Chi tiết tin tức

Ta sống để làm gi ?

22:29:00 - 08/07/2014
(PGNĐ) -  Như ai cũng biết, chúng ta sinh ra đời để sống và làm việc như bao nhiêu người trên thế gian này, là sao? Là ăn uống, ngủ nghỉ, rồi lớn lên lấy vợ, lấy chồng đi làm kiếm tiền nuôi bản thân, gia đình và đóng góp lợi ích xã hội, đến khi lớn tuổi về hưu, già bệnh rồi chết! Đó là nói những người làm việc nhà nước có chính sách chế độ lương hưu.  

Còn những người tự làm, tự sống không làm việc nhà nước thì họ phải bươn chải, đến khi không còn khả năng làm việc nữa mới thôi. Ai có phước thì được con cái chăm sóc, giúp đỡ, nuôi dưỡng khoảng đời còn lại. Chúng ta ai cũng nghĩ rằng ăn uống, ngủ nghỉ cho sướng cái thân, đi làm kiếm tiền cũng để nuôi sống bản thân và tìm kiếm sự sung sướng hạnh phúc, không ai dại gì đi tìm bất hạnh khổ đau.

 Trên đời này ai cũng mưu cầu hạnh phúc, từ kẻ cùng đinh hạ tiện cho tới vua chúa quan quyền, tổng thống, thủ tướng, giám đốc đến người làm công, ngay cả những người xuất gia đi tu cũng vì muốn tìm một sự an lạc, hạnh phúc chân thật. Cái bản năng đi tìm kiếm hạnh phúc này hình như đã ăn sâu vào trong tâm khảm của mỗi người.

 Nhưng ít ai nghĩ rằng mọi người từ đâu đến, sinh ra đời để làm gì và sau khi chết sẽ đi về đâu? Một người bình thường sẽ trả lời: "Ta từ bụng mẹ chui ra, sinh ra đời để sống như bao nhiêu người khác và chết thì trở về với cát bụi. Thế là hết một kiếp người!" Chúng ta mới nghe thấy dường như xuôi tai, nhưng thực tế không phải đơn giản như vậy, chết không phải là hết, mà chết chỉ thay hình đổi dạng tuỳ theo nghiệp nhân đã gieo tạo trong hiện tại mà cho ra kết quả trong tương lai. Chính vì vậy, ta phải sống làm sao ngay nơi cõi đời này, để có được bình yên, hạnh phúc chân thật?

 Có người đang học giữa chừng phải nghĩ học và bắt đầu đi làm việc để tìm kế sinh nhai, có người được học tới nơi tới chốn sau đó mới kiếm việc làm. Khi có công ăn việc làm ổn định rồi, chúng ta mới nghĩ đến chuyện cưới vợ, lấy chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhưng sống với vợ hoặc chồng một thời gian cảm thấy hạnh phúc, rồi đến lúc có con bắt đầu từ đó…. Có con rồi thì mọi việc lại khác đi, gánh nặng gia đình bắt đầu nhiều hơn! Chuyện cơm áo gạo tiền, chuyện công ăn việc làm, chuyện ổn định đời sống gia đình cùng với nhiều nổi lo toan khác. Cuối cùng hạnh phúc có được chẳng bao nhiêu mà thấy toàn chuyện buồn phiền, thất vọng, não nề bởi nhu cầu sống ngày càng cao, khả năng làm ra tiền có giới hạn.

 Cuộc đời có nhiều cái thật là oái ăm! Chúng ta vì thấy biết sai lầm do si mê chấp ngã cho thân này là mình thiệt nên muốn chiếm hữu, rồi từ đó ta mới hành động tạo nghiệp xấu ác và cuối cùng phải chịu quả khổ đau không có ngày thôi dứt. Muốn hết khổ thì chúng ta phải học hỏi và tu sửa. Tu là sửa và cũng có nghĩa là chuyển hoá hoặc thay đổi những thói quen xấu thành tốt. Muốn vậy chúng ta phải có trí tuệ, muốn có trí tuệ thì chúng ta phải có thời gian để nghiệm xét, quán chiếu soi sáng thân tâm hoàn cảnh thấy tất cả đều vô thường, nhờ vậy ta mới dần hồi chuyển hoá tâm si mê chấp ngã.

 Nhưng có nhiều người lại lầm tưởng rằng tu là tránh né chạy trốn cuộc đời, nên họ mới tìm một chỗ yên thân để tu tập chuyển hoá. Muốn tu hành trước tiên chúng ta cần phải có thầy lành bạn tốt hướng dẫn, để tu tâm sửa tánh chứ không phải để bỏ trốn lên rừng sâu núi thẩm. Sau một thời gian tu học, chúng ta cần phải đối diện tiếp xúc với cuộc đời để phát triển khai mở tâm từ bi rộng lớn nhằm giúp đỡ, sẻ chia với mọi người khi có nhân duyên. Hoa sen không thể mọc và nở nơi thiên đường mà mọc ở nơi bùn lầy.

 Chúng ta muốn hết phiền muộn khổ đau thì phải tu, phải sửa, cái gì hư hỏng thì sửa lại cho tốt đẹp, cái gì có hình tướng thì ta sửa lại được, còn sửa tâm thì ta phải từ bỏ những tâm niệm xấu ác có tính cách làm tổn hại người, vật. Cho nên tu sửa như vậy còn được gọi là chuyển hóa, chuyển phiền não tham sân si thành vô thượng trí tuệ  từ bi, chuyển bất hạnh khổ đau thành an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. 

 Mục đích của tu là sửa những thói quen xấu có hại cho mình và người, cho nên ta cần phải dùng pháp của Phật để chuyển hoá phiền não tham sân si bằng cách tụng kinh, sám hối, ngồi thiền niệm Phật Bồ tát, bố thí cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia rồi nghiệm xét, quán chiếu thân tâm hoàn cảnh để thấy rõ đều vô thường.

 Đọc tụng là bước đầu để hiểu lời Phật dạy, kế tiếp là chúng ta phải thực hành nhằm sửa đổi những cố tật phiền não tham lam, giận hờn, ích kỷ, ganh ghét, tật đố. Càng niệm Phật, Bồ tát, tâm ta càng thanh tịnh vắng lặng không bị phiền não tham sân si làm xao xuyến vọng động, thì ta hãy siêng năng tinh tấn nhiều hơn. Càng tụng kinh ta càng hiểu đạo, bớt chấp trước dính mắc, đắm nhiễm thì ta nên tụng kinh nhiều hơn nữa. Càng ngồi thiền chúng ta cảm thấy an lạc hạnh phúc, vì biết buông xả các tạp niệm xấu ác thì ta càng phải ngồi thiền nhiều hơn nữa.

 Nhưng đọc kinh, niệm Phật, Bồ tát, niệm hơi thở, ngồi thiền chỉ là phương tiện buổi đầu, sau đó chúng ta dùng thiền quán để xem xét muôn loài vật mà biết rõ bản chất thật giả của thân tâm và hoàn cảnh, nhờ vậy ta dễ dàng buông xả mọi chấp trước ở đời. Sau khi đã thuần thục phép chỉ và quán, chúng ta quay lại chính mình để sống với Phật tính sáng suốt thường biết rõ ràng, nương nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát.

 Con người là một chúng sinh có tình thức và sự hiểu biết, tức là có tình cảm. Vì có tình cảm nên mới có buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua. Trong nhà Phật thường nói đến ba nghiệp "Thân, miệng, ý", gọi là ba cánh cửa tạo ra vận mệnh tốt xấu của chúng ta. Có ý nghĩ rồi phát sinh lời nói và dẫn đến hành động thiện cảm hay ghét bỏ. Chúng ta sẽ tu sửa ngay nơi ý nghĩ, lời nói và hành động của mình, đây là cái gốc của sự tu hành chân chánh. Kính mong mọi người ai cũng ý thức được điều này để làm hành trang trên bước đường tu học của chính mình cho đến khi nào thành Phật viên mãn.

ĂN ĐỂ  SỐNG CHỨ KHÔNG PHẢI SỐNG ĐỂ MÀ ĂN

Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uống mà nhẫn tâm giết hại các loài vật. Có những việc cần thiết mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dài. Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn đề chính yếu.

Tối ngày chúng ta làm lụng vất vả chỉ để ăn với uống sao cho ngon miệng, nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị. Khi có quyền cao chức trọng thì ăn trên ngồi trước bắt người khác phải cung phụng cho mình đầy đủ những nhu cầu cần thiết.

Vấn đề thở là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, nhưng ít ai nghĩ đến mình nhịn thở bao lâu mới chết. Trong tích tắc thở ra mà không thở vào là chết ngay. Vậy mà người đời lại quan trọng việc ăn với uống, còn thở ra sao không cần biết. Rõ ràng, việc tối quan trọng chúng ta lại lơ là, việc không chính đáng thì ta nỗ lực, làm việc nhọc nhằn, vất vả để thỏa mãn cho nhu cầu bản thân. Như vậy hằng ngày ta chỉ lo việc bồi bổ thân này mà đành giết hại vô số các loài vật, ta ăn trên sự đau khổ của chúng.

Cuộc sống của chúng ta trong thời đại hiện nay có quá nhiều thứ bệnh thuộc bộ máy tiêu hóa và hô hấp phát sinh từ sự ăn uống, hít thở không đúng đắn. Một số người ít hoạt động tay chân nên phát sinh rất nhiều bệnh tật. Chính vì thế, muốn thân khỏe mạnh, tâm an ổn nhẹ nhàng, chúng ta cần phải biết điều hòa trong ăn uống, hít thở đúng cách và vận động thân thể nhiều bằng cách lạy Phật, Bồ tát, vừa sám hối nghiệp tập nhiều đời, vừa rèn luyện sức khoẻ dẽo dai.

Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh, nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách theo thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng.

Đại đa số chúng ta không ý thức được tầm quan trọng của nước đối với cơ thể con người nên thường uống ít nước hoặc có uống thì dùng các loại nước ngọt được chế biến hay rượu bia quá nhiều. Cách tốt nhất là uống nước mỗi ngày từ 2 lít đến 2,5 lít bằng nước đun sôi để nguội. Thân thể thiếu nước nên sinh ra nhiều bệnh tật như táo bón, nhức đầu, trĩ, sạn thận, thận suy, áp huyết cao, viêm gan siêu vi B và bụng hay sình chướng, khó tiêu…

Từ đó chúng ta dễ trở nên giận dỗi, cáu gắt, hay nóng nảy, khó chịu, khiến cho không khí gia đình trở nên căng thẳng, mất tươi vui, hạnh phúc. Lượng nước trong cơ thể chiếm 70% dưới mọi hình thái của nó do đó các tế bào và mọi bộ phận trong thân thể cần có lượng nước nhất định. Ngoài việc tắm rửa hằng ngày để da dẻ sạch sẽ, mịn màng, chúng ta cần uống lượng nước cần thiết để điều hoà thân thể khoẻ mạnh.

Muốn tránh các thứ bệnh nói trên chúng ta cần phải uống nhiều nước, chừng hai ba ly ngay sau khi ngủ dậy mỗi sáng và trước khi đi ngủ buổi tối để giúp bộ máy tiêu hóa và tuần hoàn hoạt động tốt, dễ dàng lọc máu và thải mọi cặn bã ra ngoài.

Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt, nhiều cá, nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc. Một số lớn các bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn. Giảm bớt chất béo trong máu sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư gan.

Để quân bình trong cuộc sống ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể. Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra, chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được nấu nướng hay ăn với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương, và ngược lại.

Thế giới chúng ta ngày hôm nay có quá nhiều bệnh tật vì ô nhiễm môi trường, ô nhễm thức ăn thực phẩm và do con người ăn uống vô độ. Có ai bệnh mà lại không buồn phiền? Điều đầu tiên chúng ta lo lắng là phải hao tiền tốn của lo thuốc thang, tìm cách chữa trị.

Bệnh có hai dạng là thân bệnh và tâm bệnh, nhưng phần nhiều thân bệnh là do tâm điều hành, sai sử. Thân chúng ta tại sao lại bệnh? Vì tâm tham ăn uống nên ta đưa nhiều các thức ăn uống nhiễm độc vào cơ thể. Do tâm tham muốn quá nhiều nên trở thành tâm bệnh, vì tham nên chúng ta muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng trong khoái khẩu lại là nguyên nhân gây ra bệnh.

Ta không biết trân quý sức khỏe sẽ làm tổn thương thân này. Có người suốt cả cuộc đời lúc nào cũng bệnh, khi bị như vậy ta phải biết mình đã gieo tạo nghiệp sát sinh hại vật quá nhiều.

Chúng ta hãy nên thường xuyên thực tập sám hối để dừng nghiệp cũ, không cho chúng tái phạm nữa; mặt khác lại hay giúp người cứu vật, nhờ vậy chúng ta sẽ được mau lành bệnh. Khi bệnh ta hãy tìm phương cách chữa trị như đi khám bác sĩ, đi bệnh viện theo dõi, đồng thời phải biết sám hối, biết làm thiện để chuyển hoá nghiệp xấu ác thì sẽ từ từ hết bệnh.   

Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông không đều đặn, do ít hoạt động chân tay nên không chuyển tới các cơ phận mọi chất liệu cần thiết, nhất là hồng huyết cầu và dưỡng khí. Do đó, một trong những cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy Phật, Bồ tát mỗi ngày. 

Một hôm, Phật hỏi các vị Tỳ kheo: “mạng người sống trong bao lâu”? Một thầy trả lời: “mạng người sống chừng 80 năm”. Phật hỏi vị khác, thầy đó trả lời:” mạng người sống trong bữa ăn”. Hai vị thầy trả lời Phật đều không chấp chận. Ngài hỏi tiếp vị thứ ba và vị này trả lời “Mạng người sống trong hơi thở”. Phật nói, “đúng thế, đời người chỉ dài bằng một hơi thở”, bởi thở vào mà không thở ra thì xem như mất mạng.

Chúng ta có thể không ăn hai ba chục ngày mà không chết, chính chúng tôi đã từng nhịn ăn mỗi lần ba bốn tuần, chúng tôi mỗi ngày chỉ uống nửa lít nước đun sôi để nguội, nhờ vậy mà vượt qua được bệnh tật hiểm nghèo.

Ngày xưa đức Phật dạy các tỳ kheo quán hơi thở, thở vô mình biết thở vô, thở ra mình biết thở ra, đến khi thuần thục không cần theo dõi hơi thở nữa mà chỉ nhìn hơi thở vô ra dài sâu, nhờ vậy tâm an định và trí tuệ thấy biết đúng như thật phát sinh. Do đó, chúng ta ngày càng sống tốt hơn mà hay giúp người, cứu vật.

Khi tâm an định, rỗng rang, bớt đi tạp niệm thì trí nhớ sáng suốt, tuệ giác tâm linh khai mở, nhờ vậy ta nhận biết cuộc sống vô thường, mạng sống vô thường và muôn loài vật cũng lại như thế. Mạng sống chúng ta ngắn như một hơi thở, nhờ thường xuyên quán sát như thế ta sẽ thấy biết đúng như thật nên dễ dàng buông xả phiền não tham-sân-si mà an nhiên tự tại, giải thoát.

Dân gian thường nói "có thực mới vực được đạo", tức có ăn mới tu hành được. Đây không chỉ là một câu nói vui đùa bâng quơ mà là một sự thật. Chính vì vậy, ăn uống đã trở thành nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Điều này được thể hiện qua câu nói “miếng trầu làm đầu câu chuyện”.

Ông cha ta nhận thấy ăn uống là sự tự do của mỗi người nên dân gian có câu "trời đánh còn tránh bữa ăn". Xã hội thường coi việc mời ăn, mời uống, tặng quà cáp cho nhau như một mối quan hệ cần thiết của mỗi người. Do đó, “bánh ít đổi đi, bánh quy đổi lại” hay “có đi, có lại mới toại lòng nhau”. Dĩ nhiên, đó cũng là một nhu cầu thiết thực trong mối tương giao cuộc sống.

Ðể thể hiện địa vị và tầm quan trọng của con người trong xã hội nên có câu “mâm cao cỗ đầy” dùng để miêu tả bữa ăn của giới thượng lưu quyền thế. Việc cưới hỏi, lấy vợ gã chồng phải làm tiệc ăn mừng là lẽ đương nhiên; nhưng đầy tháng, thôi nôi, sinh nhật, thi đỗ, làm ăn phát đạt, thậm chí mua nhà tậu đất, thăng quan tiến chức cũng tổ chức ăn mừng thiết đãi gia đình người thân, bạn bè và bà con lối xóm.

Ăn uống, tiệc tùng như thế lâu ngày đã trở thành văn hóa tín ngưỡng trong dân gian mà "phép vua cũng thua lệ làng". Nói cho cùng, ăn uống là một nhu cầu cần thiết và cũng là phương tiện để bày tỏ tình thân hữu hay mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội, nhưng do lối văn hóa ăn uống của người Việt đã ăn thì phải ăn cho đã, đã uống thì phải uống cho say, ăn với uống phải no say. Cho nên từ đó con người ngày càng sa đọa với thói quen ngu si chấp ngã mà làm tổn hại người, vật.

Người dân các miền thôn quê có ba nhu cầu chính trong việc ăn uống là đám giỗ, đám cưới, đám ma. Ba đám này đã trở thành nhu cầu thiết thực trong cuộc sống. Người thành thị thì ăn uống lu sà bù, đâu đâu cũng thấy quán nhậu làng nướng, đủ thứ món ngon vật lạ được phơi bày buôn bán công khai.

Dân gian có câu “ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo", nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta có thể đánh giá con người qua cách ăn, cách uống, cách nói năng và cách làm việc. Hay nói cách khác, ăn uống phản ánh phạm trù sống, phương thức sống, cách thức sống và phép tắc sống, nhìn vào cách ăn uống ta có thể biết người đó có lòng từ bi hay không.

Khi xưa lúc chưa biết tu bản thân chúng tôi là kẻ đam mê ăn uống, ngày nào cũng phải có rượu bia, bồ đà và gái gú. Trong khi chờ con vịt cắt cổ làm tiết canh, chúng tôi tranh thủ để có mồi nhậu lai rai bằng cách thẻo miếng mỡ bầu diều bóp gỏi làm chua khi con vịt còn sống. Loại ăn nhậu như chúng tôi ngày trước là hạng người sống không có nhân cách đạo đức, thử hỏi làm sao biết thương yêu gia đình, người thân nên mới bịp bợm, gian trá, xảo quyệt và ác độc.

Phật pháp quá hay, quá tuyệt vời, chúng tôi nhờ gặp bậc minh sư chân chánh, thầy lành bạn tốt nên mới có cơ hội làm mới lại chính mình mà vượt qua những thói đam mê thấp hèn, có tính cách hại người và vật.

Là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết chọn lựa những thức ăn và thức uống không làm ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Người ăn chay mà lại thích ăn đồ giả mặn, loại thức ăn này rất có hại và lại mắc hơn những loại rau cải bình thường nhưng không đủ chất dinh dưởng.

Ăn chay trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, chúng ta chấp nhận muốn ít biết đủ như vậy sẽ ít bệnh. Trước khi ăn những món hiền lành và bổ dưỡng ta nên nói thầm trong miệng, "chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng ngăn ngừa tật bệnh và nuôi dưỡng thân tâm sáng suốt". Đó là ta luôn sống trong tỉnh giác khi ăn và khi nấu ăn.

Ngoài những thức ăn vật chất để nuôi thân tồn tại, thức ăn tinh thần mới thực sự quan trọng đối với mọi người trên thế gian này. Nếu sống trong tu viện thì mỗi ngày đọc kinh, sám hối, ngồi Thiền, được gần gũi các bậc tu hành kiểu mẫu, trông thấy đức hạnh của họ sẽ giúp chúng ta sống tốt theo.

Người ăn chay đúng cách ít bệnh mà vẫn sống khỏe sống thọ. Ăn chay còn có ích lợi cho sức khỏe, như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn. Nhiều người chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi những người ăn chay. Những con thú chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ sát hại các sinh vật khác, không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên.

Người tự nguyện phát tâm ăn chay là người có tâm từ bi rộng lớn, coi muôn loài vật như bản thân mình, không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một sinh vật nào đau khổ. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, khi bị sát hại chúng cũng đau khổ  như loài người, không khác.

Có những người họ từ bi đến nỗi những loài vật nhỏ nhít, như côn trùng gián kiến ruồi muỗi, không dám sát hại chúng, hoặc những loài vật lớn hơn, như gà vịt heo bò, không dám ăn thịt, cho nên họ ăn chay trường. Nhưng đối với gia đình người thân hoặc người bên ngoài xã hội nếu nói một câu lỡ lời, thì họ nhứt định, không chịu bỏ qua, trách móc mạc sát đủ điều.


Trong cuộc sống của chúng ta người nào phát tâm ăn chay trọn vẹn, thì thực là đáng quý, đáng trân trọng. Đó là nhân duyên tốt để chúng ta tiến tu trên con đường hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi. Khi ăn chay trường chúng ta giữ trọn vẹn giới không sát sinh nhờ vậy ta không làm tổn hại đến thanh danh, đời sống và hạnh phúc gia đình của người khác.

 

Ngày nay, trên truyền hình, qua các chương trình dạy nấu ăn, trong nhà bếp tại gia, hay bếp của các nhà hàng, trong khi các con vật vẫn còn sống nhăn. Họ bắt cá còn sống bỏ vào chảo dầu sôi, bỏ cua đang sống  vào nồi nước luộc, như sò ốc bị nướng trên lò, như khỉ bị dạt đầu mổ óc ăn sống. Những con vật đó ngo ngoe giẫy giụa vùng vẫy rất đau đớn không khác nào địa ngục trần gian.

 

Ăn chay đối với nhân loại mà nói, không kể là giữ được thân thể khỏe mạnh, hay tránh được nhân quả nghiệp báo, cùng với những lợi ích khác không thể nói cho cùng. Lợi ích thiết thực lớn nhất của ăn chay, là tăng trưởng lòng từ bi đến với các loài vật và cuối cùng là nhân chấm dứt chiến tranh vì không tạo nghiệp giết hại chúng sinh.

Thức ăn chay phần nhiều đều là rau quả và các loại thảo mộc thiên nhiên được sinh trưởng lớn lên từ đất, đã có nhiều chất dinh dưỡng lại ít độc tố hơn các loài động vật. Người ăn chay đúng cách máu sẽ sạch, nên tuần hoàn nhanh, khiến cơ thể nhẹ nhàng thoải mái, hoạt bát, chịu đựng giỏi, thông minh và có thể sống lâu.

Thường con vật bị giết trong lúc đang giận dữ hoặc sợ hãi, sẽ tiết ra độc tố vẫn tồn đọng trong máu thịt. Nếu chúng ta ăn nhằm loại thịt này, tất nhiên sẽ bị nhiễm độc tố ấy. May mà độc tố này khi gặp rau quả, bị hóa giải bớt một phần nào. Ăn chay có thể giữ lâu tuổi trẻ, tinh lực dồi dào, đầu óc mẫn tiệp, da thịt mềm mại, đây là hiện tượng của tuổi trẻ. Ngược lại, thân thể mệt nhọc, thần trí hôn ám, da thịt xù xì, lộ ra dáng vẻ già trước tuổi.

Sát sinh để ăn thịt các loài động vật dẫn đến làm tổn hại gây ra ác nghiệp thù hằn vay trả, tất phải thọ báo xấu vì sự công bằng của nhân quả. Thọ báo đến nhanh hay chậm là tùy theo sự cố ý có chủ tâm và cách sát sinh hại vật. Nếu sau khi đã lầm lỡ sát sinh, thì chúng ta phải sám hối tu thiện cũng có thể chuyển được nghiệp xấu ác mà quả báo có thể nhẹ đi đôi phần.

Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao xảy ra chiến tranh. Chúng ta có thể thấy quả thì biết nhân, giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ bị quả báo chiến tranh, là do tạo nhân giết hại mà ra. Quả báo của chiến tranh dẫn đến đau thương chết chóc làm nhiều người đau khổ.

Và sát sinh có hai nguyên nhân chủ yếu: một là trực tiếp giết, hai là xúi bảo người khác giết. Tạo hai nghiệp sát này thuần thục, khi đủ duyên tất sẽ kết thành quả chiến tranh. Một số người do không tin lý nhân quả lại còn cho rằng trời sinh ra vạn vật để phục vụ cho con người, nên họ mặc tình giết hại. Dân gian có câu: “Oan gia trái chủ”. Giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, một thời gian lâu dài như thế, thì những nghiệp tốt xấu mà mỗi người ra tạo cũng không mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có sự trợ duyên, khi nhân gặp duyên đầy đủ thì trổ quả.

Ăn chay là ăn các loại hạt như gạo, mì, mạch, ngô, các loại hoa lá cây, các loại rau đậu, các loại củ quả. Ăn mặn là ăn những món ăn thuộc các loài động vật, từ to lớn tới các loài nhỏ bé, như trâu bò lợn gà cá tôm cua sò ốc v.v… Vì tất cả các loài hữu tình đều ham sống sợ chết cũng như con người, đức Phật vì lòng từ bi nên khuyên chúng ta tránh sát sinh hại vật, khi ta giết bất cứ con vật nào chúng đều sợ hãi, kêu la, dẫy dụa v.v…

Ăn chay không phải là đổi món ăn cho ngon miệng, cũng không phải là cách ăn kiêng cữ do bác sĩ, thầy thuốc dặn bảo, mà là một cách tu hành của người có lòng từ bi.

Chúng ta thử tìm hiểu xem, ai làm người kể từ khi được sinh ra và lớn lên cho đến bây giờ, muốn bảo tồn mạng sống con người ta đã giết chết vô số loài sinh vật? Lúc vừa mới chào đời tuy chưa biết ăn, nhưng ta bú sữa mẹ, mà sữa mẹ là do đã ăn cơm uống nước cùng các loài sinh vật, khi biết ăn ta đã ăn thịt cá từ bé đến bây giờ gây đau khổ cho các loài vật.

Tại sao ta phải giết chết các loài vật để ăn, trong khi ta không cần giết các sinh vật vẫn có sự sống, nhờ các loài hoa màu bằng thảo mộc giúp ta giữ được sức khỏe và hạn chế tối đa việc làm tổn thương các loài có tình thức? Nếu sự sống của con người vẫn được tồn tại mà không làm chết các sinh vật khác, thì cuộc đời an vui, hạnh phúc biết bao.

Tại sao con người giết sinh vật để ăn? Từ khi loài người có mặt trên thế gian này, họ chỉ ăn các trái các loại cây và hoa màu thiên nhiên. Lúc đầu, loài người chỉ ăn các loại nấm, hạt, hoa, lá, củ, quả, cây, nghĩa là chỉ ăn thức ăn bằng thực vật mà thôi, nhưng dần dần con người ăn thịt cá là dobắt chước các loài dã thú ăn nuốt lẫn nhau.

Khi thấy có một số súc sinh ăn nuốt lẫn nhau để bảo tồn mạng sống, con người thấy các loài ấy ăn thịt, cá, nên bắt chước ăn theo mới đầu cũng ăn sống và sau này con người văn minh nên đã nấu chín và chế biến theo nhiều hình thức khác nhau để phục vụ sự khoái khẩu của con người.

Sự phát triển của loài người ngày càng đông, nên các thức ăn bằng thực vật ngày càng khan hiếm, không đủ cho con người tiêu dùng, nên con người từ đó đã ăn các loài động vật và tự gây giống chăn nuôi thêm. Khi ăn thịt các loài động vật, họ tưởng tượng rằng sẽ tăng sức khỏe để đủ sức làm việc với công việc chân tay nặng nhọc, mặc dù lúc đó con người chưa ý thức được sự tác hại trong vấn đề nhân quả nghiệp báo.

Chính vì vậy, ngày nay với đà văn minh tiến bộ của con người, chúng ta đã thấu hiểu mọi khía cạnh trong cuộc sống đều dựa trên nền tảng nhân quả. Giết hại hay ăn các loài động vật quả báo bị giết hại trở lại, bệnh tật nhiều và chết yểu.

Nếu người Phật tử không có lòng thương xót trước cảnh giết chóc, ăn nuốt lẫn nhau thì hạt giống từ bi của chúng ta bị sự tham lam, bỏn sẻn lấn chiếm từ đó con người trở nên vô cảm và độc ác. Nếu chúng ta vì muốn ăn ngon để cho thỏa mãn sự tham đắm của mình mà nhẫn tâm giết hại các loài vật, vậy sao được gọi là người Phật tử chân chính?

Ăn chay thể hiện lòng bình đẳng của tất cả muôn loài, vì tất cả chúng hữu tình đều có tính Phật như nhau. Con người khi gieo tạo nghiệp xấu ác thì sẽ bị đọa vào các loài súc sinh để trả quả ngu si giết hại, đó là sự bình đẳng trên vấn đề nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau.

Một số người cho rằng: “Trời sinh ra vạn vật là để phục vụ cho thần linh thượng đế và con người, con người được toàn quyền hành hạ giết hại các loài vật để sinh sống. Ai theo truyền thống này là tự mình đánh mất lòng từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Quan niệm vật dưỡng nhân làm cho con người ta trở nên thù ghét và giết hại lẫn nhau để bảo vệ quyền lợi riêng tư của mình.

Ăn chay tránh nghiệp báo bệnh tật và chết yểu, nhưng cũng có người nói rằng: “Cỏ cây cũng có sự sống, đúng, cây cỏ cũng có sự sống, nhưng cây cỏ không có cảm giác, không có ý thức tham sống, sợ chết, lo lắng sợ hãi, vui buồn khổ đau như các loài vật. Con người là một sinh vật có hiểu biết cao, nhờ biết suy nghĩ và nghiệm xét, con người là vật tối linh trong các loài sinh vật.

Chính vì vậy, khi con người gây nghiệp sát sinh thì tội nặng hơn do cố ý, còn các loài súc vật giết hại là do bản năng sinh tồn mà không có sự toan tính. Còn cỏ cây không có cảm giác rõ ràng, do đó Phật nói ăn hoa, lá, củ, quả của cây không gây nghiệp báo, nếu có cũng chỉ ảnh hưởng chút ít.

Trong trường hợp khi một người bị bệnh do vi trùng gây ra, nếu dùng thuốc để diệt vi trùng, bác sĩ cho toa và người uống thuốc có gây nghiệp giết sát sinh hại vật hay không? Vấn đề này quyết định là có sát sinh đối với vi trùng đó, nhưng phước con người lớn hơn, phước là cứu người qua cơn bệnh tật, trước mắt là có tiền để nuôi sống bản thân và gia đình và được tiếng khen. Về mặt nhân quả đương nhiên phải chịu quả báo đối với các loài vi trùng đó, nhưng chỉ nhẹ thôi không đáng kể.

Ăn chay đúng cách sẽ tránh được nhiều bệnh tật, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu chất dinh dưỡng đều xác định rằng: Không chỉ trong thịt cá mới có chất dinh dưỡng, mà trong các loại rau đậu củ quả.v.v… Con người cần phải có ăn uống mới bảo tồn mạng sống, nếu ăn không đúng cách dễ sinh ra nhiều bệnh tật.

Ăn rau đậu hoa quả, trong người cảm thấy nhẹ nhàng, còn ăn thịt cá thấy hôi tanh và cơ thể nặng nề. Chính vì thế, khi nấu nướng người ta thường cho gia vị thật nhiều để làm át mùi tanh hôi của thịt cá và tạo nên sự hấp dẫn nhằm kích thích khẩu vị của mọi người.

Một bằng chứng cho thấy một số động vật chỉ ăn cỏ cây hoa lá, có thân hình thật to lớn lại khoẻ như voi, trâu, bò, ngựa, dê, v.v…, chúng chẳng bao giờ ăn thịt cá cả, nhưng lại to lớn khoẻ mạnh có thể giúp nhiều cho con người?

Ăn chay là thể hiện lòng từ bi đối với các loài vật, cho nên người Phật tử phải tập ăn chay từ một hai ngày mỗi tháng cho đến khi đủ nhân duyên thì ăn chay hoàn toàn. Khi ăn chay chúng ta nên thay đổi thức ăn cho đỡ ngán, tất cả có thể cùng ăn với cơm, bánh mì, bún, hủ tiếu…

Nếu không biết nấu sẽ mất chất bổ, làm hại bộ máy tiêu hóa, lại không ngon miệng. Khi nấu, luộc nên đậy nắp, không nấu luộc quá chín hoặc chỉ luộc sơ qua, chúng ta nấu luộc vừa chín tới để đảm bảo đầy đủ chất bổ dưỡng.

Còn trong những ngày ăn mặn, chúng ta nên giảm bớt số lượng thịt cá, tăng nhiều rau quả để tập quen dần ăn chay nhờ vậy giảm bớt nghiệp sát sinh hại vật. Khi ăn chay chúng ta hạn chế tối đa thức ăn giả mặn nếu cần thì dứt khoát không ăn bởi đồ giả mặn mất tiền mà không bảo đảm sức khỏe do phải dùng hóa chất giữ cho lâu hư.

Hiện tại, các thứ rau củ rẻ hơn thịt cá, nấu nướng mau chóng không cầu kỳ, trong nhà không có mùi hôi tanh của thịt cá, như vậy ăn chay hợp với cơ thể con người, và thể hiện lòng từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Ăn chay đúng cách làm cho thân thể nhẹ nhàng, lại khỏe mạnh sáng suốt, ít bệnh tật, dễ tu thiền quán, nhờ vậy dễ dàng buông xả tập khí thói quen xấu, do đó đời sau ít bị nghiệp báo xấu.

Hiện nay, trên thế giới, đã có rất nhiều người ăn chay, có những người ăn chay riêng rẽ, có những nhóm, những hội ăn chay. Đặc biệt, những người theo Ấn Độ giáo ngày nay đều ăn chay, họ nhờ tiếp thu lời Phật dạy mà từ bỏ việc ăn mặn.

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nếu con người không cần phải ăn uống mà vẫn sống bình thường, chắc là không một ai đấu tranh giành giựt, vì quyền lợi riêng của mình và dân tộc mình, như thế mọi người sẽ sống an vui và hạnh phúc. Đó là chúng ta nói về phạm vi chung của nhân loại. Riêng trong đạo Phật quan niệm về việc ăn uống, có một vấn đề, thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai từ xưa đến nay đó là ăn mặn và ăn chay. 

Theo lời Phật dạy muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, và đủ năng lực để làm việc, chúng ta cần phải ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân. Chúng ta nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt, chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố, trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động và làm việc. Quá dư chất cũng sinh bệnh và thiếu chất cũng sinh bệnh.

Trong đạo Phật, vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay, chúng ta nên ăn uống đơn giản đạm bạc, để dành nhiều thời gian cho những việc làm ích lợi. Chuyện ăn uống thuộc về phạm vi thể chất, bồi bổ cho tấm thân tứ đại giả tạm này, để làm phương tiện tu tâm dưỡng tánh, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.


Con người muốn sống một cuộc đời an nhàn tự tại, không nên lệ thuộc quá nhiều về sự ăn uống. Một thực tế khác về vấn đề ăn mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết. Ăn chay là thể hiện lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh.

Thời Phật còn tại thế do đi khất thực và ai cúng gì ăn đó, vã lại lúc đó con người chưa ý thức việc ăn chay. Sau này Phật tử kiến tạo chùa chiền chư tăng ở một chỗ mới bắt đầu ăn chay vì lúc đó phải tự nấu nướng. Ngày nay ở tại am, thất, tịnh xá, chùa, được bố thí, cúng, tặng tiền, vật thực, không thể đến chợ mua thịt, cá, tôm, cua, ốc, sò v.v… 

Trong Phật giáo có hai truyền thống: Phật giáo Nam tông tức là Phật giáo nguyên thủy, họ ăn mặn theo quan niệm tam tịnh nhục như Phật giáo Ấn Độ hiện tại vẫn ăn mặn. Thứ nhất không trực tiếp giết hại con vật để ăn, thứ hai không xúi bảo người khác giết, thứ ba không thấy không nghe con vật bị giết. Ngược lại, Bà La Môn giáo ngày xưa nay là Ấn Độ giáo, họ nghe lời Phật dạy biết được nghiệp sát sinh để bồi bổ cho thân này là tội lỗi, sẽ bị trả quả báo giết hại trở lại nên họ đã ăn chay.

Phật giáo thế giới chiếm số đông đa số ăn mặn vì họ quan niệm theo Phật giáo lịch sử ở Ấn độ. Hiện nay chỉ có 4 nước Phật giáo ăn chay: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Tây Tạng. Vậy, việc ăn chay, ăn mặn trong Phật giáo có làm ảnh hưởng đến sự tu tập hay không?

Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, khi đức Phật ra đời vì phải đi khất thực, không ở một chỗ quá ba ngày ai cho gì ăn đó mà không phải nấu nướng. Ngày nay, Phật giáo phát triển bắt buộc tu học tại chùa không được đi khất thực và nấu ăn tại chỗ, nếu mua thịt cá về coi sao được?

Và quan niệm của Phật giáo Bắc tông hiện nay ăn chay tu theo hạnh Bồ tát để thành Phật, vì cho rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính bình đẳng như nhau và thể hiện lòng từ bi không muốn làm tổn hại muôn loài vật. Chính vì vậy, Phật giáo Bắc tông bắt buộc mỗi tu sĩ khi thọ giới Tỳ kheo, phải thọ Bồ tát giới, và cư sĩ tại gia nếu phát tâm cũng được thọ Bồ tát giới.

Riêng Phật giáo Nam tông không có thọ Bồ tát giới và ăn mặn theo tam tịnh nhục. Thật ra ăn chay hay ăn mặn cũng đều tu hành được cả, ai đủ duyên thì ăn chay hoàn toàn, ai chưa đủ duyên thì ăn mặn và tập sự ăn chay mỗi tháng từ 1 ngày cho đến 10 ngày và cuối cùng là ăn chay trọn vẹn.

Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và có giới hạn chúng tôi không dám luận bàn nhiều, chỉ nhắc lại lời cổ nhân dạy: "Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn". Nghĩa là: Con người sanh ra, trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống, để bảo tồn mạng sống, chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Cho nên, người tu theo đạo Phật tại gia hay xuất gia, phải ý thức chỗ này mỗi khi thọ thực, chúng ta cần phát tâm từ bi rộng lớn, thương xót những người chưa có thể ăn chay được vì một lý do gì đó, bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước khi ăn, để hồi hướng phước báu ăn chay, đến với tất cả mọi người. Hoặc chúng ta chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, ít ra cũng đều có những bữa cơm đạm bạc như mình vậy, vì sự ăn của mình không làm tổn hại đến các loài vật.

 

HỌC ĐỂ BIẾT CÁCH HOÀN THIỆN CHÍNH MÌNH 

Chúng tôi hơn 40 năm lãng phí thời gian một cách vô ích, vì không có sự hiểu biết chân chính do nhân ngu si chấp ngã, vào tuổi gần năm mươi mới bắt đầu chăm chú vào việc học. Đến từng tuổi này chúng tôi phải cố gắng tìm hiểu, học hỏi trong khó nhọc, vất vả mới có chút kiến thức, hiểu biết ít ỏi và một số kinh nghiệm trong việc tu học Phật pháp có giới hạn.

Để minh họa cho việc học là cần thiết và quan trọng chúng tôi sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện. Có một gia đình anh nông dân, ở miền quê xa xôi hẽo lánh nhà nghèo lại đông con. Do quá nghèo lại không có ruộng đất. Ông ta mỗi ngày, phải làm thuê làm mướn với rất nhiều việc khác nhau để có tiền nuôi sống gia đình, người thân như dựng nhà, cuốc đất, be bờ, nhổ mạ, và làm đủ thứ các việc linh tinh khác… Nhờ siêng năng tinh cần làm việc trong khó nhọc và nhín ăn bớt mặc, người cha ấy mới có thể lo cho các con được ăn học.

Rồi bổng nhiên đứa con trai lớn trong gia đình đến năm 15, 16 tuổi, không còn thiết tha việc học hành nên thường xuyên bỏ trốn học nhiều lần bị nhà trường mắng vốn. Cha cậu biết được, nên mới bảo đứa con rằng: Cha cả một đời vất vả, nhọc nhằn phải làm thuê làm mướn vì thất học. Con không thấy sao, gia đình nhà bác Hiếu giàu có sang trọng nhờ học cao hiểu rộng và tất cả mọi người trong gia đình đều thành đạt!

 

Sau nhiều lần khuyên nhũ con mình không được, một hôm ông ta kêu con lại bảo: Cha cho con một chọn lựa duy nhất, mong con suy nghĩ chín chắn rồi mới quyết định. Một là con cố gắng ăn học cho đến nơi tới chốn, hai là con sẽ phải đi làm mướn để tự nuôi sống bản thân mình. Nghe cha nói vậy, cậu con trai khỏi cần suy nghĩ liền chấp nhận giải pháp nghĩ học, để làm thuê kiếm sống qua ngày.

 

Rồi bắt đầu kể từ ngày hôm đó, người cha nhận lãnh khoáng công việc để hai cha con cùng làm. Người cha đó, đã rèn luyện cho cậu con trai biết siêng năng lao động và học đức tính chăm chỉ, cần cù trong mọi công việc…

 

Thời gian trôi qua, cậu bé trai đó giờ đây đã khôn lớn và trưởng thành. Cậu ta có một mái ấm gia đình bên người vợ trẻ và 2 đứa con một trai, một gái. Cuộc sống cũng tạm ổn, nhờ cậu ta siêng năng chăm chỉ làm việc dưới mọi hình thức miễn sao có tiền nuôi con là được.

 

Cho đến bây giờ, chàng thanh niên đó mới ân hận mà nói rằng: Thật là đáng tiếc, ngày xưa tôi không chịu nghe lời cha để giờ này phải chịu lao khổ trăm bề. “Tôi sẽ cố gắng hết mình bằng mọi cách để làm sao có đủ tiền nuôi cho con ăn học thành tài, bởi vì cuộc sống lao động chân tay thật vất vả, nhọc nhằn nhưng khó mà giàu có”.

 

Những người nông dân chân lắm tay bùn nhưng thật thà chất phát này, vì hoàn cảnh khó khăn lại không có chí học hỏi nên đa phần đều không học đến nên đến chốn, nhưng nhờ họ biết cần cù siêng năng, làm việc và có đức tính chịu đựng hy sinh, để lo cho con cái ăn học đàng hoàng mà sau này có thể làm tròn bổn phận đối với gia đình và đóng góp lợi ích cho xã hội.

 

Trong xã hội luôn tồn tại hai thực trạng giàu và nghèo. Thực tế người giàu chiếm số ít, người nghèo chiếm số đông. Hai hạng người này đều phải nương vào nhau để mà phát triển và bảo tồn sự sống, những người nông dân nghèo chân lắm tay bùn làm ra những hạt gạo thần tiên để cung cấp cho nhân loại, khỏi phải lo lắng về phần lương thực. Nhờ vậy họ có điều kiện để học hỏi và thành đạt dễ dàng trong kế sinh nhai.

 

Tuy nhiên nếu chỉ một mình, ta dù có tài giỏi đến đâu cũng không làm sao sản xuất đồng loạt các mặt hàng thiết yếu để phục vụ đầy đủ nhu cầu an sinh xã hội. Chính vì vậy, chúng ta phải biết ơn nhau qua nhịp cầu tương quan về mọi mặt trong cuộc sống, để sẵn sàng sẻ chia hay giúp đỡ mọi người khi cần thiết.

 

Trong thực tế đời sống của chúng ta hiện nay, ngành giáo dục đã không còn đủ sức và quan tâm đến việc rèn luyện nhân cách, đạo đức cho con người. Người học trò bước vào học đường với rất nhiều môn học chất chứa kiến thức khổng lồ, bằng một sự gượng ép mà không bắt nguồn từ sự yêu thích học hỏi.

 

Cùng với chương trình đào tạo không có giá trị thực tiễn cho cuộc sống, buộc con người phải cố nhồi nhét vào bộ não quá nhiều…..Việc học đã trở nên quá tải nhưng lại tốn kém một lượng chi phí quá lớn khiến mất quân bình đời sống gia đình đối với bộ óc còn quá nhỏ bé. Chính vì vậy một số học trò ngày nay phần lớn rất chán ngán việc học, do quá tốn kém và không có hiệu quả thiết thực.

 

Cha mẹ ngày xưa đâu có học nhiều như bây giờ mà vẫn giàu có dư dã của ăn, của để, trong khi đó có rất nhiều người được đào tạo qua trường lớp hẳn hoi như kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, luật sư, kinh tế, chăn nuôi, trồng trọt… với vô số bằng cấp nhưng vẫn thất nghiệp, đói nghèo bởi không có việc làm do cung và cầu không phù hợp.

 

Gia đình là nhân tố nền tảng để mở mang và phát triển tốt đẹp cho xã hội được bền vững và lâu dài.Cơ thể được khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn sáng suốt thì dễ dàng tạo nên con người phi thường. Chính vì vậy muốn cho con người có hiểu biết chân chính, sống có đạo đức biết phục vụ vì lợi ích tha nhân là gốc rễ cho sự tồn tại vững chắc ổn định, bền vững và lâu dài.

 

Đất nước chúng ta hầu như đã quên đi những con người của thời quá khứ 700 năm về trước, Phật giáo đời Trần là nét son vàng chói lọi nhờ nền giáo dục nhân quả, tinh thần tự cường tự lực, phá bỏ các tập tục mê tín, tín ngưỡng giết hại nhờ vậy mà toàn dân đều sống an lạc thái bình. Từ lâu con người chỉ quan tâm những vấn đề trọng yếu như chính trị, giáo dục, kinh tế, tôn giáo, khoa học,…

Nhưng chúng ta hầu như đã quên hẳn vai trò con người mới chính là yếu tố quyết định nên một xã hội bền vững, ổn định, hòa bình và hạnh phúc.Các ngành nghề chính trị, kinh tế, tôn giáo, xã hội,... chỉ là một phần của thân cây? Cộng đồng xã hội là một cái cây hoàn chỉnh, nhưng con người mới là gốc rễ?Chúng ta làm sao giúp con người sống có ý thức trách nhiệm và bổn phận, sống có hiểu biết chân chính, tin sâu nhân quả, tin chính mình có khả năng làm chủ bản thân và biết san sẻ và nâng đỡ cho nhau, bằng tình người trong cuộc sống.

Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú tâm vào việc học để tiếp thu nền kiến thức phong phú và đa dạng, bằng sự hiểu biết chân chính. Học không có nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở, hay học được một nghề thật giỏi kiếm thật nhiều tiền để hưởng thụ.

Mục đích của việc học là để thành con người với đúng nghĩa của nó, tức là con người hoàn thiện về mọi mặt, tài giỏi và có nhân cách đạo đức, nhằm đóng góp phục vụ lợi ích cho cộng đồng xã hội.

Trước tiên học là noi gương sáng của các bậc tiền nhân, vĩ nhân, tức là chúng ta bắt chước những việc làm có ích nước lợi dân mà các bậc tiền bối xưa đã làm. Chúng ta học để phân biệt được phải trái, tốt xấu, đúng sai…. Thấy điều tốt điều phải, ta phải bắt chước làm theo. Thấy điều xấu ác có hại cho người vật, ta phải tìm cách tránh xa. Người khôn ngoan sáng suốt là người biết học và tiếp thu cái tốt và loại bỏ cái xấu của người khác, người ngu si khờ dại là người chỉ biết cống cao ngã mạn thấy mình là tài giỏi hơn người nên khó mà học thêm được điều gì.

Từ những hiểu biết căn bản của việc học trong ghế nhà trường và gia đình là môi trường trực tiếp để dạy đạo lý làm người. Chúng ta không thể nào học suông lý thuyết mà cần phải tìm tòi nghiên cứu, suy diễn, nghiệm xét, và phản biện.

Chúng ta không nên quá tin vào sách vở vì sách vở cũng có nhiều cái sai trái trong đó. Người xưa nói chúng ta đừng quá tin vào sách mà hãy học cách suy gẫm để tìm ra bản chất thật của nó trong cuộc sống thực tế.

Đọc sách mà không chịu phân tích và nhận xét thì chỉ có hại mà thôi, giống như những người thuộc loại mọt sách. Những người biết cách học hỏi thì sẽ không dừng lại ở sách vở, vì họ chỉ tiếp thu những gì có giá trị thiết thực trong đời sống hiện tại, chứ không hoàn toàn tin hẳn vào sách. Những điều gì học được chúng ta phải đem ra thực hành để đóng góp lợi ích cho xã hội.

Khác với các loài động vật, hầu hết đều có thể tự lo cho cuộc sống của mình gần như ngay khi mới ra đời. Con người phải dành thời gian hơn mười năm để đi học mới có thể lo cho cuộc sống của mình, nhưng vẫn ở mức độ trung bình mà thôi. Việc học đã có truyền thống lâu đời từ rất xa xưa được nối tiếp cho đến ngày hôm nay. Nhìn vào cách thức tổ chức học tập và thi cử của thời xưa, chúng ta có thể thấy rằng mục đích chính của việc học là để làm quan.

Mục đích chính của việc học là để ra ứng thí, thi cử nếu đỗ đạt thành ông nghè, ông cử hoặc trạng nguyên sẽ được bổ nhiệm làm quan. Nếu chẳng may thí sinh nào thi rớt thì phải chờ khóa sau thi lại. Chính vì thế mới có người suốt đời đi thi mà vận may chưa có, nên suốt đời lận đận với tư cách là người dân tầm thường. Cho nên việc học ngày xưa rất quan trọng, vì học để làm quan và được vinh hoa phú quý ăn trên ngồi trước bổng lộc dồi dào mà có thể giúp được ba họ cùng tiến thân. Nên tục ngữ có câu: Một người làm quan, ba họ được nhờ là vậy đó”!

Ngày xưa đó là cách thức tiến thân duy nhất và khẳng định chính mình thành công hay không trên quan trường của xã hội phong kiến với thứ bậc “sĩ, nông, công, thương” được phân định rõ ràng.Sĩ là tầng lớp trí thức, có học. Nông là nông dân. Công là công nhân. Thương là người buôn bán, kinh doanh. Ông cha ta ngày xưa đã xếp 4 tầng lớp, nghề nghiệp trong xã hội theo thứ tự như vậy. Qua đó đất nước chúng ta đã có truyền thống trong sự học hành, kiến thức như thế nào vậy nên mới xếp sĩ lên hàng thứ nhất, trên tất cả mọi tầng lớp khác trong xã hội.

Tiếp sau hàng trí thức tức những người có địa vị trong xã hội là nông dân đã được ông cha ta coi trọng ở vị trí hàng thứ hai, chỉ đứng ngay sau trí thức. Như vậy, những người sản xuất ra lương thực thực phẩm tiêu dùng hằng ngày rất quan trọng, bởi vì “có thực mới vực được đạo”.

Trong 4 tầng lớp xã hội ngày xưa, thương là giao dịch buôn bán làm ăn được ông cha ta xếp cuối cùng, có nghĩa mua bán là điểm thứ yếu so với 3 đối tượng trên. Trong bối cảnh sống của người Việt ta ngày xưa cho rằng nghề kinh doanh chỉ là buôn nước bọt, mua chỗ này rồi bán chỗ kia, ăn chênh lệnh, ăn hoa hồng, không phải là người làm ra của cải vật chất cho xã hội.

Tuy nhiên, trong thời đại xã hội ngày hôm nay đã thay đổi nhiều so với khi xưa, nên mọi hình thức cũng được thay đổi theo cho phù hợp thực tế. Bất cứ thời đại nào tầng lớp sĩ là tri thức vẫn đứng đầu, và thương từ vị trí chót bây giờ đã nhảy lên hàng thứ hai, còn công thì đứng vào hàng thứ ba và nông rơi vào vị trí chót. Ba tầng lớp nông, công, thương muốn tồn tại, và làm lợi ích cho xã hội cũng phải học hỏi, trau dồi trí thức, văn hóa như người tri thức vậy.   

Chính mục đích học để làm quan của ngày xưa đã giúp cho một số gia đình người thân quan quyền, vua chúa nắm giữ quyền sinh sát trong tay và dẫn đến độc tài. Ngay cả với những người trong suốt thời gian trên 20 năm trời chuyên “sôi kinh nấu sử”, vẫn không đạt được mục đích của mình vì không thi đậu.

Hiện nay, hệ thống giáo dục của chúng ta đang có nhiều vấn đề, chúng ta nhồi nhét kiến thức cho học sinh quá nhiều, có thể dẫn đến tình trạng tốn kém tiền bạc mà không có kết quả thiết thực. Trong khi đó, học sinh phải được học âm nhạc, hội họa, những kỹ năng sống, giá trị sống nhiều hơn và phải có những thực hành. Được tham gia lao động, đi giúp đỡ những người khó khăn, phải có sân vui chơi giải trí lành mạnh cho học sinh, phát triển sách học đạo đức làm người cho học sinh đọc…

Việc dạy người là trách nhiệm và mục tiêu của ngành giáo dục. Nhưng muốn làm việc này cho có kết quả tốt đẹp, không phải dễ dàng vì chính sách giáo dục còn nhiều vấn đề bất cập.

Thứ nhất, các trường sư phạm của chúng ta hiện nay đào tạo sinh viên chưa kỹ, mới nặng về đào tạo kiến thức khoa học chứ chưa có kỹ năng, để dạy học sinh ý thức trách nhiệm làm người tốt. Việc dạy học sinh biết sống có văn hóa, biết sống đẹp, biết làm người tốt không phải chỉ dựa vào kiến thức suông, mà quan trọng nhất, các thầy cô phải có đủ kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, đó là cách hướng dẫn giảng dạy cho học sinh kỹ năng sống và đạo lý làm người sau khi ra trường.

Trước tiên, chúng ta phải xây dựng trường học thân thiện, phải có văn hóa học đường và đạo đức làm người. Tự mỗi nhà trường phải xây dựng văn hóa học đường, thực sự tạo nên một ngôi trường thân thiện có nền tảng đạo đức theo nguyên tắc trước giữ lễ nghĩa sau mới học chữ.

Các trường học cũng cần phải xây dựng tốt hơn nữa văn hóa học đường. Theo đó, học sinh khi đến trường không chỉ được truyền tải kiến thức mà còn phải được học đạo lý làm người, sống để yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Đối với học sinh, chúng ta cần tôn trọng, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các em nhiều hơn.

Những học sinh giỏi, có năng lực sẽ tự biết cách học hỏi và phát triển, bởi vì các em không có tư tưởng ỷ lại, còn những em yếu hơn thì rất cần sự bảo trợ dạy dỗ của các thầy cô giáo, bằng cách động viên và giúp đỡ nhiệt tình. Từ đó, chúng ta sẽ tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp để cho các em khi khôn lớn trưởng thành sẽ biết mình cần phải làm gì. Chúng ta là cha mẹ, thầy cô giáo ai cũng kỳ vọng, mong muốn ở học sinh rất nhiều, bởi vì các em là nhân tố nền tảng của đất nước trong mai sau.

Đất nước Việt Nam chúng ta có truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Trong thời phong kiến, giá trị và vai trò của nhà giáo được xếp sau vua nhưng trước cha mẹ:  “Vua, thầy, cha”. Với vinh dự và  trách nhiệm quan trọng trong sự giáo dục, nhiều nhà giáo đã làm rạng rỡ non sông đất nước. Với các em học sinh, trước tiên phải biết tinh thần “tôn sư trọng đạo”. Nếu chúng ta đi học mà không biết quý trọng thầy cô giáo, thì làm sao chúng ta đủ khả năng tiếp thu kiến thức được học qua trường lớp để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Trong cuộc sống hiện nay nhà giáo được vinh danh là “kỹ sư tâm hồn”, nghề dạy học là “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý khác trong xã hội”. Từ ngàn xưa cho đến nay nhà giáo đã đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp “trồng người” và khi đất nước nguy khốn bị kẻ thù đe dọa, họ cũng sẵn sàng xả thân để bảo vệ giang sơn.

Là nhà giáo dù giảng dạy ở cấp học nào thì cũng đã từng là học trò trước khi bước lên bục giảng. Nhờ có công lao của bao thế hệ thầy cô giáo mới có thế hệ nhà giáo hôm nay. “Kính trọng thầy mới được làm thầy”. Nếu chúng ta tự đánh mất đi sự kính trọng đó, thì chúng ta phải tự trách mình không phải là kẻ sĩ chân chính, cho dù có quyền cao chức trọng.

Ngày nay trong cơ chế thị trường, không ít nhà giáo đã đánh mất nhân cách, lòng tự trọng, tự biến mình thành kẻ mua bán chữ bằng nhiều hình thức lừa dối tinh vi. Có một số thầy cô giáo coi học sinh như là chỗ kinh doanh, họ bán điểm, bán đề thi, đáp án, bán danh hiệu thi đua...Chính vì có một số hiện tượng như thế nên người ta nói: “con sâu làm rầu nồi canh”.

Ngành giáo dục đang tìm mọi biện pháp để chống tiêu cực trong thi cử và bệnh báo cáo thành tích, bằng nhiều biện pháp như hạn chế việc dạy thêm, học thêm ngoài luồng, nhưng đó chỉ mới là chống phần ngọn thôi.

Chúng ta chống tiêu cực bằng cách kêu gọi mỗi thầy cô giáo ý thức bổn phận của mình là nhiệm vụ cao quý hàng đầu và ai cũng tin sâu nhân quả thì đất nước sẽ tiến bộ và phát triển bền vững lâu dài, trong tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết.

Nếu chúng ta nâng cao được ý thức cho học sinh, cộng thêm với nhà trường có nhiều hoạt động ngoại khóa như giảng dạy cho học sinh những giá trị sống: biết tin sâu nhân quả, biết kính trọng thầy cô giáo, biết khoan dung và độ lượng, biết cảm thông và tha thứ, biết sống yêu thương nhân loại bằng tình người trong cuộc sống và tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Cái khó của chúng ta hiện nay là chưa có nhiều thầy giáo giỏi để giúp đỡ học sinh và giúp cả giáo viên tháo gỡ khó khăn vì chính sách chưa được thông thoáng. Nếu ai cũng ý thức được điều ấy, thì nhà trường sẽ thực sự trở thành một nơi vững chắc vì sự nghiệp “trồng người” cho hế hệ tương lai.

Ngày nay có một số em không biết học để làm gì. Học vì thấy ai cũng học nên mình phải học vậy thôi. Học để có công ăn việc làm ổn định và kiếm được nhiều tiền. Đây là số đông của các em sinh viên học sinh điều mong muốn như vậy. Một số bậc cha mẹ cho con em mình đi học để có thể tự lo cho cuộc sống của mình, kiếm được công việc phù hợp, sau này đỡ khổ và giúp đỡ gia đình. Một thiểu số cho rằng học để mở mang hiểu biết. Và chỉ một vài trường hợp đặc biệc học để tự hoàn thiện chính mình.

Hoàn cảnh và sự nghiệp gia đình cũng có ảnh hưởng một phần nào đến sự hiểu biết và sự lập chí của con người. Xưa cũng như nay, vẫn có nhiều người tự lập nghiệp được ở cái tuổi hai mươi và có người còn sớm hơn nữa do ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình khó khăn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người trên 30 tuổi rồi mà còn còn sống bám vào cha mẹ. Thậm chí có nhiều người con, cha mẹ phải nuôi suốt đời do biếng nhác và ỷ lại vào gia đình.

Cũng cùng một trình độ học vấn mà mỗi người lại có sự hiểu biết và nhận định khác nhau. Cùng một tác phẩm mà mỗi lần đọc lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và sự học hỏi giúp ta ngày càng thông suốt hơn về sự diễn biến của tất cả mọi hiện tượng sự vật. Chính vì thế mà phải từ 50 tuổi trở lên, con người ta mới có đủ sự hiểu biết và kinh nghiệm vững vàng trong cuộc sống, đó là nói những người có ý chí.

Không phải ai có nhiều tuổi rồi cũng được thông minh tài giỏi hơn người, ở đây còn tùy theo sự học hỏi và tu tập của người đó. Tuy nhiên, hiểu biết chân chính và kinh nghiệm trong cuộc sống, phải do học hỏi và có sự trải nghiệm mới có thể thành công.

Chúng ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp tục học hỏi trau giồi mãi cho đến khi già chết mới thôi. Việc học phải bao gồm từ khi nghe đọc, rồi nghiên cứu, suy gẫm, biết cách áp dụng thực hành từ ý nghĩ cho đến lời nói, hành động cũng phải học. Ngoài ra, chúng ta phải cố gắng và có quyết tâm cao độ trong học hỏi thì mới mong đạt được kết quả tốt đẹp trong tương lai.

Có cố gắng học hỏi như thế ngay khi còn nhỏ, thì các bậc cha mẹ mới đem hết khả năng, và những gì biết được để chăm sóc dạy dỗ cho các con mình  hầu giúp chúng có ý thức trong việc học mà không phụ lòng cha mẹ.

Các em học sinh hãy nên nhớ rằng, nếu chúng ta không có ý chí tự lập thì mai sau này khó có cơ hội thành công. Những người như vậy dù cha mẹ có cố gắng quan tâm, lo lắng và giúp đỡ, cũng vẫn không thể nào giúp cho người đó tiến thân được. Cuối cùng những người này chỉ ăn bám gia đình và không giúp ích gì cho xã hội.  

Xét về ý thức trong việc học của các em rõ ràng chưa có đích đến một cách có logic, với hệ thống giáo dục nhân bản liên hệ đến sự phát triển của con người tất cả đều dạy và học, theo kiểu đua nhau nhồi nhét kiến thức, mà rất ít khi tự đặt ra câu hỏi: học để làm gì?

Chúng ta học để biết cách làm chủ bản thân nhờ có suy nghĩ tích cực, tư duy quán chiếu nhận ra chân lý cuộc đời và học để biết cách chung sống với mọi người mà không làm tổn hại cho ai. Còn như số đông hiện nay quan niệm học để kiếm tiền, để có công ăn việc làm ổn định, đó là cách học để làm ăn.

Còn có một quan điểm khác rất quan trọng: học để nâng cao trình độ hiểu biết và biết cách hoàn thiện chính mình thì hầu như hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thậm chí, có một số tu sĩ hiện nay học để được sự cung kính, lợi dưỡng mà lãng quên mục đích cao cả là giác ngộ, giải thoát. Chúng ta phải học theo cách của Phật dạy là văn, tư, tu. Văn là nghe lời Phật dạy rồi sau đó mới suy nghĩ, quán chiếu, nghiệm xét biết được sự thật giả phân minh, đến khi đó thì ta mới tu bằng cách buông xả phiền não tham, sân, si. Cái học để làm người có hiểu biết chân chính để dấn thân, đóng góp phục vụ, lợi ích xã hội đã biến dạng thành học để có bằng cấp cao, để chạy theo thành tích, để được hơn người.

Chúng ta học nhằm để phát triển được hết năng lực của mỗi cá nhân, và nhờ vậy giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân, biết được giá trị sống của đời mình mới là mục đích của việc học. Khi chúng ta đã biết cách phát huy tốt năng lực của bản thân mình, thấy được giá trị thiết thực là phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống, chính vì vậy chúng ta cần phải có trách nhiệm, yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Học để có kiến thức và chuyên môn cao thì cũng không khó gì cho lắm chỉ cần ta siêng năng một chút là có thể thực hiện được, nhưng muốn học để làm người tốt, để hoàn thiện chính mình mới thật là việc khó. Chính vì vậy tất cả mọi thế hệ cần phải chú ý cách học làm người như sau để giúp cho chúng ta ngày càng thêm hoàn chỉnh về mọi mặt.

Học làm sao để làm người con hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. "Hiếu thảo là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây", là đạo lý chân thật không thể thiếu trong đời sống chúng ta hằng ngày. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn sóc, nuôi dưỡng mình rất vất vả, nhọc nhằn và còn lo cho ta từ cái ăn tới việc học, cho đến khi khôn lớn rồi dựng vợ gã chồng và còn chia gia tài nữa.

Cha mẹ cũng chính là người thầy giáo đầu tiên dạy ta nên người. Công ơn cha mẹ được ví như trời cao biển rộng cũng không thể sánh bằng. Chính vì vậy mà con cái phải biết thương yêu kính trọng và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, chúng ta chỉ cần thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách nghe lời cha mẹ chỉ dạy, siêng năng chăm chỉ học hành, và yêu mến cha mẹ.

Khi khôn lớn trưởng thành, chúng ta thể hiện sự biết ơn cha mẹ bằng cách sống làm tròn trách nhiệm bổn phận đối với gia đình, người thân hết lòng phụng dưỡng mẹ cha, ân cần săn sóc cha mẹ, kính trọng cha mẹ, và giúp đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến. Chúng ta làm được như thế thì mới được gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có học thức. Nếu chúng ta làm trái các điều này, ta có thể bị liệt vào là hạng người con bất hiếu.

Trong các tội đồ, tội lớn nhất là tội bất hiếu, bởi vì cha mẹ là người có ơn nghĩa cao cả mà ta còn không biết nhớ ơn và đền ơn, huống hồ là người khác ta có thể giúp đỡ, sẻ chia? Con người một khi đã dính vào tội bất hiếu rồi thì không việc xấu ác nào mà họ không dám làm.

Khi muốn làm việc gì, ta phải quyết định làm cho bằng được, đó là chí. Người xưa thường nói: Người có ý chí ắt phải làm nên việc lớn, có chí thì nên, có chí làm quan, và có gan làm giàu. Vậy chí là cái sự quyết tâm mãnh liệt của chính mình, khi chúng ta quyết định muốn làm một việc gì phải kiên trì, bền bỉ cho đến khi nào thành công mới thôi.

Ngày hôm nay, trong chương trình tài trợ học bổng cho các em học sinh khó khăn vùng sâu, vùng xa, do hội ấn tống từ thiện duyên lành tài trợ với chủ đề “Kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống”, chúng tôi muốn gửi gắm đến cho các em một thông điệp: ”Học để các em biết cách hoàn thiện chính mình”, hầu sống tốt hơn để làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Các em học sinh thời nay cũng vậy, ta phải siêng năng chăm chỉ học hành, làm sao để thực hiện được ước mơ và hoài bão của mình là thành tựu việc học để hoàn thiện chính mình nhằm đóng góp lợi ích cho xã hội. Ai có ý sắt đá, có quyết tâm cao độ thì mọi việc ta đang theo đuổi trước sau gì cũng sẽ được thành công tốt đẹp, ngay tại đây và bây giờ.

CHO ĐI CŨNG CHÍNH LÀ NHẬN LẠI

Trong cuộc sống của chúng ta khi cho đi càng nhiều thì những giá trị tài sản sở hữu của chúng ta sẽ càng giảm thấp. Vì thế, chúng ta luôn phải cân nhắc, đắn đo trước khi cho ai đó một món gì. Và chính sự cân nhắc đó, làm cho giá trị của sự cho không còn có ý nghĩa đích thực của tình thương. Nhân gian thường nói ” bánh ít đổi đi, bánh quy đổi lại” khi chúng ta cho đi một vật gì là biết chắc mình sẽ nhận lại được một vật khác, từ cho ở đây thật ra có nghĩa là trao đổi. Có đôi lúc chúng ta cho đi một vật gì, vì muốn đáp lại lòng tốt của người khác, cho nên từ cho ở đây  có ý nghĩa là trả nợ.

Trong những trường hợp tế nhị hơn, chúng ta cho đi những giá trị vật chất vì mong muốn có được sự ngợi khen, kính phục từ người khác, hoặc chúng ta cho đi những giá trị vật chất theo lời khuyên của người khác. Và trong những trường hợp này thì ý nghĩa của từ cho cũng không hoàn toàn đúng nghĩa là cho một cách bình đẳng...

Những giá trị vật chất hay tài sản sở hữu của chúng ta không phải tự nhiên mà có được. Chúng là thành quả của sự siêng năng làm việc và cố gắng của mọi người. Thường thì thói quen tham lam, bỏn sẻn trong đời sống vật chất cũng khiến cho chúng ta hạn chế sự ban phát tình thương đến với mọi người khi cần thiết.

Nhưng chúng ta thật ra đâu có phải mất gì khi mở rộng lòng thương yêu người khác? Khi trong lòng ta có sự hiện hữu của tình thương, điều đó tự nhiên mang đến cho ta một niềm vui mà không gì có thể so sánh được.         Phần lớn những ai trong quá khứ và hiện tại, ít mở lòng thương yêu người khác hay bị tổn thương tình cảm từ rất sớm trong cuộc đời. Những em bé mồ côi cha mẹ, hoặc lớn lên trong những gia đình đổ vỡ, thiếu hạnh phúc... thường rất dễ trở thành tệ nạn xã hội.

Do không được nếm trải hạnh phúc của sự yêu thương, những người ấy không thể hình dung được những gì mà lòng yêu thương sẽ mang đến cho họ. Sự mất mát lớn lao trong đời sống tình cảm đã sớm hình thành trong tâm hồn họ sự thù hằn ghét bỏ mà tự đánh mất chính mình. Từ đó họ cảm thấy thù hận mọi người, thậm chí là đánh mất lòng yêu thương trong ta, vì thế nó khiến cho ta chẳng bao giờ có được niềm vui sống mà san sẻ giúp đỡ người khác.

Trong cuộc sống này những gì ta cho đi bằng tình người, mới thật sự đúng nghĩa là cho mà không phải là những sự trao đổi hay mua bán dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, nếu ta biết cho đi những giá trị vật chất để giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cho người khác, thì đây chính là cách giúp ta có thể nhận lại được niềm vui và hạnh phúc, bởi gì trong ta không có sự toan tính. Khi cho đi mà chúng ta không kèm theo bất cứ một điều kiện hay sự mong cầu nào, chính ngay khi ấy sự cho đi như thế, chúng ta đã nuôi dưỡng được lòng từ bi vô hạn. Khi ta cho mà không có sự tính toán thì sự cho ấy mới là cao thượng, nên ta sẽ nhận được sự an lạc, hạnh phúc.

Chúng ta đừng nên chạy trốn khổ đau mà hãy đối diện với nó để tìm ra giải pháp nhằm thay đổi quan niệm sống như thế nào cho đúng. Trong cuộc sống này, tất cả chúng ta đều cần đến nhau như là việc ăn uống không thể thiếu được.

Cái sự tác hại lớn lao khi giận quá sẽ mất khôn làm cho chúng ta đánh mất chính mình mà làm khổ người khác. Xóa đi những vết thương lòng là điều khó nhất với loài người, bởi vì nó đã ăn sâu vào tàng thức của chúng ta. Quá khứ một thời đã qua làm cho chúng ta tiếc nuối, hối hận, ta hãy chia tay với những quá khứ đau buồn vì như thế ta sẽ giết mình trong từng phút giây.

Khi mạnh khỏe và tinh thần minh mẫn sáng suốt, chúng ta mới đủ sức để giúp đỡ người khác vượt qua cơn hoạn nạn. Muốn giúp đỡ người khác thì chúng ta phải có thiện chí trước và sau đó phải có phương tiện vật chất thì như thế chúng ta mới san sẻ cho người khác được. Trước khi cứu người thì đầu tiên chúng ta phải có sức mạnh tinh thần và phải có tình yêu thương nhân loại.

Chúng ta đừng mong ai hiểu được mình mà chúng ta cần phải tự hiểu mình trước đã vì chính ta là chủ nhân của bao điều tốt xấu. Ta phải tự nghiêm khắc với bản thân và rộng lượng với mọi người. Chúng ta sống tốt cho mình để không trở thành gánh nặng cho người khác. Đời người rất ngắn ngủi, bởi thế ta hãy nên sống tốt hơn để có cơ hội giúp đỡ người khác và hoàn thiện chính mình.

Thế gian này mọi thứ đến rồi đi theo quy luật nhân duyên, nó chỉ đến để cho ta cảm nghiệm sự sống luôn vô thường biến đổi. Những cái không phải của mình mà ta cứ bám víu mãi, đến khi mất nó, ta sẽ vô cùng khổ đau vì tiếc nuối. Những người làm việc nhọc nhằn, vất vả bằng tay chân so với những người làm việc bằng trí óc có khác nhau về hình thức, tuy nhiên sự khổ tâm nhiều hay ít là do ta chấp trước và dính mắc.

Chúng ta ai cũng biết rằng tham lam là điều không tốt có thể làm tổn hại đến người khác, nhưng đã làm người khó ai vượt qua khỏi chỗ này vì đó là thói quen do huân tập nhiều đời của con người.

Cuộc sống không dạy cho chúng ta con đường nhanh nhất để đạt được sự thành công viên mãn. Cuộc sống dạy cho ta biết cách hoàn thiện chính mình bằng sự dấn thân đóng góp và buông xả. Tùy theo suy nghĩ và sự nhận định của mỗi người mà chúng ta sẽ có những sự đóng góp khác nhau, người kia đóng góp khía cạnh này, người nọ đóng góp khía cạnh khác để làm thành cho nhau.

Tuy nhiên, trong cuộc sống của chúng ta ai cũng cần phải nên biết sự cho và nhận là mối quan hệ, tương quan mật thiết với nhau… Đa số chúng ta chỉ tham lam, ích kỷ để được nhận từ tay của người khác mà không biết cho đi, chúng ta hãy biết giúp đỡ sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống khi có nhân duyên.

Có một người đàn ông bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn mênh mông. Sau nhiều ngày cầm cự với phần lương thực, thực phẩm đã hết ông ta đã mệt lả và đói khát vì không còn nước để uống. Trong suốt thời gian tìm kiếm nguồn nước để uống, ông ta gặp một căn lều và thấy ở đó có một máy bơm nước đã cũ và rỉ sét. Mừng quá người đàn ông vội vã bước tới, vịn chặt vào tay cầm, ra sức bơm, nhưng không có một giọt nước nào chảy ra cả.

Thất vọng quá, người đàn ông mới tìm kiếm chung quanh căn lều. Lúc này, ông phát giác ra một cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi cát trên bình, ông đọc dòng chữ được khắc vào bình:“Hãy đổ hết nuớc trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi chỗ khác, hãy nhớ đổ nước đầy lại vào chiếc bình này”.

Người đàn ông mở nắp bình ra, thấy bên trong đầy nước. Người đàn ông đang rơi vào thế lưỡng lự, nếu ông uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn ông có thể sống sót. Nhưng nếu ông đổ hết nước vào cái bơm, có thể nó sẽ bơm được rất nhiều nước và nhờ vậy mà ông ta có thể cứu được nhiều người.

Người đàn ông đó sau khi đổ nước vào máy bơm xong, bắt đầu nhấn mạnh cái cần của máy bơm với hy vọng là bơm được nhiều nước, ông ta bơm một lần, hai lần rồi ba lần…. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào là có nước, tuy hơi nản lòng vì quá mệt lã, nhưng người đàn ông vẫn kiên trì bơm lên xuống đều đặn, ….bổng nước mát và trong lành bắt đầu chảy ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Người đàn ông mừng quá mới vội vã hứng nước vào bình và uống một cách ngon lành.

Sự cho này hay còn gọi là bố thí được chia làm ba phần: bố thí tiền bạc của cải vật chất, bố thí những lời dạy vàng ngọc của đức Phật và bố thí vô úy tức bố thí sự không sợ hãi. Ba phần bố thí này đều xuất phát từ lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh bình đẳng.

Hiện giờ chúng ta thường bố thí phần tài sản vật chất, nhưng nếu không có tiền thì làm sao bố thí? Phật dạy bố thí tài có hai: một là nội tài, hai là ngoại tài. Chúng ta cần phải hiểu cho tường tận thì việc bố thí giúp đỡ sẻ chia, ai cũng có thể làm được.

Người có tiền của thấy kẻ nghèo đói, ra tay giúp đỡ chia sớt tiền bạc hoặc lương thực, thực phẩm cho họ, đó là bố thí ngoại tài tức là sự cho bằng vật chất.

Nếu chúng ta nghèo khó không có tiền của, thấy người gặp khổ nạn, chúng ta lấy công sức của mình giúp họ qua cơn hoạn nạn, đó là bố thí nội tài tức là cho bằng sự ra công. Một ví dụ khác, nếu quý Phật tử đi đường thấy một miếng thủy tinh bể, chúng ta lượm đem bỏ vào thùng rác để người khác không bị giẫm lên. Hoặc gặp mấy người lớn tuổi đi qua đường khó khăn, chúng ta dẫn các cụ đi qua đường yên ổn, đó là bố thí nội tài tức là đem thân mình ra giúp đỡ người khác.

Như vậy việc giúp đỡ người khác ai cũng có khả năng làm việc bố thí được, chúng ta vì tham lam, ích kỷ nên mới không dám giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên. Trên bước đường tu học chúng ta cần phải khởi tâm từ bi rộng lớn. Từ là ban vui, bi là cứu khổ. Đem niềm vui nhờ tu học Phật pháp cứu khổ cho người, và cho tài vật, như thế ta đang phát khởi tâm từ bi. Hành động bố thí bằng nội tài, ngoại tài là những hình ảnh cụ thể làm cho mọi người tạm thời bớt khổ được vui.

Bố thí pháp là sao? Giảng pháp như quí thầy để cho quý Phật tử hiểu và ứng dụng tu hành là bố thí pháp phải không? Cũng phải, cũng đúng nhưng không hẳn chỉ có quí thầy cô mới làm việc bố thí pháp được. Quí thầy giảng dạy cho Phật tử nghe hiểu Phật pháp, ứng dụng tu hành, làm giảm bớt những phiền muộn đau khổ, đó là bố thí pháp tức là sự cho có hiểu biết.

Khi Phật tử thấm nhuần đạo lý rồi, gặp bạn bè hoặc người thân đang phiền muộn đau khổ, chúng ta đem sự hiểu biết của mình cho họ nghe. Khi họ nghe hiểu rồi thấm nhuần lời Phật dạy, không có buồn khổ nữa, đó là bố thí pháp. Dù người xuất gia hay tại gia, ai siêng năng học hỏi và tu hành, đều có thể bố thí pháp được.

Nhưng chư Tăng Ni có trách nhiệm lớn lao và quan trọng hơn vì đang đi trên con đường Phật đã đi để hướng dẫn lại cho quý Phật tử nên quý thầy nói dễ tin, dễ hiểu hơn. Quí Phật tử tại gia với bộn bề công việc, và bị nhiều áp lực của cuộc sống nên thời gian nghiên cứu Phật pháp không nhiều, do đó nói giúp cho người khác ít tin hơn.

Như vậy bố thí pháp là đem lời Phật dạy, nói cho Phật tử hiểu để rồi từ đó tin sâu nhân quả mà tránh dữ làm lành. Khi quý Phật tử có niềm tin với Phật pháp rồi thì quý vị sẽ bớt phiền muộn khổ đau.

Như quý Phật tử đang gặp hoàn cảnh buồn phiền đau khổ, vô tình có một thầy tới giải thích cho gia đình vị đó hiểu nguyên nhân dẫn đến khổ đau, không ngoài lý nhân quả v.v… ngay khi đó quý vị nghe hiểu phần nào, cũng giảm bớt buồn khổ trong lòng. Đó là chúng ta biết cách bố thí pháp để cứu khổ chúng sinh.

Kế đến là bố thí vô úy tức là sự cho không sợ hãi. Làm sao chúng ta bố thí không sợ hãi? Ai làm người dù ít hay nhiều đều cũng có nỗi sợ hãi trong lòng. Như quý Phật tử sợ chuột, sợ rắn rít, sợ người chết nên tối không dám ngủ một mình. Với người sợ rắn rít chúng ta giải thích rằng những con vật đó không bao giờ dám làm hại ta, ngoại trừ khi ta đạp chúng nó vì bản năng tự vệ nó phải cắn lại. Với người sợ ma, ta phải dẫn kinh giải thích cho họ hiểu, Phật dạy trong lục đạo luân hồi thì ma là loài vô hình phước kém hơn người, nên khó bao giờ hại được ta. Chúng ta là người tức có phước hơn ma quỉ, chắc chắn chúng sẽ không dám làm gì mình. Con người ta sợ hãi là do sự tưởng tượng quá mạnh, nếu ta dừng tưởng tượng bằng cách niệm Phật, Bồ tát thì ngay khi đó không còn sợ hãi nữa. Đó là một sự thật ít ai ngờ tới. Quỉ ma đói khát dật dờ khổ đau, nhờ loài người cúng vái cho ăn nên nó bớt khổ, ngược lại, con người đi sợ ma quỉ, thật là chuyện vô lý. Chúng ta nói cho họ hiểu như thế rồi, họ sẽ bớt sợ hãi khổ đau. Đó là bố thí vô úy tức là sự cho vượt qua mọi sự chướng ngại của sợ hãi.

Thế cho nên, bố thí cúng dường hay giúp đỡ người khác cũng là cách giúp cho ta giải trừ căn bệnh tham lam, ích kỷ và bỏn sẻn. Khi chúng ta đã từng nếm trải những vị cay đắng của cuộc đời, ta hãy đón nhận nó và tìm cách giải quyết chứ không nên trốn chạy hay bỏ mặc. Vì sau những khó khăn đó chính là những cơ hội tốt để chúng ta rèn luyện bản thân. Nhân quả sẽ rất công bằng và kết thúc có hậu với những ai sống có tấm lòng yêu thương chân thật, bằng tình người trong cuộc sống.

Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và biết sống theo lời Phật dạy. Chúng ta cho đi hay giúp đỡ một ai đó với tấm lòng rộng mở, thì sự cho đó như chúng ta gửi tiền vào ngân hàng, tuy thấy dường như không có tiền nhưng khi nào cần, rút ra xài thoải mái.

Chúng ta cho và nhận là để được sống yêu thương với nhau bằng tình người trong cuộc sống, câu chuyện trên giúp cho ta có cách nhìn toàn diện hơn bởi thế gian này là một chuỗi dài nhân duyên nương nhờ lẫn nhau theo nguyên lý tương tức.

Trước khi chúng ta muốn nhận được điều gì, chúng ta hãy cho trước đi! Rõ ràng sự cho này bất kể là thành phần nào trong xã hội, cũng đều có khả năng làm được. Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa hãy cho đi để được nhận lại!

 SỐNG LÀ ĐỂ LÀM TRÒN TRÁCH NHIỆM LÀM NGƯỜI

Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, phần đông không hiểu rõ ý nghĩa của chữ "tu", không hiểu rõ tu để làm gì, cho nên ứng dụng một cách sai lệch, mù mờ thật đáng thương và tội nghiệp làm sao đâu!

Phật không có ở trong thiền viện hay chùa hoặc am thất, không có ở trên non trên núi, không có ở dưới sông dưới suối, không có ở trong rừng trong hang, không có ở cội cây hòn đá. Phật không có ở trong các pho tượng vàng, đồng, xi măng hay trong các tranh vẽ. Những người tự xưng là Phật sống hay còn gọi là vô thượng sư hoặc nói rằng mình là đại diện Phật để dâng sớ cúng sao giải hạn, cầu mong đủ mọi thứ trên thế gian này đều là tà pháp.

 

Hiện tượng thấy một đám mây giống hình người hoặc cội cây, hòn đá có hình dáng đặc biệt, ta liền cho đó là Phật hiện, rồi tuyên truyền vận động mọi người đến để lạy lục, cầu khẩn van xin, đều không phải chính pháp, mà là do chúng ta thiếu hiểu biết và không tin sâu nhân quả, nên mới mê tín dị đoan như thế. Phật, Bồ tát chỉ thị hiện ra đời bằng thân vật chất dưới mọi hình thức là con người hoặc các loài vật có tình thức, như đúng theo tinh thần của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói.

Có người cho rằng tu là phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo nâu sòng, hay áo cà sa, vào ở trong chùa, vào ở thiền viện hoặc ở thâm sơn cùng cốc, tức là phải có hình tướng ông thầy, phải là tu sĩ mới gọi là người tu. Hoặc rộng rãi hơn một chút, có người cho rằng phải biết ăn chay, thường xuyên đi chùa, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, niệm Bồ tát, làm công quả, làm việc chùa giao gọi là Phật sự, mới gọi là người tu. Không làm như vậy thì không phải là người tu.  

Hiểu biết như vậy không hoàn toàn sai, nhưng chúng ta chỉ mới chú ý đến phần "sự", tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài của một người tu mà thôi. Hay nói cách khác, những điều đó chỉ là "điều kiện có" của một người tu, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia, chứ chưa phải là "điều kiện đủ" để thành một người tu thực sự đúng theo nghĩa của đạo Phật.  

Đạo Phật không chú trọng nhiều đến hình thức, hình tướng, nhưng không phải không cần có hình thức, hình tướng bên ngoài. Tuy vẫn cần phải có hình thức, hình tướng bên ngoài, một người tu đồng thời cũng phải có chất lượng, có nội dung bên trong, gọi là phần "lý", cả hai phải được vẹn toàn, phải "lý sự viên dung" mới gọi là tu đúng chính pháp.  

Trước hết nói về phần sự, tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài, chúng ta thảy đều đồng ý là một người tu cần phải có hình thức trang nghiêm thanh tịnh. Nghĩa là một người tu cần phải ăn mặc tề chỉnh, đi đứng đàng hoàng, thái độ chững chạc, cử chỉ khoan thai, nói năng lễ độ, hòa nhã khiêm tốn.

Không ai có thể chấp nhận một người ăn mặc lôi thôi xốc xếch, đi đứng nghiêng ngửa, nói năng hồ đồ, cử chỉ thô tháo, là một người tu chân chính, trừ trường hợp ngoại lệ các bậc thánh nhân thị hiện oai nghi thô tháo. Cũng trong phần sự, nói chung người tu là người ăn hiền ở lành, sống có nhân cách đạo đức, không làm những việc xấu ác có tính cách làm tổn hại người vật, luôn luôn giúp đỡ sẻ chia khi có việc cần đến.               

Một người tu cần phải giữ gìn giới luật oai nghi tế hạnh, tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, tu tập thiền định, đi chùa và làm tất cả mọi công việc đem lại ích lợi cho mình và người, một cách chí công vô tư, không phân biệt, không thành kiến. Chúng ta tạm gọi là một người biết tu tâm dưỡng tánh.

Nếu một người tu chỉ biết lo việc trau chuốt hình tướng, chỉ biết làm những việc hình thức bên ngoài mà nội tâm vẫn bị xáo trộn bởi phiền não tham, sân, si. Một người chỉ biết tu hình thức như vậy, dù có cạo tóc vào ở trong chùa, trong tâm vẫn còn đầy dẫy những tâm niệm xấu ác, chỉ biết học những nghi lễ cúng kiến để làm kế sinh nhai, hoặc làm nghề bói toán, tướng số mà không hiểu ý nghĩa sâu xa lời Phật dạy.

Một số tu sĩ bây giờ làm nghề bói toán, đoán vận mệnh, cúng sao giải hạn, coi ngày tốt xấu, sắp đặt phong thủy và chúng ta thường gặp họ trong các tang lễ, nên gọi họ là "thầy tụng đám ma" vì có sự thỏa thuận tiền bạc. Họ không chịu học hỏi, nghiên cứu tìm hiểu lời Phật dạy chân chính để áp dụng tu tập nhằm chuyển hóa phiền não tham, sân, si thành vô lượng trí tuệ từ bi. Chính vì vậy, ngọn đèn của họ bị lu mờ, cho nên các Tổ thường nói những người như vậy là "tu mù". Một người chỉ biết làm những hình thức như vậy, cho nên càng ở chùa lâu càng đánh mất chính mình, ngoài việc được mọi người cung kính và có lợi dưỡng cao.

Một số người hiểu lầm, khi đến chùa lễ Phật, tụng kinh, cúng kiến hay thọ tam qui ngũ giới, họ nghĩ rằng chắc là từ đây về sau, chư Phật, chư đại Bồ tát sẽ cho mình được bình an, hạnh phúc mọi mong cầu được như ý và cuối cùng, sau khi lìa bỏ cõi đời này, Phật sẽ rước về cõi cực lạc. Những người hiểu như vậy vô tình rơi vào bệnh ỷ lại mà phủ nhận lý nhân quả của đạo Phật.

Khi chúng ta đã biết thế nào là tu tâm rồi, việc kế tiếp là phải cố gắng sửa đổi tâm tính của chúng ta, phải quyết chí chừa bỏ những thói hư, tật xấu, phải chiến thắng những tâm niệm tham lam, sân hận, si mê, phải từ bỏ những lời nói ác độc, ganh tị, đố kỵ, phải vứt đi những hành động xấu xa, gian ác, và sát sinh hại vật.

Một số người thường nghĩ rằng tu là cầu xin với chư Phật, Bồ tát để mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cần thiết và tu theo Phật, thờ cúng Phật, lạy Phật, sẽ được Phật ban cho bình an suốt đời. Do bản chất của con người là tham lam, yếu đuối và sợ hãi, tuy chúng ta có đi chùa lễ Phật, tụng kinh thường xuyên, nhưng khó tránh khỏi những tâm bệnh nói trên vì chúng ta không chịu gieo nhân tốt mà muốn gặt quả thiện lành.  

Chúng ta thường đến chùa chính yếu chỉ để cầu xin bình an, hạnh phúc, khấn vái điều này, van xin điều nọ, mong cầu đủ thứ mà không chịu gieo nhân lành đến khi gặp khó khăn, lâm cảnh khổ nạn, bèn tự kêu lên: "Phật ơi, cứu con với"! Chúng ta chỉ mang đến chùa có một bó nhang, một nải chuối, một bình hoa, đóng góp một ít tiền ấn tống kinh sách, chúng ta cầu nguyện, khấn vái, van xin, đủ thứ chuyện. Nào là thân thể khỏe mạnh, gia đạo bình an, bệnh tiêu tật hết, con cái giàu sang, buôn may bán đắt, tiền vô như nước, tình duyên tốt đẹp, thi đâu đậu đó, tai qua nạn khỏi, vạn sự như ý, quyến thuộc siêu sinh, thân nhân trường thọ, nghĩa là chúng ta mong cầu không thiếu thứ gì. Với sự tham lam cầu nguyện như vậy, chúng ta chỉ một bề van xin mà tự đánh mất chính mình, cuối cùng trở thành “tín đồ” của mê tín dị đoan rơi vào tà kiến.

Vì không chịu tham cứu kinh điển, học hỏi suy xét, quán chiếu lời Phật dạy cho nên chúng ta mới mắc phải những sai lầm như vậy. Chúng ta không có lòng tin sâu đối với nhân quả, nghĩa là chúng ta phải biết làm lành để được phước, và tránh xa việc ác để không phải chịu quả khổ đau. Phật dạy hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp. Phật dạy chúng ta muốn tu tâm dưỡng tánh trước tiên phải tin sâu nhân quả, hãy tự mình quán chiếu, soi sáng lại chính mình để nhìn thấy rõ những tâm niệm sai lầm mà tìm cách chuyển hóa thay đổi theo thời gian, bởi vì, ”giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”.

Chúng ta tu là dẹp bỏ tâm xấu xa độc ác, phát triển tâm từ bi trí tuệ. Tu là điều kiện tất yếu không chỉ dành riêng cho Phật tử mà tất cả mọi người muốn hết khổ được vui đều tu được. Người nào bên trong còn chất chứa những tâm niệm xấu ác, thì sự cầu nguyện được bình yên, hạnh phúc chỉ uổng công vô ích mà thôi.  

Chính vì vậy khi chúng ta hoặc gia đình người thân có chuyện gì xảy ra bất hạnh, họ hết sức tha thiết chí thành, cầu khẩn van xin Phật gia hộ cho được tai qua nạn khỏi. Nếu chẳng may được như ý, thì họ cho là Phật linh thiêng, có khả năng ban phước giáng họa nên họ tiếp tục đi chùa lễ Phật, để cầu khẩn, van xin những nhu cầu cần thiết khác.  

Họ không hiểu rằng do chính mình ăn ở hiền lành, làm nhiều việc tốt đẹp trong quá khứ và hiện tại, cho nên qua được cơn hoạn nạn hiểm nghèo, chứ không phải do cầu khẩn, van xin mà được tai qua nạn khỏi. Bằng như không được toại nguyện, họ dễ dàng sinh lòng trách móc oán hờn, phỉ báng đức Phật không từ bi thương xót, không linh thiêng mầu nhiệm, nên từ đó họ xa rời Phật pháp để tự đánh mất chính mình, làm những điều xấu ác thật đáng thương thay!

Có nhiều người cầu khẩn van xin Phật không có kết quả, bèn đến các lăng tẩm chùa ông, chùa bà hoặc đến chỗ ông lên bà xuống, miểu ông miếu bà, để khấn vái van xin, phó thác con cái bệnh hoạn khó nuôi, xin bùa hộ mạng đeo trong người, xin phép làm ăn một vốn mười lời. Nếu những nơi đó có khả năng làm được như vậy thì coi như thế gian này làm sao có bất hạnh khổ đau, trong khi đó số người thiếu thốn khó khăn, khốn khổ chiếm đại đa số.

Cuộc sống của chúng ta luôn phải đối mặt với những lo âu, bất trắc, hoạn nạn, cho nên ta hay sống trong sự sợ hãi. Khi gặp khó khăn hoặc bị mất mát, chúng ta thường tìm cách nương tựa vào một đấng quyền năng nào đó để cầu khẩn, van xin, mong được sự bảo bọc của bề trên. Trong kinh Phật dạy ngoài tâm cầu Phật tức là ngoại đạo. Bởi vì "Phật tức tâm, tâm tức Phật", ngoài tâm không có Phật, Phật chính là tâm thanh tịnh, sáng suốt ngay nơi thân này. 

Như chúng ta đã biết, đã làm người ai cũng đều có những tâm niệm xấu ác cho nên chúng ta cần phải tu, cần phải sửa, cần phải chừa bỏ như tham lam, sân hận, si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, đố kỵ, tị hiềm, ganh ghét, hơn thua, cố chấp, che giấu, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, dối trá gạt gẫm, lười biếng ăn không ngồi rồi. Chúng ta cần phải chuyển hóa từ bỏ những tâm niệm trên, như vậy mới gọi là người tu chân chính?  

Tục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì các thành viên trong gia đình đều là những người thân yêu, nên mọi việc đều có thể cảm thông và tha thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm sai trái, như cha mẹ thương con, vợ chồng thương yêu, anh chị em vui vẻ thuận thảo với nhau.

Kế đến, khi ra chợ làm ăn mua bán, mà muốn tu thực là không phải dễ, bởi vì những người ở ngoài chợ tập trung nhiều thành phần khác nhau, mua bán giống như làm dâu trăm họ, nếu không khéo một chút thì mất mối! Vô chùa tu lại càng khó hơn, bởi vì giới luật nhà chùa, khắc khe nghiêm ngặt, thường được sự giám sát của các bậc đạo cao đức trọng, sống muốn ít biết đủ, ăn chay và đi ngược lại sự ham muốn của người đời.

Nhưng thực chất tu ở chùa là dễ dàng nhất, bởi vì không phải lo chuyện tính kế sinh nhai, không bận rộn hay bị tiêm nhiễm chuyện thế gian, có thầy lành bạn tốt sách tấn đồng tu. Còn tu tập tại gia là việc khó khăn nhất, bởi vì người trong gia đình quá quen thuộc, cho nên dễ lờn mặt, khó tu khó sửa, tình cảm luyến ái nặng nề, không người nhắc nhở, khuyến khích tu tập, do đó mà bụt nhà không linh, không thiêng là vậy đó.

Hơn nữa cuộc sống thế gian của người tại gia, đủ thứ cám dỗ, và rất nhiều cái bẫy đang giăng sẵn chực chờ nào là bẫy tiền tài, bẫy danh vọng, bẫy sắc đẹp, bẫy ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều, vã lại với đủ thứ phiền não, khổ đau cuộc đời, suốt ngày bận rộn với công kia việc nọ, không có thời giờ, thì thử hỏi làm sao tu được? 

Tu chợ so với tu nhà thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ chừng một tiếng đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ năm ba ngày, tu ngoài chợ chỉ cần nhỏ nhẹ, tế nhị, bán đúng giá thuận mua vừa bán, thường thì người mua dễ bị lầm hơn.

Vậy theo quan niệm nào mới thật sự là đúng? Thật ra mỗi chỗ mỗi nơi đều có cái khó riêng của nó, ai có duyên tu trong điều kiện nào thì chỗ đó là số một. Tu chợ, tu tại gia rất cần thiết cho đại đa số quần chúng bởi vì nó là nhân tố nền tảng đối với gia đình và xã hội. Nói tóm lại, bất cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó, chúng ta phải cố gắng tu vì đó là quyền lợi của bản thân, mình không biết tu thì sẽ gánh chịu hậu quả khổ đau, tu được thì mình sẽ an lạc, hạnh phúc!

Phật dạy yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ. Nhờ có khổ như vậy nên chúng ta mới đến chùa tìm hiểu học hỏi, mong sao để được hết khổ. Nhưng phần đông rơi vào tình trạng lấy cảnh chùa làm nơi trốn tránh cuộc đời, trốn tránh trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân.

 

Cuộc sống thế gian có quá nhiều đau khổ nay mình biết chùa muốn tu, muốn dứt bỏ gia đình người thân, nhưng không ai cho phép? Nhiều người muốn vào chùa thọ bát quan trai một ngày một đêm nhưng gia đình không cho phép.

Ở đây chúng đang thấy một sự thật, vì mỗi khi trong gia đình có sự bất hòa thì phần lỗi ít nhiều gì đó đều do hai bên, không biết thông cảm cho nhau, không thực sự thương yêu nhau.

 

Tu học là nhằm mục đích để tỉnh thức, nhận ra những điều sai lầm mà trước đây mình không hề hay biết. Ai cũng muốn thương và được thương yêu một cách bình đẳng. Ngày nay, vợ chồng ly dị là chuyện thường. Sống chung mà không biết thương yêu nhau, chỉ làm khổ nhau thì tốt hơn là nên ly dị. Nhưng nhiều khi ly dị xong ta lại cảm thấy cô đơn, muốn đi tìm một người tình khác để yêu, để cưới và để rồi lại ly dị. 

 

Nhiều lúc khổ quá, muốn đi tu, nhưng tu làm sao cho yên khi tình cảm dành cho nhau vẫn còn ướt át? Và chúng ta nên nhớ tu không phải là dứt hết tình nghĩa, mà là thay đổi quan niệm sống để không quá bi lụy trong tình yêu. Nếu chúng ta dứt hết tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như vậy vô tình ta ví mình như gỗ đá chăng?

 

Tu là sửa, là chuyển, là thay đổi. Từ đau khổ chuyển thành an vui, từ tình thương yêu ích kỷ, thành tình thương yêu bình đẳng, vị tha. Vào chùa học đạo mà chỉ biết thương Phật tượng, Phật gỗ mà không biết thương yêu kẻ khác thì đó chưa phải là người tu chân thật. Phật là người đại từ, đại bi thương tất cả chúng sinh một cách bình đẳng mà không phân biệt thân hay sơ.

 

Cuộc sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với uống để bảo tồn mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển giống nòi nhân loại. Từ đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia đình mình, đất nước mình, người có quyền cao chức trọng nếu không tin sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng phí, gây thiệt hại trầm trọng tài sản của chung.

 

Có khi nào trong cuộc sống với bộn bề công việc, ta biết dừng lại để tự hỏi chính mình sinh ra đời để làm gì? Chắc chắn ai cũng nói rằng để lập gia đình, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường? Ðể gầy dựng sự nghiệp tương lai cho bản thân và gia đình? Từ quan niệm đó chúng ta chạy theo tiền tài, danh lợi, địa vị, tình yêu, sắc đẹp, của cải, và ăn sung mặc sướng!

 

Thật chất ta lớn lên lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm nhục dục hay lấp vá khoảng trống cô đơn, mà là để học sự thương yêu và biết cách hòa hợp khi sống chung với nhau trong một mái ấm gia đình. 

Tất cả mọi người trên thế gian này ai cũng phải điều biết "tu tâm", nghĩa là chúng ta chừa bỏ những tâm niệm xấu ác có tính cách làm tổn hại cho người và vật. Nhờ vậy, chúng ta ngày càng mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn, để san sẻ nỗi khổ niềm đau, làm vơi bớt sự bất hạnh và sống tốt hơn, bằng tình người trong cuộc sống.

Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thân và gia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy. Chúng ta đã gieo nhân trước kia thì giờ đây gặt quả, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, kết quả tốt hay xấu khi hội đủ nhân duyên quả báo liền đến.    

Chúng ta tu để làm gì? Và tu như thế nào để cho được an vui, hạnh phúc? Người đời làm việc xấu ác, vì không tin tâm mình là Phật. Con cái không hiếu thảo cha mẹ, vì không tin sâu nhân quả. Trẻ em không chịu vâng lời thầy cô giáo chỉ dạy, không siêng năng chăm chỉ học hành, vì chẳng biết tu tâm. Gia đình sống không vui vẻ thuận thảo, không biết kính trên nhường dưới, vì chẳng biết tu tâm. Xã hội hay nói nặng, mắng chửi kiện cáo nhau vì chẳng biết tu tâm. Thế giới đấu tranh tham lam giành giựt giết hại lẫn nhau, vì chẳng biết tu tâm.

 

Phật tử tu hành hay bị thối chuyển, bởi vì hay cầu khẩn van xin không tin tưởng chính mình ỷ lại vào bên ngoài. Mọi người ai cũng có khả năng nhận diện tâm qua sự xúc chạm thấy nghe hay biết, mới có thể trở nên hiền từ, sống chân thật, đạo đức và biết giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống.

 

Gia đình người thân biết tu tâm, thì mới được bình yên, an vui, hạnh phúc. Xã hội có tu tâm, thì đất nước mới an cư lạc nghiệp trên tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Thế giới ai cũng biết tu tâm, thì mọi người sống trong hòa bình. Phật tử biết tu tâm, mới mau vượt qua biển khổ sông mê. Và Phật dạy không thấy ai là kẻ thù chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi, cho nên chúng ta phải bình đẳng thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bằng trái tim hiểu biết.

 

Một người biết làm lành, tránh xa những điều xấu ác thì người ấy trở nên hiền từ và đức độ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì mọi người đều được bình yên, hạnh phúc. Cả nước đều tránh giữ làm lành thì tất cả mọi người đều sống trong an lạc thái bình. Hết thảy mọi người đều tránh dữ làm lành, thì chúng ta sẽ sống trong thế giới đại đồng, hưởng trọn vẹn niềm vui cực lạc.      

 

Trong cuộc sống của chúng ta ai cũng mong cầu hạnh phúc nên suốt đời cứ mãi tìm kiếm để vượt qua hai điều thiếu thốn: Thứ nhất là thiếu thốn về vật chất và thứ hai là thiếu thốn về tinh thần. Người thiếu thốn về vật chất thì cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, có khi không nhà cửa hoặc có thì với túp lều lụp sụp, thân phải khổ sở nhọc nhằn làm thuê làm mướn, đầu tắt mặt tối mà nợ nần vẫn chồng chất.

 

Người thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, ích kỷ, gian xảo, dối trá, ganh ghét tật đố, lường gạt, đầu trộm đuôi cướp gây ra nhiều tội lỗi làm tổn hại đến gia đình người thân và xã hội. Thế gian con người chi lo thiếu thốn về vật chất, mà ít ai nghĩ ngợi và lo lắng đến tinh thần!

 

Tâm là "cái hiểu biết phân biệt tốt xấu, đúng sai", hay gọi là phần tinh thần. Tâm không có hình tướng dài, ngắn, vuông, tròn, hay có màu sắc xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, nâu. Chúng ta không thể dùng con mắt mà thấy được tâm; cũng không thể dùng tay chơn sờ mó rờ đụng được tâm; chỉ thấy cái tác dụng của nó qua mắt tai mũi lưỡi thân ý, nên biết có tâm.

 

Cũng như "điện", người ta không thể thấy nghe hay rờ mó được điện; chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện. Như cho điện vào bóng đèn thì thấy đèn sáng, cho điện vào quạt thì thấy quạt xoay, cho điện vào bàn ủi thì thấy nóng, cho điện vào tủ lạnh thì thể lỏng đông đặc lại v.v…. Chính vì vậy mà người ta biết là có điện. Tâm Phật chúng ta cũng lại như thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe hay biết mà không dấy niệm phân biệt tốt xấu, đúng sai v.v… nên chúng ta biết có tâm.

 

Nhưng tâm chia ra làm hai phần: Tâm chơn còn gọi là tâm thường biết rõ ràng, tâm vọng còn gọi là tâm phân biệt hư dối. Tâm chơn thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay ý thức suy nghĩ mà được, chỉ thấy nghe hay biết mà không vọng động, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó. Tâm vọng hư dối là hay suy nghĩ phân biệt tốt xấu, đúng sai, ta người…..

 

Con người muốn bảo tồn mạng sống và được tái sinh trong ba cõi sáu đường hoặc được giác ngộ, giải thoát viên mãn, thì phải biết kết hợp giữa thân và tâm. Chúng ta muốn thân hành động đúng đắn có lợi ích cho nhiều người thì tâm phải biết đạo diễn đi theo chiều hướng thượng mới giúp ta biết cách làm chủ bản thân.

 

Chúng ta làm chủ bản thân qua suy nghĩ cho đến lời nói rồi dẫn đến hành động tốt là nhờ sự tỉnh giác, nên ta có thể cảm nhận được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 

TU LÀ ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH MÌNH

 Chữ “tu” có lẽ là một chữ đã có từ lâu lắm trong danh từ của người Trung Hoa và Việt Nam. Thế mà cho đến ngày nay rất còn nhiều người, cả trong giới Phật tử lẫn người ngoài còn quan niệm chữ “tu” một cách mập mờ, lệch lạc...  Ít ai hiểu được chữ tu một cách đúng đắn, toàn diện. Người đứng ở khía cạnh này của chữ “Tu” công kích người đứng ở khía cạnh kia, người cho mình tu như thế này là đúng, kẻ khác bảo như thế là sai. Người này cho rằng quan niệm của mình là phải, kẻ nọ cho rằng như thế là quấy, ai cũng giữ quan điểm của mình nên sinh cãi vã tranh chấp, cuối cùng không ai biết đâu là phải trái, đâu là chánh tà, đâu là hay dở, đâu là tốt xấu, đâu là đúng sai….

 Để cho tất cả mọi người có một ý niệm đúng đắn, toàn diện, rõ ràng về ý nghĩa chữ tu, quý Phật tử sẽ nhìn thấy một cách tổng quát, và lựa chọn một pháp tu thích hợp với mình là “Biết chọn đường tu”. Người Phật tử trên con đường tu học có thể biết rõ được ai là kẻ đang lầm đường lạc lối, ai là người đi đúng con đường Phật đạo.

 Tu là một tiếng có nguồn gốc chữ Hán, dịch nghĩa thông thường là “sửa” tạm gọi đầy đủ là tu sửa. Tu có ba phương diện: tu tâm, tu thân và tu bổ. Nghĩa chữ “Tu” rất rộng, có thể áp dụng cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Đã nói là “sửa” thì bất luận những cái gì xấu xa hư dở đều phải sửa đổi lại cho được tốt đẹp.

 Sửa cái dở thành hay: Như bỏ hút thuốc, cờ bạc, rượu chè, đàng điếm, hưởng thụ quá đáng, biết điều hòa cho có chừng mực trở lại gọi là tu. Thuở còn nhỏ chúng ta làm gì biết hút thuốc, uống rượu, lớn lên chúng ta mới bắt chước tập tành lâu ngày trở thành thói quen. Bây giờ chúng ta đã học hỏi Phật pháp biết đó là hư dỡ, tốn tiền làm tổn hại đến gia đình người thân, chúng ta quyết chỉ chí chừa bỏ nhờ vậy gia đình đảm bảo được an sinh đời sống mà ngày càng sống tốt hơn.

 Sửa xấu thành tốt: Như chúng ta chừa bỏ sát sinh hại vật, gian tham trộm cướp lường gạt của người khác, trốn thuế, quảng cáo sai sự thật, cân non, đong thiếu, nói dối hại người trở lại thành chân thật, bố thí, giúp đỡ sẻ chia với tất cả mọi người là tu. Khi chưa gặp Phật pháp chúng ta làm đủ thứ điều xấu xa tội lỗi nhằm mục đích vơ vét về cho riêng mình, gia đình mình, bằng nhiều thủ đoạn. Nay ta biết tu rồi chẳng những không lường gạt của người khác mà ta còn tìm cách giúp đỡ, sẻ chia khi gặp những mãnh đời bất hạnh.

 Sửa tà theo chánh: Như bỏ mê tín, dị đoan, xin xăm, bói quẻ, coi tướng coi tay, xem phong thủy tốt xấu, đốt giấy tiền vàng mã, ông lên bà xuống, trở về với Phật pháp chân chính tin sâu nhân quả, làm lành hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là tu. Phật pháp giúp cho chúng ta thấu hiểu rõ ràng về lý nhân quả, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, chỉ có những người vì quá tham lam nên mong cầu đủ thứ, chính vì vậy họ ỷ lại vào Phật, Bồ tát mà cầu khẩn van xin để rồi đánh mất chính mình.  

 Sửa quấy trở lại phải: Như con cái bất hiếu với cha mẹ, anh em không sống vui vẻ thuận thảo với nhau, vợ chồng bất hòa, trở lại biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, biết kính trên nhường dưới, biết cảm thông và tha thứ cho nhau, là tu. Ngày xưa khi chưa biết tu ta không biết thúc liễm thân tâm để cho ý nghĩ xấu chi phối rồi phát sinh ra lời nói gian dối mà dẫn đến hành động không tốt để làm hại gia đình, người thân.

 Sửa vọng thành chơn: Như bỏ thói quen điêu ngoa xảo trá, gian dối lường gạt hại người trở lại sống với tâm chân thật, là tu. Tâm chân thật được hiển lộ qua sự thấy và nghe, khi thấy chỉ là thấy mà vẫn thường biết rõ ràng mọi hình ảnh sự vật, màu sắc xanh, trắng, đỏ, vàng. Khi nghe chỉ là nghe mà không dính mắc vào âm thanh lớn nhỏ, dễ chịu hay không dễ chịu nhờ vậy ta luôn sống với tính nghe thường hằng.

 Sửa phiền não thành Bồ-đề: Như chừa bỏ tham lam, ích kỷ, sân giận, si mê, ganh ghét tật đố, thù hận trở lại thành vô lượng trí tuệ từ bi giúp người cứu vật bằng tình người trong cuộc sống cho đến khi giác ngộ giải thoát, là tu.

Trong thời khoa học, văn minh và vật chất thịnh hành con người khó mà tu vì bộn bề công việc, áp lực cuộc sống nặng nề bởi nhu cầu ngày càng nhiều? Người nói như vậy nghĩ rằng, chỉ trong thời đại hoang sơ, lạc hậu con người ta mới dễ tu, thật ra con người càng văn minh, tiến bộ càng phải tu nhiều hơn, nếu không sẽ đánh mất chính mình mà làm thiệt hại cho người khác. Mặc dù, vật chất càng thịnh con người càng khó tu, chính vì vậy chúng ta càng phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn, để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Vật chất càng phát triển mạnh, thì tinh thần cần phải được ổn định bằng cách tin sâu nhân quả, tin chính mình là Phật, nhờ vậy ta biết điều hòa chừng mực mà không bị dòng đời cuốn trôi.

 Rồi có người quan niệm rằng già mới tu, chứ còn trẻ phải vui chơi hưởng thụ tu chi cho khổ? Họ xem nhà chùa như một nhà dưỡng lão, dành riêng cho ông già, bà cả hoặc cho những người lỡ vận, lỡ thời, sa cơ thất thế. Họ cho rằng tu hành là để an hưởng cảnh già trong khi chờ chết, chứ người trẻ tu làm gì, để ở ngoài đời hưởng thụ không sướng sao? Họ không ngờ rằng, người già hay trẻ gì cũng cần phải tu hết, trẻ mà biết tu thì sống có nhân cách đạo đức, nhờ vậy làm tròn trách nhiệm bổn phận đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

 Có nhiều người còn quan niệm rằng chỉ có những người tật nguyền, bệnh hoạn, côi cút mới tu, chứ còn khỏe mạnh, làm ăn được mà tu cái gì? Chúng ta nói như thế, vô tình cho rằng nhà chùa là một bệnh viện, một nhà tế bần để cho những kẻ bị đời sa thải, vào chùa để nương nhờ tấm thân. Họ không ngờ rằng tu là rất cần thiết cho tất cả mọi người, vì chúng ta biết tu nên không bao giờ giết hại, trộm cướp, lường gạt, nói dối để làm hại người khác bằng nhiều hình thức.

Tu là phải xuất gia như chư Tăng ni mới đúng, chứ còn ở tại gia mà tu cái gì? Những người nói như thế vô tình hiểu lầm rằng tu chỉ dành riêng cho người xuất gia thôi! Tu có nghĩa là sửa, sửa xấu thành tốt, sửa sai thành đúng, chúng ta sửa được càng nhiều chừng nào thì mình càng được bình yên, hạnh phúc, có thiệt hại gì cho ai đâu?

 Người đời, dù sống trong hoàn cảnh nào, ai cũng mong muốn làm sao mình được an vui, và bình yên hạnh phúc. Chính vì vậy mà ai cũng cần phải tu hết. Chúng ta không những lo tu dưỡng thân tâm, mà còn phải lo tu bổ sửa sang lại nhà cửa, gieo trồng vun xới lại ruộng vườn hoang phế, sửa chữa lại đường sá cầu cống hư sập... vv, như thế đều gọi chung là “Tu” cả. Tóm lại, mỗi cá nhân, bất luận lớn bé, già trẻ, trai gái, giàu nghèo, sang hèn, đều phải lấy việc rèn luyện thân tâm, sửa sang lại những vật sở hữu vật chất liên quan đến đời sống con người.

 Có nhiều người nói: “Đã tu rồi, sao còn bệnh đau uống thuốc?” Người tu theo đạo tiên thường phô trương rằng họ có phép thuật trường sanh bất tử, dùng sức nội công, luyện thần khí làm cho thân không già, không bệnh và sống lâu. Xưa nay chúng ta chỉ nghe nói như thế, chứ chưa thấy ai tu tiên mà sống trên 120 tuổi.

 Nhưng theo lời Phật dạy thì thân này là giả tạm, vô thường không thật có, đủ duyên thì sống thọ làm lợi ích cho nhiều người mà không quan trọng tuổi tác. Điều quan trọng là dù sống một ngày mà làm lợi ích cho nhiều người hơn sống 100 năm mà chẳng giúp gì được cho ai. Mọi sinh vật trên đời đều phải đi theo quy luật sanh, già, bệnh, chết. Chính xác thân của đức Phật cũng không vượt ra ngoài bốn trạng thái ấy, nên ngài đã vào Niết bàn năm 80 tuổi, huống chi là những người thường như chúng ta?

 Rồi cho đến một số Phật tử, cho rằng pháp môn tu của mình là số một đúng theo lời Phật dạy, còn bao nhiêu pháp môn của người khác là thấp, là sai.Người tu theo pháp môn tịnh độ, họ cho cho rằng đúng chánh pháp và tu như thế thì Phật A Di Đà mới rước về cõi tây phương cực lạc. Người trì chú cho rằng pháp môn của họ là tối thắng nên bài xích các pháp môn khác. Người tu thiền thì nói đó là gốc của đạo Phật, còn bao nhiêu pháp môn khác đều vô bổ, chẳng đưa đến đâu cả. Người tu theo hạnh Bồ-tát làm việc lợi tha, từ thiện xã hội,... vv, cho như thế mới là tu, và phản đối các lối tu khác.

 Các quan niệm, thái độ trên đều là hiểu theo kiểu phiến diện hẹp hòi, vì chưa hiểu rốt ráo mục đích của đạo Phật. Chúng ta phải hiểu đạo Phật tùy bệnh cho thuốc, chúng sinh vì nhiều bệnh nên Phật cho thuốc hợp với bệnh đó, tất cả phương pháp đều là phương tiện ban đầu để từng bước giúp ta đến chỗ giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, giống như nước trăm sông đều đổ về biển cả. 

 Rồi có nhiều người cho rằng tu sẽ làm cho con người nhu nhược, yếu đuối dễ bị người ta lấn áp, bóc lột, nếu ai cũng tu, thì sẽ mất nước. Nói như thế chúng ta vô tình người tu chẳng khác nào cục đất, ai muốn làm gì thì làm. Thật ra, càng tu càng sáng suốt đâu có phải là khiếp nhược, yếu đuối, mà trái lại là hùng dũng phi thường. Phật giáo đời Trần là một minh chứng hùng hồn có một không hai trong thế giới loài người, đã bao lần đánh tan quân xâm lược ngoại bang.

 Một gia đình có tu thì kính trên nhường dưới, anh chị em sống vui vẻ  thuận thảo với nhau, cùng san sẻ giúp đỡ cho nhau. Trái lại, một gia đình thiếu tu, thì cha mẹ thường xung đột bất hòa gây tranh cãi chửi mắng đánh đập nhau, con cái bơ vơ, anh em ly cách, chồng vợ chia lìa. Một xã hội có tu, thì dân chúng được an cư lạc nghiệp, nhà không cần đóng cửa, của rớt ngoài đường không mất, mọi người đều giúp đỡ lẫn nhau và sống vui vẻ hài hòa. Trái lại, một xã hội không tu thì trộm cướp hoành hành, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giàu bóc lột nghèo, tệ nạn xã hội tràn lan, nước nhà loạn lạc.

 Vấn đề tu rất quan trọng, cho nên ai cũng phải tu, bất luận là tôn giáo hay thể chế chính trị nào. Đã sống làm người là phải tu, để chúng ta sống làm việc và hòa hợp, nhờ vậy giảm bớt việc làm tổn hại cho nhau. Vậy chúng ta muốn gia đình hạnh phúc, đất nước hòa bình an lạc thì chúng ta cần phải biết tu dưỡng thân tâm.

 Pháp môn của Phật nhiều không kể xiết, thì sự tu hành của người Phật tử cũng tùy theo tâm tư nguyện vọng, hoàn cảnh khác nhau. Chúng tôi sẽ tuần tự nói đến các lối tu, từ thấp đến cao của người Phật tử. Trước tiên là quy y, thọ giới, thờ Phật, lạy Phật, cúng Phật, ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, sám hối, làm chùa, tạo tượng, đúc chuông, bắc cầu, làm đường, bố thí... vv, làm các việc này đều gọi chung là tu cả.              

Thân và tâm liên quan mật thiết với nhau, ý suy nghĩ rồi mới phát ra lời nói kế đến là thân mới hành động, nếu đi theo chiều hướng tốt đẹp thì giúp người cứu vật, ngược lại làm tổn hại chúng sinh. Chính vì vậy chúng ta phải cẩn trọng trong việc đối nhân, xử thế, sao cho được hài hòa niềm nở một cách chân thành… đều gọi là biết cách tu hành trong cuộc sống.

 

Tu hành là một việc quan trọng nhất của đời người, nếu thiếu tu con người sẽ tranh giành giết hại lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Quần áo rách ta đem vá lại, đồ vật trong nhà hư hỏng ta đem ra sửa lại. Bất kể là những gì liên quan đến đời sống chúng ta nếu hư ta đều phải tu sửa lại. Huống hồ là những ý nghĩ xấu rồi phát sinh ra lời nói cho đến hành động sai phạm, lầm lỗi của con người thì chúng ta càng phải tu sửa lại không cho niệm xấu ác dấy lên, để làm hại người khác.                

  

Thích Đạt Ma Phổ Giác

 

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin