Chi tiết tin tức Tấm lòng rộng mở: Phát sinh trạng thái Bồ Tát 09:41:00 - 10/10/2014
(PGNĐ) - Nghi lễ để phát sinh lòng vị tha ao ước được giác ngộ là một nghi lễ đơn giản. Mục đích của nó là xác nhận và làm vững chắc khao khát đạt tới Cõi Phật của chúng ta vì lợi ích của mọi sinh linh. Sự xác nhận này rất cần thiết cho việc nâng cao luyện tập lòng từ bi
Chúng ta bắt đầu nghi lễ đó bằng cách hình dung ra một hình ảnh về Đức Phật. Một khi hình ảnh này đã rõ nét, chúng ta cố gắng tưởng tượng rằng Đức Phật Shakyamuni đang thật sự hiện hữu trước mặt chúng ta. Chúng ta tưởng tượng rằng ngài được vây quanh bởi vô số những đệ tử Ấ n Độ xa xưa. Nagarjuna, người đã sáng lập trường Triết học Phật giáo Muddle Way cùng những lời giải thích sâu sắc về “sự trống rỗng” ; và Asanga, chuyên gia về khía cạnh “bao la” mà chúng ta đã luyện tập cũng có trong số những người vây quanh Đức Phật. Chúng ta cũng tưởng tượng rằng Đức Phật được vây quanh bởi những nhân vật trong 4 truyền thuyết của Phật giáo Tây Tạng: Sakya, Gelug, Nyingma và Kagyu. Sau đó chúng ta tưởng tượng rằng mình được vây quanh bởi vô số sinh linh. Ở mức độ này, bạn bắt đầu phát sinh một tâm hồn vị tha ao ước được giác ngộ, Những người luyện tập có niềm tin mạnh mẽ có thể tham gia vào nghi lễ này đơn giản bằng cách trau dồi một tấm lòng đầy nhiệt huyết, thái độ vị tha đối với mọi sinh linh. BẢY BƯỚC LUYỆN TẬP (SEVEN LIMBS OF PRACTICE) Nghi lễ bắt đầu với một cuốn sách chứa đựng những lẽ phải trái. Chúng ta tham gia vào nghi lễ này qua việc suy niệm về những điều cần thiết của bảy bước luyện tập. BƯỚC THỨ NHẤT: LÒNG KÍNH TRỌNG (HOMAGE) Bước đầu tiên này, chúng ta tỏ lòng tôn kính đối với Đức Phật về những phẩm chất tốt đẹp nơi lời nói, thân thể và tâm hồn của ngài. Chúng ta có thể biểu lộ lòng tin và sự hiến dâng của mình bằng cách cúi đầu hoặc nằm phục trước hình ảnh Đức Phật mà chúng ta tưởng tượng ra. BƯỚC THỨ HAI: LỄ VẬT (OFFERING) Bước thứ hai này là “lễ vật”. Chúng ta có thể chuẩn bị những lễ vật vật chất hoặc tưởng tượng rằng chúng ta đang dâng hiến những lễ vật quý hiếm cho buổi lễ thần thánh trước mặt chúng ta. Lễ vật ý nghĩa nhất, thâm thuý và sâu sắc nhất chính là việc không ngừng rèn luyện tâm hồn của chúng ta, là tất cả những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta đã tích lũy được qua việc tham gia những hành vi đạo đức. Những hành vi của lòng từ bi, những cử chỉ chăm sóc, thậm chí là một nụ cười dành cho một ai đó hoặc biểu hiện của sự quan tâm đến những người bệnh tật đều la ønhững hành vi đạo đức. Chúng ta hiến dâng những điều này và cả những câu nói đạo đức. Một số ví dụ về những câu nói đạo đức, như những lời khen ngợi mọi người, những câu nói tạo sự yên lòng cho mọi người, những lời an ủi, những lời khuyên… . Tóm lại mọi hành vi tích cực mà chúng ta thực hiện qua lời nói. Chúng ta cũng có thể dâng hiến bằng những hành vi đạo đức trong tâm hồn. Sự tu dưỡng rèn luyện lòng vị tha, ý thức về sự chăm sóc mọi người, lòng từ bi, những đức tin sâu sắc và sự hiến mình cho học thuyết của Đức Phật đều có thể là những lễ vật. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng tất cả những lễ vật trên đều ở hình thức những vật chất đẹp đẽ và chúng ta đem dâng hiến cho Đức Phật và tuỳ tùng của ngài trước mặt chúng ta. Chúng ta có thể tưởng tượng trong tâm hồn rằng chúng ta hiến dâng toàn bộ vũ trụ này, những khu rừng, những đồi núi, những cánh đồng cỏ và những cánh đồng hoa, bất chấp chúng có thuộc quyền sở hữu của chúng ta hay không, chúng ta vẫn có thể dâng hiến trong tâm hồn mình. Bước thứ ba là việc xưng tội. Yếu tố quyết định của việc xưng tội là chúng ta phải thừa nhận những hành vi tiêu cực của mình , những tội lỗi mà chúng ta đã gây ra. Chúng ta nên trau dồi những ý thức sâu sắc về sự hối lỗi và sau đó hình thành một cách quyết tâm mạnh mẽ rằng về sau không còn dung dưỡng những thái độ, hành vi phi đạo đức như vậy nữa. BƯỚC THỨ TƯ: VUI MỪNG (REJOICING) Bước thứ tư là việc rèn luyện đức vui tươi bằng cách tập trung vào những hành vi đạo đức trong quá khứ của chúng ta, chúng ta phát triển niềm vui vì những thành tựu của mình. Chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta sẽ không bao giờ hối tiếc về những hành vi tích cực mà chúng ta đã thực hiện,đúng hơn là chúng ta có được niềm vui trong lòng khi chúng ta thực hiện những hành vi đó . Thậm chí chúng ta nên vui mừng vì những hành vi tích cực của mọi người khác, họ là những sinh linh thấp kém hơn chúng ta, yếu ớt hơn chúng ta hoặc thậm chí mạnh mẽ hơn chúng ta hoặc ngang bằng với chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải đảm bảo được rằng thái độ của chúng ta đối với những hành vi đạo đức của mọi người sẽ không bị lu mờ bởi những ý thức về sự ganh đua và ghen tị; chúng ta nên cảm thấy và hoàn toàn thán phục và vui mừng vì những phẩm chất tốt đẹp và tài năng của mọi người. Ở những bước tiếp theo này, chúng ta thỉnh cầu những Đức Phật dạy bảo và phổ biến học thuyết Dharma vì lợi ích chung của mọi sinh linh, sau đó chúng ta cầu khẩn họ không tìm kiếm sự bình an nơi Niết Bàn cho riêng mình. BƯỚC THỨ BẢY: HIẾN DÂNG (DEDICATION) Sau khi đã thực hiện bảy bước trên, chúng ta sẵn sàng bắt đầu phát sinh một tâm hồn vị tha mong ước được giác ngộ. Tiết thứ nhất của nghi lễ bắt đầu với lễ vật là một động cơ thúc đẩy chính đáng: ‘‘Với lòng mong ước giải thoát tất cả mọi sinh linh’’ (With the wish to free all beings) Dòng thứ hai và thứ ba hợp nhất với ba nơi nương tựa: Đức Phật, Dharma, Shangha. Lời cam kết tìm kiếm nơi nương tựa cũng được thiết lập trong những dòng này: ‘‘Tôi sẽ luôn tìm kiếm nơi nương tựa’’ (I shall always go for refuge) ‘‘Từ Đức Phật, Dharma và Shanga’’ (to the Buddha, the Dharma and Shangha) Tiết thứ hai chính là sự phát sinh một tâm hồn vị tha mong ước được giác ngộ: ‘‘Chứa chan lòng từ bi và thông suốt’’ (Enthused by wisdom and compasion) ‘‘Hôm nay, trước sự hiện thân của Đức Phật’’ (Today, in the Buddha’s presence) ‘‘Tôi phát nguyện một tâm hồn mong ước được hoàn toàn giác ngộ’’ ( I generate the Mind Wishing Full Awakening) ‘‘Vì lợi ích của mọi sinh linh’’ (For the benefit of all sentient beings) Tiết này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp lòng từ bi và sự thông suốt. Sự giác ngộ không thể là lòng từ bi màkhông có sự thông suốt hoặc sự thông suốt mà không có lòng từ bi. Đặc biệt là sự thông suốt về nhận thức “sự trống rỗng”. Có được nhận thức hoàn toàn về “sự trống rỗng” hoặc thậm chí một hiểu biết trong khái niệm tâm hồn về “sự trống rỗng” – giới hạn của sự tồn tại tối tăm của chúng ta, lòng từ bi của chúng ta lại càng mạnh mẽ hơn nhiều. Từ ngữ “chứa chan” ở đoạn này ngầm chỉ một lòng từ bi sẳn sàng-không cón là một trạng thái trong tâm hồn nữa. Dòng tiếp theo, “Hôm nay, trước sự hiện thân của Đức Phật” (Today, in the Buddha’s presence) Ngầm chỉ rằng chúng ta đang khao khát đạt tới Cỏi Phật. Cũng có thể hiểu rằng gọi sự chú ý của những Đức Phật trước mặt chúng ta để họ chứng giám sự kiện này khi chúng ta phát biểu: “Tôi phát nguyện một tâm hồn mong được hoàn toàn giác ngộ” (I generate the Mind Wishing Full Awakening) “Vì lợi ích của mọi sinh linh” (For the benefit of all sentient beings) Tiết cuối cùng được trích từ cuốn “Hướng dẫn sống một cuộc đời Bồ Tát” (guide of the Bodhisattva’s way pf life) của thạc sĩ Aán Độ Shantideva của thế kỷ thứ 8, là: “Miễn là vũ trụ tồn tại” (As long as space remains) “Miễn là loài người tồn tại” (As long as sentient beings remain) “Tôi sẽ tồn tại đến khi đó” (Untill then, I will remain) “Và xua tan mọi điều đau khổ của trần gian” (And dispel the miseries of the world) Nếu Đức Phật Shakyamuni, vị Phật trong lịch sử mà chúng ta sùng kính, cũng ích kỷ như chúng ta thì chúng ta, đã đối xử với ngày như cách mà chúng ta đối xử với người khác, và có lẽ chúng ta đã thốt lên với ngài: “Im đi!!”. Nhưng thực ra lại không phải như vậy. Bởi vì Đức Phật Shakyamuni hoàn toàn vì mọi người, yêu mến mọi người, chúng ta xem ngài như một thần tượng đáng kính. Đức Phật Shakya, Nagarjuna và Asanga – những thạc sĩ Ấ n Độ trứ danh và những thạc sĩ Tây Tạng nổi tiếng trong quá khứ, đều đã đạt được sự giác ngộ – kết quả của những thay đổi cơ bản về thái độ đối với bản thân và mọi người. Họ đã tìm nơi nương tựa. Họ đã vì phúc lợi của mọi sinh linh. Họ đã nhận ra lòng ích kỷ và tham lam là hai kẻ thù, là hai nguồn gốc của mọi hành vi phi đạo đức. Họ đã chiến đấu với hai kẻ thù này và họ đã đẩy lùi được chúng. Kết quả việc rèn luyện của những vị này là họ trở thành những mục tiêu của lòng ngưỡng mộ và khát khao . Chúng ta phải theo gương của họ và phải cố gắng nhận ra được rằng lòng ích kỷ và tham lam của bản thân chính là hai kẻ thù mà mình cần phải trừ diệt. Vì vậy, trong khi đem những tư tưởng này vào tâm hôn và suy ngẫm về chúng, chúng ta đọc ba tiết thơ sau đây ba lần: “Với lòng mong ước giải thoát tất cả mọi sinh linh Tôi sẽ luôn tìm kiếm nơi nương tựa Từ Đức Phật, Dharma và Shanga Cho đến lúc tôi được giác ngộ hoàn toàn Chứa chan lòng từ bi và thông suốt Hôm nay, trước sự hiện thân của Đức Phật Tôi phát nguyện một tâm hồn mong ước được hoàn toàn giác ngộ Vì lợi ích của mọi sinh linh Miễn la ø vũ trụ tồn tại Miễn la ø loài người tồn tại Tôi sẽ tồn tại đến khi đó Và xua tan mọi điều đau khổ của trần gian” (With the wish to free all beings I shall always go for refuge To the Buddha, the Dharma and Shangha Untill I reach full enlightenment Enthused by wisdom and compassion Today, in the Buddha’s presence I generate the Mind Wishing Full Awakening For the benefit of all sentient beings As long as space remains As long as sentient beings remain Untill then, I will remain And dispel the miseries of the world) Xin cám ơn!
Trích “Tấm Lòng Rộng Mở – Tác giả Dalai Lama – Lê Tuyên biên dịch – Lê Gia hiệu đính – Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: AN OPEN HEART PRACTICING“
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |