Chi tiết tin tức Mười hai đại nguyện của Đức Phật Dược sư 16:28:00 - 04/06/2024
(PGNĐ) - Đức Phật Dược Sư (nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru) được tin là một vị Phật ở phương Đông. Tên của Ngài nghĩa là “vị thầy có năng lực chữa lành vết thương và chứng nghiệm thể tính sáng trong như ngọc lưu ly”, Hán dịch là “Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai”.
HÌNH TƯỢNG ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ Bản tiếng Sanskrit của Kinh Dược Sư đã được phát hiện tại vùng Tây Bắc Ấn Độ, mà xưa kia là nước Gandhāra có niên đại từ thế kỷ VII, chứng tỏ niềm tin vào Đức Phật Dược Sư đã thịnh hành ở Ấn Độ trong thời kỳ thịnh trị của Phật giáo. Trong Kinh Dược Sư (bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Huyền Dung, dịch từ bản Hán Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu về Đức Phật Dược Sư như sau: Ở phương Đông, cách đây hơn mười căn dà sa, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Đức giáo chủ cõi ấy hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạt Già Phạm. Đức Phật Dược Sư thường được miêu tả ở tư thế ngồi kiết già, tay trái cầm một bình lưu ly, tay phải đặt trên đầu gối phải. Hoặc có khi tay Ngài giữ cuống quả Aruna hoặc Myrobalan giữa ngón tay cái và ngón trỏ. Trong kinh, Ngài được miêu tả có ánh sáng chiếu soi giống như ánh sáng của ngọc lưu ly. Trong miêu tả theo truyền thống Trung Quốc, Ngài có một ngôi tháp, tượng trưng cho mười ngàn vị Phật của ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Hai vị thượng thủ Bồ tát theo hầu Ngài là Nhật Quang Biến Chiếu (Suryaprabha) và Nguyệt Quang Biến Chiếu (Candraprabha). Hiện nay, ngoài bản bằng tiếng Sanskrit, Kinh Dược Sư còn tồn tại trong Tạng điển: tựa đề là: འཕགས་པ་བཅོམ་ལྡན་འདས་སྨན་གྱི་བླ་བེེ་ཌཱུརྱའི་འོད་ཀྱི་སྔོན་གྱི་སྨོན་ལམ་གྱི་ཁྱད་པར་རྒྱས་པ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa bcom-ldan-ḥdas sman-gyi bla-bai-ḍūryaḥi ḥod-kyi sṅon-gyi smon-lam-gyi khyad-par rgyas-pa shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo: Thánh Bạc-già-phạm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Sai Biệt Quảng Đại Đại Thừa Kinh (聖薄伽梵藥師毗琉璃光本願差別廣大大乘經), được lưu trữ trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng. Trong kho tàng Hán tạng, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có đến 4 bản dịch: (1) Phật thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh 佛說藥師如來本願經, đời Tuỳ, ngài Dharmagupta (Đạt-ma Cấp-đa) dịch năm 615; (2) Phật thuyết Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh藥師琉璃光如來本願功德經, Đại Đường, Huyền Trang dịch năm 650; (3) Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh 藥師琉璃光七佛本願功德經, 2 quyển, Đại Đường, Nghĩa Tịnh dịch vào năm 707; (4) Phật thuyết Quán Đảnh Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử Đắc Độ Kinh quyển đệ thập nhị 佛說灌頂拔除過罪 生死得度經卷第十 二 , Đông Tấn, Thiên Trúc Tam Tạng Bạch-thi-lê-mật-đa-la dịch. ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ Ý NGHĨA VIỆC NIỆM DANH HIỆU ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ Mười hai đại nguyện này của Đức Phật Dược Sư có thể phân thành 3 loại lớn: Tổng hợp lại mà nói, mười hai nguyện này cơ bản hàm chứa tất cả sự theo đuổi mọi dục vọng từ sắc thực đến tinh thần của con người, tức ước vọng về vật chất và tinh thần; có thể nói mọi nhu cầu đều được thỏa mãn. Song thoả mãn không phải để đắm chìm trong thế giới vật chất mà để tu tập giải thoát, giác ngộ. Chúng ta tụng kinh, hàng ngày huân tập tư tưởng quảng đại từ bi, ước mong thể nhập vào biển đại nguyện của Đức Phật Dược Sư. Tập sống như Ngài, mỗi niệm mỗi niệm mong đem hạnh phúc an vui cho quanh mình, chẳng còn có sợ những khổ ác thú. Nguyện từ nay gánh vác hết thảy hữu tình, làm việc nghĩa lợi nhiêu ích an vui. Kinh Lăng Nghiêm nói rằng: “Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn chạy thì mẹ dẫu nhớ có làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau quyết định thấy Phật”. Việc niệm Phật nói chung, niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư nói riêng, không chỉ có ở trong truyền thống Đại thừa mà đã hiện diện trong kinh tạng Nam truyền. Trong Kinh Tăng Chi, chương Một pháp, phẩm Một pháp có nói: “Có một pháp, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật.” Một bản kinh khác, Kinh Trì Trai (số 202, Trung A Hàm, tương đương Kinh Visàkhà-sutta, Tăng Chi Bộ), cũng đề cập đến pháp môn niệm Phật, là một trong năm pháp tu tập hỗ trợ với Thánh trai tám chi (Bát quan trai giới). Kinh này cho thấy nhờ niệm Phật mà tâm được tĩnh và tất cả mọi tâm lý bất thiện đều được tiêu diệt, được nói cho cư sĩ Tỳ Xá Khư, khi Phật đang trú tại nước Xá Vệ, trong Đông viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường. “Này cư sĩ! Đa văn Thánh đệ tử khi trì trai niệm tưởng Như Lai rằng, Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham nếu có liền bị tiêu diệt. Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có cũng bị diệt. Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Như Lai cho nên tâm tĩnh, được hỷ, ác tham lam nếu có liền bị diệt, pháp tạp uế, ác bất thiện nếu có cũng bị tiêu diệt”. Pháp niệm Phật là một pháp rất đơn giản nhưng mở ra vô số diệu dụng, do vì lẽ đó nên pháp hành này có những yêu cầu rất cao. Một trong những yêu cầu cơ bản và quan trọng của pháp này là việc niệm Phật thường được tu tập (bhāvito), được làm cho sung mãn (bahulīkato). Sự an tịnh (upasamāya) của thân tâm sở dĩ có được là do hành trì pháp này đến mức chuyên nhất. Theo Vô tỷ pháp, thì thuật ngữ bahulīkata còn mang nghĩa là Định. Do vậy, khi niệm Phật đến mức sung mãn, chuyên nhất cũng chính là đạt tới Định. Như vậy, việc niệm Phật chuyên nhất mở ra vô số diệu dụng, từ chữa lành bệnh tật, đầy đủ thức ăn… cho đến giác ngộ, Niết bàn. Sở dĩ hành giả trì niệm danh hiệu của Đức Phật Dược Sư, nhưng chưa thực sự tu tập (bhāvito), chưa được sung mãn (bahulīkato), thế nên vẫn chưa nhận được kết quả như mong muốn. Cổ đức có dạy: “Bình thường tâm thị đạo”. Tâm bình thường có thể ví như lưu ly. Tâm bất thường thì chạy theo vọng tưởng. Tâm bình thường thì trong không chấp ngã hay chấp pháp. Ngoài không bị kiến hoặc đánh lừa. Trong danh hiệu của Đức Phật Dược Sư, Quang nghĩa là sáng suốt, là ánh sáng trí tuệ thuộc tinh thần không có hình tướng. Trong khi niệm danh hiệu Ngài, hành giả nghe âm thanh rõ ràng không mờ, từng tiếng minh bạch là tánh giác sáng tỏ. Nếu nghe không rõ, thì hoặc bị hôn trầm, hoặc đã vướng vào một trần cảnh nào khác. Tánh nghe chính là tánh giác ở khắp pháp giới. Nghe rõ tiếng niệm tức là ngay lúc ấy, ta đã trở về tánh thể. Tánh này đồng với chư Phật và dĩ nhiên đồng với đức Dược Sư Lưu Ly Quang. Niệm danh hiệu Ngài để tự nhắc tâm mình, tâm Phật vẫn thường trụ ở khắp mười phương không rời nhau. KẾT LUẬN
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |