Chi tiết tin tức

Quăng bỏ nó đi

20:32:00 - 08/08/2025
(PGNĐ) -  Một nữ giáo sư, sau khi nghe Luang Pu thuyết pháp về việc thực hành Pháp, đã hỏi ngài về cách thích hợp để “chịu đựng đau khổ”.

Cô nói tiếp: “Ngày nay, mọi người không chịu đựng đau khổ theo cách đúng đắn hoặc theo khuôn mẫu chung, mặc dù vua Rama VI đã thiết lập một tiêu chuẩn tốt trong thời trị vì của nhà vua. Khi một người thân trong gia đình trực hệ hay một vị trưởng thượng trong gia tộc từ trần, nghi lễ thương khóc để tang là 7 ngày, 50 ngày, hay 100 ngày. Nhưng bây giờ, người ta không theo khuôn mẫu nào cả. Vậy con muốn hỏi ngài: Cách nào là đúng để chịu đựng đau khổ?”.

Luang Pu trả lời: “Đau khổ là điều để được hiểu rõ. Khi cô hiểu nó, cô buông bỏ nó đi. Tại sao cô lại muốn đeo nó?”.

Một sự thật tương ưng với sự thật

Một phụ nữ Trung Hoa, sau khi đảnh lễ Luang Pu, đã hỏi ngài, “Con phải dọn nhà tới quận Prakhonchai ở tỉnh Buriram để mở một tiệm gần thân nhân của con ở đó. Vấn đề là, thân nhân của con đã khuyên con là nên bán thứ này, thứ kia và thứ khác trong cửa tiệm, theo ý họ là những món hàng sẽ bán chạy, nhưng con không thể quyết định nên bán thứ gì tốt. Vì vậy, con đến để xin lời khuyên của ngài về những gì tốt cho con để bán”.

Luang Pu trả lời: “Bán gì cũng được, miễn là có người mua”.

Đó không phải là mục đích của ngài

Vào ngày 8 tháng 5-1979, một nhóm gồm mười sĩ quan quân đội trở lên đã đến tỏ lòng tôn kính với Luang Pu khá muộn vào buổi tối trước khi lên đường đến Bangkok. Có 2 vị trong nhóm có cấp bậc trung tướng. Sau khi nói chuyện với Luang Pu một lúc, các sĩ quan lấy những chiếc bùa hộ mệnh đang đeo quanh cổ ra và đặt vào một cái khay để Luang Pu ban phước bằng sức định của ngài. Ngài đã làm như họ muốn, và sau đó trả lại bùa hộ mệnh cho họ. Một vị tướng hỏi ngài: “Con nghe nói ngài đã làm nhiều bộ bùa hộ mệnh. Bộ nào trong đó nổi tiếng?”.

Luang Pu trả lời: “Không cái nào trong đó nổi tiếng cả”.

Những thế giới cách biệt

Một nhóm ba hay bốn thanh niên từ một tỉnh xa đến gặp Luang Pu khi ngài đang ngồi trên hàng hiên của hội trường. Bạn có thể biết từ hành vi của họ - theo cách họ ngồi và nói chuyện thoải mái - rằng có lẽ họ đã quen với một nhà sư lừa đảo ở đâu đó. Trên hết, họ dường như tin rằng Luang Pu quan tâm đến bùa chú, vì họ kể cho ngài nghe về tất cả các nhà sư [Thái Lan] Mật tông vĩ đại đã ban cho họ những lá bùa có sức mạnh huyền thuật phi thường. Cuối cùng, họ rút các lá bùa của họ ra để trưng bày cho nhau ngay trước mặt ngài. Một bùa trong đó làm từ nanh heo rừng, một bùa khác làm từ răng nanh cọp, một bùa khác làm từ sừng tê giác. Mỗi người trong số họ đều nói rằng bùa của họ có sức mạnh huyền bí phi thường, nên một người trong nhóm đã hỏi Luang Pu, “Thưa ngài Luang Pu. Cái nào trong các bùa này phi thường hơn và tốt hơn những cái khác?”.

Luang Pu lộ vẻ đặc biệt thích thú và mỉm cười nói: “Không có cái nào tốt đâu, không có cái nào phi thường cả. Chúng đều làm từ những con thú bình thường”.

Chỉ một điểm duy nhất

Luang Pu một lần nói: “Trong mùa an cư năm 1952, tôi đã phát nguyện đọc toàn bộ kinh điển để xem điểm tận cùng của lời Đức Phật dạy nằm ở đâu - để xem điểm cuối của các Thánh đế, điểm cuối của đau khổ, nằm ở đâu - để xem Đức Phật đã tóm tắt lại như thế nào. Tôi đọc đến cuối kinh điển, suy ngẫm suốt con đường đạo, nhưng không có đoạn nào tiếp xúc đủ sâu trong tâm mà tôi có thể nói chắc chắn rằng: ‘Đây là sự chấm dứt khổ đau. Đây là tận cùng của đạo và quả, hay còn gọi là Niết-bàn’. Chỉ trừ một đoạn, khi Tôn giả Sariputta vừa xuất khỏi diệt tận định, Đức Phật hỏi Tôn giả: ‘Sariputta, da của ông đặc biệt sáng ra, vẻ ngoài của ông đặc biệt trong trẻo. Chỗ trú của tâm ông là gì?’ Sariputta trả lời: ‘Nơi an trú của tâm con là tánh Không’. Đó là điểm duy nhất chạm vào tâm của tôi”.

Học gì và đừng học gì

Tỳ-kheo Ajaan Suchin Sucinno đã nhận bằng luật từ Đại học Dharmasaat từ lâu và rất coi trọng việc thực hành pháp. Vị này là học trò của Luang Pu Lui trong nhiều năm và sau khi nghe danh tiếng của Luang Pu Dune, nên đã đến tu tập với ngài. Cuối cùng luật gia này đã thọ giới Tỳ-kheo. Sau khi ở với Luang Pu một thời gian, vị này xin ra đi để có thể đi lang thang tìm kiếm sự cô tịch.

Luang Pu khuyên vị này, “Trong lĩnh vực Luật tạng, ông nên nghiên cứu kinh điển cho đến khi ông hiểu chính xác từng giới luật đến mức ông có thể áp dụng chúng vào thực hành mà không mắc lỗi. Về Pháp, nếu ông đọc nhiều, ông sẽ suy đoán đủ thứ, do vậy ông không cần phải đọc nó chút gì. Chỉ duy chú tâm vào thực hành, và thế là đủ”.

Quan sát cái gì

Luang Taa Naen xuất gia sau tuổi trung niên. Không biết chữ và không nói được một chữ trong ngôn ngữ tiếng miền Trung Thái Lan, điểm mạnh của sư là có thiện chí, dễ bảo và siêng năng trong nhiệm vụ, đến mức bạn không thể chê trách sư này được. Khi thấy các tu sĩ khác xin ra đi để lang thang hoặc tới học tập với các tu sĩ khác, sư mới quyết định rằng sư cũng muốn đi. Vì vậy, sư đã đến xin phép rời đi và Luang Pu đã đồng ý. Nhưng sau đó sư lại cảm thấy lo lắng: “Con không biết đọc, con không biết ngôn ngữ của họ. Làm sao con có thể thực hành với họ được?”.

Luang Pu khuyên sư, “Việc thực hành không phải là vấn đề về chữ hay là lời nói. Khi ông biết ông không biết, chính là một điểm khởi đầu tốt. Cách thực hành là thế này: Trong lĩnh vực Luật tạng, hãy xem gương của họ, tấm gương của vị thầy nơi đó. Đừng đi chệch khỏi bất cứ điều gì vị thầy đó làm. Trong lĩnh vực của Pháp, hãy quan sát ngay vào tâm của ông. Hãy thực hành ngay nơi tâm. Khi ông hiểu được tâm của chính ông, tâm đó, trong và thuộc về tâm, tự nó sẽ làm ông hiểu mọi thứ khác”.

Vấn đề và trách nhiệm

Một trong những vấn đề trong việc điều hành Tăng đoàn, ngoài việc phải giải quyết tất cả các vấn đề lớn nhỏ khác nảy sinh, đó là thiếu các tu sĩ sẽ làm trụ trì. Đôi khi chúng ta nghe tin các nhà sư cạnh tranh để trở thành trụ trì của một tu viện, nhưng các học trò của Luang Pu đã phải bị chiêu dụ hoặc bị ép buộc phải nhận chức vụ trụ trì ở các tu viện khác. Hàng năm không có ngoại lệ, các nhóm cư sĩ đều đến Luang Pu, thỉnh cầu ngài gửi một trong những đệ tử của ngài đến làm trụ trì tại tu viện của họ. Nếu Luang Pu thấy một nhà sư cụ thể nào đó nên đi, ngài sẽ khuyên người đó đi, nhưng phần lớn nhà sư đó sẽ không muốn đi. Lý do đưa ra thường là: “Con không biết làm công việc xây dựng, con không biết cách huấn luyện các nhà sư khác, con không biết thuyết pháp, tôi không giỏi quan hệ công chúng hay tiếp khách. Đó là lý do tại sao con không muốn đi”.

Luang Pu sẽ trả lời, “Những chuyện đó không thực sự cần thiết. Trách nhiệm duy nhất của con là tuân theo các nhiệm vụ hàng ngày của mình: đi khất thực, ăn cơm, ngồi thiền, đi thiền hành, dọn sạch sẽ khuôn viên tu viện, nghiêm chỉnh tuân theo các giới luật. Thế là đủ rồi. Còn việc xây dựng thì tùy vào các cư sĩ ủng hộ. Xây dựng [kiến trúc] hay không là tùy họ”.

Càng nghèo càng hạnh phúc

Cho đến cuối đời, Luang Pu tắm nước ấm hàng ngày vào lúc 5 giờ chiều, với sự giúp đỡ của một nhà sư hoặc Sa-di. Sau khi đã khô người và cảm thấy sảng khoái, ngài thường nói vài lời pháp mà ngài chợt nghĩ vào lúc đó. Chẳng hạn, có lần ngài nói, “Chúng ta, các nhà sư, nếu chúng ta thiết lập trong mình cảm giác hài lòng với địa vị nhà sư của mình, chúng ta sẽ không tìm thấy gì ngoài hạnh phúc và bình an. Nhưng nếu chúng ta có địa vị nhà sư nhưng lại khao khát bất kỳ địa vị nào khác, chúng ta sẽ luôn chìm đắm trong đau khổ. Khi các người có thể ngừng khao khát, ngừng tìm kiếm, đó là trạng thái thực sự của một nhà sư. Khi các ngươi thực sự là một nhà sư, thì càng nghèo càng có nhiều hạnh phúc”.

Càng ít càng tốt

“Cho dù ngươi đã đọc hết kinh điển và có thể nhớ được rất nhiều giáo lý; ngay cả khi ngươi có thể giải thích chúng trong những cách sâu sắc, được nhiều người kính trọng; ngay cả khi ngươi xây được nhiều tu viện, hay có thể giải thích được về vô thường, về khổ và về vô ngã một cách chi tiết nhất - nếu ngươi vẫn không tinh tấn, ngươi vẫn chưa nếm được pháp vị chút nào đâu, vì mọi thứ khác đều là bên ngoài. Mục đích chúng phục vụ đều là bên ngoài: như một lợi ích cho xã hội, một lợi ích cho người khác, một lợi ích cho hậu thế, hoặc một biểu tượng của tôn giáo. Điều duy nhất phục vụ mục đích chân thực của chính ngươi là giải thoát khỏi đau khổ. Và ngươi sẽ có thể đạt được sự giải thoát khỏi đau khổ khi biết tới một tâm (only when you know the one mind)”.

Không nghĩ đến điều đó

Tại một trong những thiền viện chi nhánh của Luang Pu, có một nhóm năm hoặc sáu nhà sư muốn đặc biệt nghiêm khắc trong việc thực hành, nên họ đã phát nguyện không nói chuyện trong suốt mùa an cư. Nói cách khác, miệng họ không nói lời nào, chỉ trừ việc tụng kinh hàng ngày và tụng Giới bổn (Patimokkha) hai tuần một lần. Sau khi mùa an cư kết thúc, họ đến để đảnh lễ Luang Pu và nói với ngài về sự thực hành nghiêm ngặt của họ: Ngoài những nhiệm vụ khác, họ tịnh khẩu trong suốt mùa an cư. Luang Pu mỉm cười nói: “Điều đó khá tốt. Khi không nói thì không có lỗi gì trong lời nói. Nhưng khi ông nói rằng ông đã ngừng nói thì điều đó đơn giản là không thể được. Chỉ có những bậc Thánh mới bước vào đến sự tịch diệt vi tế, nơi thọ và tưởng đã ngưng, là mới có thể ngừng nói. Ngoài họ ra, mọi người đều nói suốt ngày đêm. Và đặc biệt là những người thề không nói: Họ nói nhiều hơn bất cứ ai khác, chỉ đơn giản là họ không tạo ra âm thanh mà người khác có thể nghe thấy”. 

 

Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4-10-1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi, ngài xuất gia ở tỉnh lỵ. Sáu năm sau, thất vọng với nếp sống của một Tăng sĩ thất học, ngài rời đi để học ở Ubon Ratchathani, nơi ngài kết bạn với Ajaan Singh Khantiyagamo và tái xuất gia vào tông phái Dharmayut. Không lâu sau đó, ngài và Ajaan Singh gặp Ajaan Mun, người vừa trở về vùng Đông Bắc Thái Lan sau nhiều năm lang thang. Ấn tượng với những lời dạy và pháp thực hành của Ajaan Mun, cả hai tu sĩ đều từ bỏ việc học và bắt đầu cuộc sống thiền định lang thang dưới sự hướng dẫn của ngài Ajaan Mun. Vì vậy họ là hai đệ tử đầu tiên của Ajaan Mun. Sau khi lang thang 19 năm qua rừng núi Thái Lan và Campuchia, ngài đảm nhận chức vụ trụ trì của Wat Burapha, ở giữa thị trấn từ năm 1934. Ngài ở đó cho đến khi qua đời vào năm 1983. Và sau đây là những lời dạy của ngài, với cách xưng hô tôn kính là Luang Pu.

___________

Phra Bodhinandamuni ghi lại

Thanissaro Bhikkhu dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh

(NSGN 340)

Nguyên Giác dịch

Nguồn: GNO

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin