Hương linh có bị đoạ địa ngục không?
16:26:00 - 30/06/2016
(PGNĐ) - Câu hỏi: Thưa Thầy sau khi con người qua đời được 49 ngày mà vẫn chưa được tái sinh vào cảnh giới khác có phải là đã bị đọa vào cảnh giới ngạ quỷ không?

Trả lời: Hoàn toàn không có chuyện đó. Có 2 vấn đề mà chúng ta cần lưu tâm. Thứ nhất, theo lời dạy nguyên gốc của đức Phật, sau khi kết thúc sự sống, con người không hề bị mất đi. Chết không phải là dấu chấm cuối cùng của cuộc đời. Con người và vạn vật sau khi chết tiếp tục tái sinh. Sự tái sinh này do nghiệp chi phối 100%, không hề có một tác nhân nào làm công việc trung gian sắp xếp cảnh giới tái sinh ở chỗ này hay chỗ nọ như trong các tôn giáo nhất thần, đa thần đã chủ trương.
Đức Phật dạy trong một số kinh và dựa vào những lời dạy đó ta có thể kết luận rằng: sau khi kết thúc sự sống, phần lớn đối với những người có nghiệp cực ác hay cực thiện thì sự tái sinh của họ diễn ra trong tích tắc, tức trong vòng vài ba giây là họ đã có mặt trong một kiếp sống mới. Đối với những người bị vướng kẹt vào sự tiếc nuối về tình yêu, tình thương, gia tài, sự nghiệp, oán hận, oan ức... thì tiến trình tái sinh có phần muộn hơn. Muộn không có nghĩa là kéo dài tình trạng đó theo ý muốn của mình được. Thời gian tối đa được kinh điển Đại thừa, đặc biệt [kinh dia tang bo tat bon nguyen] kinh Địa Tạng cho biết là 49 ngày. Sau 7 tuần thất không có một chúng sinh nào, dù là con người hay con vật có thể tiếp tục tồn tại trong cảnh giới trung gian. Đây là điều mà các Phật tử cần phải lưu tâm để không mê tín dị đoan.
Các nhà ngoại cảm trong vòng 30 năm qua tại Việt Nam đã vẽ vời rất nhiều câu chuyện hoang đường. Rằng: họ có thể đối thoại được với các hương linh dưới âm phủ sau khi các hương linh đó chết vài trăm năm, vài chục năm, vài năm. Họ còn nhắc lại các câu chuyện lâm li bi đát hoặc có những câu chuyện đầy ắp tình người. Tất cả những chuyện đó không có thật.
Theo đức Phật thì không có âm phủ dưới lòng đất. Các hương linh sau khi chết sẽ không bám víu ở mộ huyệt, không bám víu ở nơi mà cái chết diễn ra, không bám víu vào nơi thờ tự tức là từ đường hay bàn thờ, cũng không bám víu vào di ảnh hay các đoạn băng video chứa đựng hình ảnh của mình. Lý do họ không thể bám víu được là vì: nghiệp quyết định tiến trình tái sinh của mỗi người sau khi chết.
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo đưa ra một ẩn dụ rất có chiều sâu: Tử tù 2 ngày nữa là bị tử hình, đến gặp phán quan nài nỉ rằng: “Hãy cho tôi ân huệ cuối cùng là về thăm vợ con cha mẹ thì tôi chết vẫn thấy hài lòng”. Phán quan trả lời: “theo luật nước, tôi không thể cho anh trở về thăm người thân. Hai ngày sau khoảng 3-4h khuya chúng tôi sẽ cho anh ăn bữa ăn cuối cùng, bịt mắt anh lại, dẫn ra pháp đình, cho anh nói lời cuối cùng, sau đó sự sống của anh phải bị kết thúc”. Tử tù nài nỉ: ‘nếu phán quan sợ tôi có thể tẩu thoát trong giai đoạn đưa tôi về nhà người thân thì hãy còng, trói bằng nhiều phương pháp khắt khe, cho đội kỵ binh giỏi nhất đi theo tôi’. Phán quan trả lời: "việc đó là không thể được”.
Câu chuyện ẩn dụ này cho ta những gợi ý về lời nài nỉ của tử tù tượng trưng cho tâm lý tiếc nuối gắn kết với tình yêu, tình thân, gia tài, sự nghiệp, oan trái, hận thù… mà thỉnh thoảng chúng ta bị vướng kẹt một thời gian nhất định nào đó. Nhưng, theo quy luật tái sinh, tất cả chúng ta không thể trì hoãn tiến trình đó, không thể lũng đoạn, thương lượng được với tiến trình đó, không thể hối lộ để tiến trình tái sinh đó diễn ra chậm hơn mà theo đó chúng ta có thể được tồn tại trong cảnh giới trung gian. Về sau này Phật giáo Trung Quốc, do tác động của các phong trào mê tín dị đoan có sẵn tại Trung Quốc, lại có khuynh hướng cho rằng người chết có thể tồn tại dưới chín suối, âm phủ bằng cách này hay cách khác dưới hình thức là ngạ quỷ.
Ngạ quỷ được họ “đánh đồng” với địa ngục và ngược lại. Đó là các quan điểm rất sai lệch và ngược lại phần lớn nội dung đức Phật giảng dạy về bản chất của tái sinh. Là người tu học Phật chúng ta không nên bận tâm đi tìm hài cốt của những người thân đã mất tích hay đã chết trong quá khứ vì chúng ta biết rất rõ, nhiều nhất trong 49 ngày, mà phần lớn chỉ là vài phút, tất cả các người chết phải tái sinh theo nghiệp.
Thứ hai, cảnh giới ngạ quỷ được đạo Phật đề cập đến thật ra là cảnh giới trung gian, không giống như con người đang sống trên mặt đất, vạn vật đang sống trong vũ trụ này. Vào thời đức Phật chỉ có 3 cảnh giới phàm phu: con người, động vật và cảnh giới được tạm gọi ngạ quỷ (tức sau khi con người và động vật chết do sự luyến tiếc sẽ tồn tại trong cảnh giới trung gian). Phật giáo Trung Quốc nhấn mạnh đến tính chất trung gian này, nên tạm gọi đương sự chết trong cảnh giới trung gian đó là thân trung ấm. Thực tế trong giai đoạn chờ tái sinh không có hương linh nào có thân thể. Do vây, khi gọi là thân trung ấm sẽ dẫn đến ngộ nhận lớn là sẽ có một cảnh giới sống ở đó có thể tồn tại hoặc 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm, vài chục năm, vài trăm năm.,…nhận thức này đã dẫn đến rất nhiều ngộ nhận .
Các ngộ nhận này phần lớn xuất phát từ sự hiểu sai của Phật giáo Trung Quốc đối với lời dạy nguyên gốc của đức Phật về tiến trình tái sinh. Do đó, chúng ta cần thấy rõ, ngạ quỷ chỉ tồn tại nhiều nhất là 49 ngày sau khi chết. Ma quỷ mà dân gian thường đề cập đến có nghĩa đen tương đương với hương linh, tâm tái sinh, thức tái tục trong triết học Phật giáo. Nếu họ chưa được siêu trong 49 ngày không thể có khả năng hại con người, đeo phá hay nhập vào con người. Tất cả các khái niệm nói về chứng bệnh như bệnh “mắc đằng trên”, “mắc đằng dưới”, “ma nhập", “quỷ ám” thực ra chỉ là những ngộ nhận hoặc mê tín dị đoan. Các hiện tượng vừa nêu nói theo y khoa ngày nay là sự rối loạn tâm thần đa nhân cách, một loại tâm thần phân liệt cần phải được điều trị y khoa, ma không nhập không bám vào con người được nếu họ chưa siêu. Thời gian tồn tại nhiều nhất là 49 ngày, trên thực tế khoảng 95% tồn tại nhiều nhất là vài phút.
Kinh Na Tiên tiếp tục đưa ra một sự kiện: trong vũ trụ bao la này, hành tinh chúng ta có sự sống con người và có những hành tinh khác ngoài hành tinh của chúng ta cũng có sự sống của con người, sẵn sàng tiếp nhận tâm thức tái sinh sau khi chết. Sự tái sinh diễn ra theo cơ chế: cộng nghiệp của người mới vừa chết và cha mẹ của người sắp được sinh ra đó có một mẫu số “na ná” với nhau, để sinh ra chịu trách nhiệm trực tiếp về gien di truyền, màu da, vóc dáng, hình thù đồng thời tiếp nhận văn hóa, phong tục, tập quán,….nói chung là cộng nghiệp của gia tộc đó.
Như vậy chúng ta thấy: hiện nay hơn 7 tỷ người trên hành tinh có rất nhiều người có cùng mẫu số nghiệp. Cho nên, nếu sinh ra không tiếp tục làm người Việt Nam thì cũng sinh ra làm những người có cộng nghiệp, mà mẫu số của cộng nghiệp đó tương đương với mình. Và trong vũ trụ bao la như thế, nửa ngày bên đây là nửa ngày bên kia, đêm của nửa vòng trái đất này là ngày của nửa vòng trái đất khác, bất cứ thời điểm nào trên hành tinh này cũng có sự quan hệ giới tính giữa nam và nữ, giữa người mẹ với người cha. Vì vậy, thức tái sinh sau khi sinh vật kết thúc hơi thở, thoát ra khỏi cơ thể và có mặt trong bào thai của một người mẹ hay của một giống cái để tiếp nhận cộng nghiệp mà mình đã gieo tạo. Nhận thức này sẽ giúp cho người Phật tử không còn tiếp tục rơi vào mê tín dị đoan rằng: người thân của tôi sau khi chết báo mộng, than vãn dưới âm phủ lạnh lẽo, không có tiền xài, đói khát,...cần phải cúng cái này làm cái nọ, đốt giấy vàng mã mới yên tâm. Đó chỉ là ức chế của tình thương do khi còn sống chúng ta có mối quan hệ quá mật thiết với người chết và mình chưa làm tròn bổn phận cho nên khi ngủ dưới điều kiện phòng quá nóng, quá lạnh, ngủ nằm sấp, gối cao, ngủ co quắp,….không được thoải mái,cơ thể mệt mỏi, kiệt sức... chúng ta thường có những giấc mộng, những giấc mộng đó liên hệ với người quá cố hoàn toàn không phản ánh điều gì trong thế giới hiện thực. Các hiện tượng báo mộng không phải là dấu hiệu cho thấy rằng người thân của chúng ta chưa được tái sinh.
Các Phật tử cần tin vào lời Phật dạy: sau 49 ngày làm lễ cúng thất tại các chùa nên tin rằng người thân của chúng ta đã tái sinh, từ đó, ta không phải khổ đau, luyến tiếc, buồn rầu, lo lắng nữa. Đến những ngày kỵ giỗ lần thứ nhất, lần thứ hai và những ngày giỗ về sau mặc dù biết những người thân đó đã tái sinh, ta vẫn cúng như là một biểu hiện văn hóa của sự nhớ ơn và đền ơn trong ứng xử với ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Nhờ đó mà truyền thống văn hóa hiếu thảo trong gia tộc được di truyền. Các hương linh sau khi chết không thể trở thành ma quỷ như trong phim ma của Hoa Kỳ, Trung Quốc và nhiều quốc gia khác. Do vậy, người Phật tử tại gia không cúng cô hồn tại nhà mình cũng không sợ ma vì ma không thể hại mình được. Tất cả đều phải tái sinh phần lớn là vài ba phút sau khi chết chứ không còn đó để hại mình hay gây trở ngại như người ta đã suy nghĩ.
TT. Thích Nhật Từ
|
- Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
Thiền học Luy Lâu không còn, và nên không còn được hiểu là khởi nguyên của Thiền học Việt Nam, mà là suối nguồn của Thiền học Việt Nam. Có lẽ Phật giáo Việt Nam cần trở về cội nguồn của Luy Lâu và Yên Tử để tìm thấy mình và bắt gặp lại niềm tin và tự hào lịch sử trước khi có thể mở ra hướng phát triển cho hiện tại.
- Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
"Nói đến cuộc sống là vô biên không thể kể xiết nào là vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, mệt nhọc, sung sướng… nhưng điều tất yếu là ta phải biết nhận diện nó, để rồi chuyển hoá nó thì tự nhiên cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, thong dong hơn, đừng nói gì đến “Mỗi lần nêu ra một lần mới”. Ví như ban nãy tôi đang đứng giữa trời đất đưa tay chỉ bầy chim én bay lượn trên cao, tay vừa đưa lên thì chúng đã bay xa. Cho nên mỗi chúng ta đừng vội vàng đi tìm cầu mà hãy trân quý cuộc sống trong hiện tại cho thật thi vị nhiệm mầu". (Trích Tâm quán tình người, Thích Pháp Bảo)
- Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
Trong các loài hoa báo xuân thì mai là người gõ cửa, khi chỉ mới vào độ đầu tháng Mười một âm lịch đã thấy lác đác những nụ mầm bật lên, e ấp trong gió đông còn đang xám xịt giữa cô liêu rét buốt, ẩm ướt mưa phùn. Nhưng, phải đợi đến tận những ngày cuối tháng Chạp, mai mới ủ đủ nhựa cho một đợt mãn khai đón Tết đến, xuân về.
- Đôi dòng xúc cảm
Từng lời, từng câu, từng chữ trong bài: Đôi dòng xúc cảm của tác giả Minh Hà đều chất chứa biết bao tình cảm thiêng liêng của người viết. Nó dường như mang nặng trong lòng của những người con Phật về bốn ân to lớn trong đời sống của mình, đó là ân Quốc gia, xã hội; ân Sư trưởng; ân phụ mẫu và ân vạn loại chúng sinh. Từ đây, tác giả đã bước chân vào con đường đạo, từ bỏ mọi danh lợi thế gian, sống một đời sống phạm hạnh, tri túc thường lạc, với mong muốn giản dị là đem lại sự an vui và hạnh phúc mọi người.
- 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
- Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
Có một ngôi chùa, nhân vì thờ một xâu chuỗi Phật Tổ từng đeo mà nổi tiếng.
- Em nên đi tu hay lấy chồng?
Dù em là ai đi chăng nữa, nhưng trong em luôn có tâm thiện, sống có đạo đức thì đó chính là mình có hiếu với bố mẹ rồi. Nói chung, việc báo hiếu nó biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau em ạ. Chứ không phải đi tu là bất hiếu, và lập gia đình là có hiếu đâu em nhé.
- Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội, sáng ngày 14.5.2008 đã khẳng định:
- Bình an giữa cuộc đời
Bình yên không có nghĩa là đi đến một nơi không có tiếng ồn, không có khó khăn, không cực nhọc. Bình yên là giữa một không gian yên ả, thanh bình, chỉ có tiếng chuông chùa buông trong thinh không làm tâm ta tĩnh lặng, dễ chịu. Bình yên là khi ta biết tìm về với Phật, tìm về nương náu dưới ngôi Tam Bảo để tu thân hành thiện, để cho cuộc đời mình sống có ý nghĩa hơn.
- Ăn và Đạo Pháp
Ăn cũng là một giải pháp của tiến hoá trong mục đích duy trì sự tuôn chảy của dòng sông sự sống vô hình, bằng cách các sinh vật phải chiếm đoạt sinh-khối của nhau để duy trì cuộc sống. Hiện tượng này tạo thành khái niệm sinh học về "chuỗi thức ăn" hoặc "tháp thức ăn" trong sinh quyển . Ăn là hiện tượng tự nhiên như nó là, ăn là một điều-kiện-tính của tồn sinh và ăn đã điều-kiện-hoá sự tồn sinh của mọi cá thể, mọi loài sinh vật.
|