để mà tưởng nhớ tiền nhân

Kinh bao thời đại góp phần quê hương

Để mà tưởng nhớ tiếc thương

Oanh oanh liệt liệt đường đường hồn thiêng

Giang sơn trên khắp ba miền

Đời sau thuở trước nối liền lung linh

Nén hương thấm lệ lưu tình

Nén hương cũng để thương hình bóng cha.

Tháng 10 – 2008

Mẹ về thăm lại quê nghèo

Mẹ về thăm lại quê nghèo

Tấm thân của mẹ đẳng đeo nhiễu điều

Nhìn ra cửa trước tịch liêu

Cửa sau nhìn lại chín chiều ruột đau

Một sương, hai nắng thịt thau

Ba nhà, bốn cửa mắt sâu hoen mờ

Năm canh, sáu khắc đêm mơ

Bảy cay, tám đắng tóc tơ trắng màu

Chín, ra Ái Tử mưa ngâu

Mười, vô Cô Phụ bến tàu biệt ly

Chồng thì rữa mục âm ty

Con thì biên ải một đi không về

Nhà tranh bếp lửa ủ ê

Nhiều khi tro lạnh không nề cháo cơm

Ru con nhỏ dại ngủ yên

Mẹ ngồi thơ thẩn trắng đêm canh dài

Sao hôm rồi đến sao mai

Sao khuya sao sớm sao phai sao mờ

Một tay vá víu đơn cô

Một tay vá víu con thơ tháng ngày

Có khi giọt ngắn giọt dài

Hai bờ khô héo nhẵn chai lối mòn

Tấm lòng mấy lớp héo hon

Tâm can mấy lớp mảnh hồn thương đau

Bên Ngoại mặt nước rầu rầu

Bên Nội heo hút mưa ngâu đông hàn

Mẹ nhìn nấm mộ rêu phong

Đưa tay sửa lại bát nhang lên màu

Mẹ nhìn di ảnh thật lâu

Rưng rưng khóe mắt giọt châu hai hàng

Mẹ nhìn nền móng bỏ hoang

Nhà xưa biến mất gió ngàn bay xa

Biết bao người mẹ quê ta

Xin kêu tiếng mẹ của nhà Việt Nam .

Trả ta sông núi

Xin mượn tựa đề và cảm tác khi đọc

bài Trả Ta Sông Núi của Thi bá Vũ Hoàng Chương

Trả ta sông núi của Rồng Tiên

Tổ quốc trời nam thật vĩnh nhiên

Tọa thị phương nam son sắt ấy

Uy nghi lẫm liệt khí hùng thiêng

Trả ta sông núi của ông cha

Sông máu núi xương dựng nước nhà

Da chất thịt chồng xây lịch sử

Tranh thêu gấm vóc lộng sơn hà

Trả ta sông núi của muôn đời

Liệt nữ anh hùng gương sáng soi

Bảo vệ truyền lưu trao thế hệ

Ngàn năm tâm lực mãi tô bồi

Trả ta sông núi tự ngàn xưa

Dân tộc Việt Nam dũng khí thừa

Đồng bọc đồng bào đồng sắc thái

Muôn người như một biết hay chưa

Trả ta sông núi để ngàn sau

Con cháu Rồng Tiên nhuận sắc màu

Không thẹn tiền nhân khai mở nước

Việt Nam ngời sáng rạng minh châu

Trả ta sông núi mãi khơi dòng

Sừng sững Trường Sơn đỡ núi sông

Triều sóng Biển Đông chống vọng ngoại

Vó câu cửa sổ tựa lông hồng

Trả ta sông núi hát Sông Hồng

Ca ngợi Thái Bình đón gió đông

Hát Cửu Long giang hòa chín khúc

Đồng Nai Bến Nghé mãi chờ mong

Trả ta sông núi vẹn ba miền

Sông biển đảo xa nối đất liền

Rừng thẳm cao nguyên đèo gió hú

Đồng bằng nương rẫy thú điền viên

Trả ta sông núi khắp ba miền

Lấp biển dời non thẳng tiến lên

Xẻ dốc be đường cầu nối nhịp

Bắc Trung Nam một dãi thần tiên

Trả ta sông núi vẹn câu thề

Tim sắt gan chì thanh sử kê

Thân tử khí hùng luôn bất tử

Hồn thiêng lộng gió thét sơn khê

Trả ta sông núi giống da vàng

Dân tộc kiêu hùng nước Việt Nam 

Nam bắc đông tây đừng động thái

Đụng vô rồi kéo chạy tan hoang

Trả ta sông núi vẹn cơ đồ

Một tấc chẳng suy thuở dựng cờ

Một khoảnh không mòn trang sử Việt

Tử thành một khắc vạn xương khô

Trả ta sông núi của hùng anh

Năm ngàn năm sử kết đan thanh

Sông dài biển rộng reo gió hát

Trời cao đất rộng ngát hương lành

Trả ta sông núi nước non này

Tự cổ tới kim không đổi thay

Đến mãi ngàn sau không biến chuyển

Thành đồng vách núi mãi không lay

Trả ta sông núi nước non nhà

Tích tịch tình tang trổi khúc ca

Con cháu Lạc Hồng reo tiếng hát

Ngân dài quốc quốc với gia gia.

Mặc Giang

Tháng 10 – 2008

Dõng dạc tuyên ngôn

Ta đâu có bỏ quê hương ta

Bởi thế thời nghiêng ngửa lại qua

Bởi ngã nhân bào ảnh lộng gió

Nên phong ba bão táp quê nhà

Ta đâu đánh đổi quê hương ta

Nhũng nhặng đẩy đưa nghiệt ngã mà

Xanh đỏ trắng đen đeo thế kỷ

Nên trầm kha đất mẹ quê cha

Ta luôn ngước mặt ngẩng cao đầu

Chống đỡ cái khiên đạp thuẫn mâu

Đẽo đá tô bồi son sắt thắm

Lửa vàng gang thép luyện minh châu

Hãy nhớ, ngàn năm đuổi Bắc xâm

Trăm năm ròng rã chống Tây xâm

Rong rêu bèo bọt phường vong bản

Nào nghĩa gì đâu bóng ngoại nhân

Dõng dạc tuyên ngôn non nước ta

Nguồn xưa trả lại đất quê cha

Cội xưa trả lại tình quê mẹ

Tiên Tổ muôn đời trổi khúc ca

Tích tịch tình tang vạn lý hề

Quê hương gấm vóc lộng sơn khê

Giang san cẩm tú reo sông biển

Văn hiến ngàn năm vẹn ước thề

Tích tịch tình tang vạn nhịp cầu

Viễn đông hòn ngọc rạng minh châu

Đông Tây Nam Bắc soi kim cổ

Dòng giống Lạc Hồng không dễ đâu

Quê hương đâu mất, bỏ quê hương

Sông núi đâu mòn, bởi gió sương

Trải nắng bền gan trêu tuế nguyệt

Dầm mưa vững chí cợt phong trần

Quê hương còn đó vẹn câu thề

Kế thế truyền nhau mãi nhớ nghe

Dạ sắt tô bồi thêu gấm ngọc

Lòng son nhuận thắm lộng pha lê

Quê hương ta đó đẹp nhà nhà

Khói quyện cờ bay nhờ đức Cha

Bát ngát hương thơm nhờ đức Mẹ

Dấu son ấn ngọc tỏa châu pha

Quê hương ta đó nhớ nghe em

Chị vén mành thưa tựa bức rèm

Anh đứng giữa trời cao đất rộng

Cùng tôi dõng dạc phát tuyên ngôn

Lịch sử huy hoàng nước Việt Nam

Muôn năm rạng rỡ đất trời nam

Hùng thiêng sông núi hồn dân tộc

Tọa thị phương đài đã định ban.

Mặc Giang

Tháng 10 – 2008

Ta bước đi

Ta bước đi trên lâu đài thành cổ

Nhìn rêu mờ nhớ lại tháng ngày qua

Quá khứ lùi vào dĩ vãng thật xa

Lật từng trang lung linh hồn lệ sử

Ta bước đi khắp phố phường Hà Nội

Nhìn Thăng Long phảng phất Cổ Loa xưa

Bóng tiền nhân nhòa nhạt nắng chan mưa

Hoàng hôn phủ ngập ngừng màn đêm xuống

Ta bước đi giữa Cố Đô sầu muộn

Trường Tiền rung mười hai nhịp sáu vài

Núi Ngự Bình ngóng đợi dáng Thiên Thai

Dòng Hương Giang ngưng câu hò điệu lý

Ta bước đi nước Sông Gianh tê tỉ

Mấy trăm năm thổn thức mảnh hồn đau

Máu hai miền thấm lòng đất thật sâu

Xương chồng chất thành đồi cao lộng gió

Ta bước đi dòng Bến Hải còn đó

Cầu Hiền Lương gợn sóng vỗ hai bờ

Trải thời gian chưa vá đắp tiêu sơ

Hồn tử sĩ ngập suối vàng nhức nhối

Ta bước đi vào Qui Nhơn Thị Nại

Nghe hồn Chiêm nghèn nghẹn điệu ru Hời

Hỡi tộc Chàm một thuở của Chiêm ơi

Sống đâu đó đừng quên nhau Chiêm nhé

Ta bước đi cửa Đồng Nai, Bến Nghé

Sóng Đô Thành nhộn nhịp giữa phồn hoa

Nhớ Sài Gòn ru giấc mộng đêm qua

Giọt khô đọng loang loang trên chiếc gối

Ta bước đi Cầu Mỹ Thuận mời gọi

Nhớ ngày qua ngồi đợi từng chuyến phà

Ghi tự tình đậm nét Miền Nam ca

Hát Cửu Long bạt ngàn ra chín cửa

Ta bước đi vào Hà Tiên Rạch Giá

Mũi Cà Mau là điểm đến sau cùng

Phú Quốc kia chìm mây nước điệp trùng

Côn Đảo kia khuất mờ xa sóng biển

Tạm ngừng nghe, xin giã từ một chuyến

Tai còn nghe văng vẳng thoáng giây lâu

« Từ Nam Quan, Ca Mau

Từ non cao, rừng sâu »

Nhớ nhau nghe, ta đứng lại bên cầu

Sông bến nước rạt rào mênh mang chảy.  

Mặc Giang

Tháng 10 - 2008

Nguồn: daophatngaynay

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin