Chi tiết tin tức Tri hành hợp nhất: con đường lý tưởng trong Phật giáo 22:36:00 - 19/02/2024
(PGNĐ) - Đối với những ai đang khắc khoải trong tâm khảm những ưu tư trăn trở về kiếp nhân sinh, thì việc tìm hiểu về bản chất đích thực của cuộc sống này là một trong những mối quan tâm ưu tiên hàng đầu. Nhưng vấn đề mà chúng ta quan tâm ở đây, đó là phương pháp hay thái độ sống đúng đắn của một người học Phật về việc tiếp nhận tri thức và con đường thực hành tâm linh. Chính vì vậy, Đạo Phật nhấn mạnh đến tính Tri – Hành hợp nhất – con đường lý tưởng trong Phật giáo, tức là việc học và thực hành phải được diễn ra song hành. Đó cũng là nội dung chính trong bài viết này [1].
Tùy theo trình độ, hay mức độ tiếp cận của mỗi cá nhân mà qua đó thế giới khách quan bên ngoài được nhìn nhận và đánh giá một cách sai biệt. Quá trình tích lũy và phát triển tri thức tùy thuộc vào mỗi người và không hạn cuộc vào thời gian không gian. Tri thức nhân loại được tích lũy qua nhiều thế hệ, qua đó phản ánh mức độ tương quan giữa con người đối với hoàn cảnh môi trường xã hội và thời đại, hình thành nên ý thức hệ của một dân tộc, quốc gia. TRI THỨC THẾ GIAN Francis Bacon [3] với câu nói nổi tiếng: “Tri thức là sức mạnh”, ông khẳng định vai trò quan trọng của tri thức đối với quá trình tự hoàn thiện bản thân, tiến đến làm chủ khoa học kỹ thuật trong thời đại mới. Bởi chính nỗi ám ảnh “Đêm trường Trung cổ” đã khiến tinh thần và trí tuệ của con người trong suốt thời gian đó trở nên trì trệ. Friedrich Nietzsche [4] còn chứng tỏ rằng một thời đại ám ảnh đêm trường trung cổ đã qua, thế giới phương Tây đã mở ra một thời đại mới, thời đại của tri thức và sự bùng nổ khoa học kỹ thuật. Không thể phủ nhận vai trò của tri thức đối với sự phát triển của cá nhân hay xã hội, bởi vì quá trình học tập rèn luyện tư duy sẽ đánh thức những sức mạnh tiềm ẩn bên trong con người thông qua hoạt động suy nghĩ của não bộ và biểu hiện qua quá trình lao động sáng tạo của con người. Toàn bộ những kiến thức, hiểu biết có được do quá trình học tập trong suốt cuộc đời mỗi người, mà mục đích của nó hướng đến chính là phục vụ cho đời sống thường nhật. Tuy nhiên, loại tri thức này không có khả năng dẫn dắt con người đến sự chấm dứt hoàn toàn khổ đau. Bởi xét cho cùng, tất cả vật chất của cải mà loài người đang có vẫn không thể nào đáp ứng nổi những ham muốn thỏa mãn của con người, trái lại đó có khi là nguyên nhân của tất cả xung đột đấu tranh và đau khổ cho nhân loại. Như vậy thì tri thức xuất thế gian có vai trò và ý nghĩa như thế nào đối với nhân loại? TRI THỨC XUẤT THẾ GIAN Như thế tri thức xuất thế gian có ý nghĩa siêu việt các khái niệm ngôn ngữ thông thường, đó cũng chính là ngôn ngữ là chân lý ly niệm trong Kinh Kim Cang. Toàn bộ nền giáo pháp của Đức Phật không gì khác đó chính là nêu lên về Khổ và con đường đưa đến chấm dứt khổ, nói đầy đủ tức là Bốn sự thật cao quý (Catta-ariyasacca)/ Tứ Thánh đế bao gồm: Khổ đế (Dukkha), Tập đế (Samudaya), Diệt đế (Nirodha) và Đạo đế (Magga). Mục tiêu tối hậu của Phật giáo không gì khác, đó chính là giải thoát mọi tham ái, khổ đau, vô minh của con người, tức là tri thức về con đường của bậc Thánh xuất thế gian. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH TU HỌC Theo xu hướng thời đại, người xuất gia cũng phải trang bị cho mình một số kiến thức từ thế học cho đến Phật học. Tuy nhiên, việc đạt được những bằng cấp không phải là mục tiêu, là cứu cánh duy nhất mà người xuất gia hướng đến. Mục đích tối hậu của người xuất gia chính là thành tựu các quả thánh, đạt đến các cấp độ thiền định và Niết-bàn. Hơn nữa, sứ mệnh của người xuất gia không gì khác là học pháp, hành pháp, thể nhập pháp và hoằng truyền Chánh pháp. Vấn đề này đã được Đức Phật nhiều lần nhắc nhở đại chúng, như trong Tăng chi bộ, Đức Phật nói về các biểu hiện của một vị Tỳ kheo không thực sự sống theo pháp: 1) tuy thuộc lòng nhiều kinh điển/ 2) thuyết pháp cho người khác nghe một cách rộng rãi/ 3) đọc tụng pháp một cách rộng rãi/ 4) với tâm tùy tầm tùy tứ, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như đã học thuộc lòng // nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ, thì bốn trường hợp đó không được gọi là một vị sống với pháp, an trú với pháp (dhammavihāra) [8]. Cũng trong bài kinh đó, Phật xác nhận rằng, khi nào vị Tỳ kheo thuộc lòng nhiều kinh điển và rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ, thì vị ấy mới được gọi là vị sống theo pháp. Như vậy, Đức Phật đã một lần nữa nhấn mạnh về việc học pháp và hành pháp là hai yếu tố không thể tách rời. Việc học pháp cần được thực hành và áp dụng vào trong đời sống bởi bản chất của giáo pháp là “thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình tin hiểu và chứng nhận lấy”. Hệ quả của việc thực hành nhưng khiếm khuyết về mặt tri thức Đối với giáo pháp cần học tập một cách đúng đắn, việc tiếp thu kiến thức đó có thể đến từ thẩm quyền của kinh điển, của các bậc thầy hoặc các vị đồng phạm hạnh, hơn nữa những kiến thức đó phải luôn được suy tư và thể nghiệm: “Và này các Tỳ kheo, thế nào là Tỳ kheo xây dựng được cơ bản?… đối với các Tỳ kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập Agāma (A-hàm), bậc trì Pháp, trì Luật, trì Toát yếu, thường thường đến yết kiến, phỏng vấn, đặt các câu hỏi: “Thưa Tôn giả, cái này là thế nào? Pháp này ý nghĩa gì?”. Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở rộng, phơi bày những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai khác còn có những chỗ nghi ngờ, các vị ấy giải thích các sự nghi ngờ”[10]. Như thế thì việc căn bản đầu tiên, cửa ngõ để đi vào con đường Thánh đạo chính là việc thân cận, nương nhờ và học hỏi từ các vị thông tuệ. Chính những lời dạy và kinh nghiệm tu tập của các vị ấy sẽ là hành trang vô cùng quan trọng trên con đường tiến tu Thánh đạo. Ngay cả trong hàng ngũ xuất gia, nếu một người không chịu học hành chân chính, có thể bị nhiễm thói hư tật xấu xã hội và thực hành sai lạc so với chánh pháp. Điều này gây ra sự hỗn loạn của diệu pháp, gây nên sự không lợi lạc, dắt dẫn người khác vào con đường tà kiến: “… Vị ấy có tà kiến, có tri kiến điên đảo; vị ấy làm cho nhiều người từ bỏ Diệu pháp, chấp nhận phi Diệu pháp. Vì vị Tỳ kheo trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì vị ấy được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một số đông người tại gia, xuất gia đoanh vậy, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy… Thành tựu năm pháp này, này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo trưởng lão đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại không an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau khổ cho chư thiên và loài người” [11]. Rõ ràng, học pháp là một việc cần thiết, là điều kiện ban đầu để hình thành nên nền tảng con đường tâm linh. Do đó, việc học này cần được áp dụng ngay từ lúc sơ cơ vào đạo, đặt dưới sự hướng dẫn của các vị thầy chân chính. SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TRI THỨC VÀ THỰC HÀNH CHUYỂN HÓA Đa văn (多聞), hay quảng trị (廣知), bác học (博學) là những từ có ý nghĩa tương đương. Từ đa văn, đã xuất hiện trong ngôn ngữ cổ của Ấn Độ trước thời Đức Phật, nhưng Phật giáo sử dụng từ này tức chỉ cho những vị có sự học tập ghi nhớ và hành trì giáo pháp một cách chân chính. Như định nghĩa trong Tạp A-hàm: “Tỳ kheo nên biết, nếu nghe pháp mà đối với sắc phát sanh yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, thì đó gọi là đa văn. Cũng vậy nếu nghe pháp mà đối với thọ, tưởng, hành, thức phát sanh yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, thì gọi đó là đa văn” [13] (HT. Thích Đức Thắng dịch). Như vậy, đa văn tức là người sở hữu trí tuệ đến từ sự học tập trên phương diện hành trì tu tập hướng đến giải thoát. Ở đây có sự phân biệt rõ ràng với tri thức thế gian, vì nó không đưa đến chấm dứt khổ đau, do đó kiến thức trong Phật giáo chỉ nhằm mục tiêu phục vụ cho lý tưởng giải thoát và được thực chứng qua con đường hành trì tu tập. Thiết lập nền tảng tâm linh: niềm tin được phát triển trên cơ sở của kinh nghiệm và kiểm chứng qua quá trình phản tư Trong Abhayasutta (S.V.126), Đức Phật xác nhận rằng sự thấy và biết có nhân, có duyên, “nhờ thấy và biết” tức là trên cơ sở của tri thức xác định nảy sinh niềm tin chắc chắn rằng không có nguyên nhân thì không có hậu quả. Điều này ngụ ý rằng tất cả những thứ nhìn thấy đều có thể biết được, cũng như tất cả kiến thức của chúng ta đều dựa trên cơ sở thực nghiệm của sự tu tập như lý tác ý (yonisomanasikāra). Con đường từ niềm tin để đi đến sự thấy biết như thật được Đức Phật diễn tả trong Kitāgirisutta (M.70.183). Đức Phật có nói đến trí tuệ được học, được thực hành, tu tập một cách tuần tự: khi một người có lòng tin – đi đến gần – kính lễ – lóng tai – nghe pháp – thọ trì – suy tư ý nghĩa -…- nỗ lực – tinh cần. Do tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy (Như thực tri kiến). Điều đó chứng tỏ rằng sự giác ngộ trong mỗi chúng ta, tri kiến giải thoát hay thành tựu đạo quả là kết tinh từ quá trình tiếp nhận và hành trì giáo pháp một cách không gián đoạn, nền tảng giải thoát được xây dựng trên kinh nghiệm học tập và tích lũy qua quá trình phản tư. Tri – hành hợp nhất: con đường lý tưởng trong Phật giáo Toàn bộ con đường thực hành đạo đức Phật giáo chính xác cần được xây dựng trên nền tảng Như lý tác ý; hay ta có thể hiểu nó giống như Chánh kiến và Chánh tư duy trong Bát chánh đạo, đây chính là cốt lõi của trí tuệ ở trong Phật giáo. Trong Nhập bồ-tát hạnh – Bodhicaryāvatāra (BCA), ngài Śāntideva đã nhắc lại lời dạy của bậc Đạo sư: tất cả mọi đau khổ, tai nạn điều phát xuất từ tâm. Cho dù thực hiện các hành động tốt như tụng kinh, hay ép xác lâu ngài cũng đều vô ích nếu tâm tán loạn, chứa đầy tà kiến [14]. Chính bởi vì nhận thức đúng đắn sẽ đưa đến hành động đúng đắn, hành động đúng đắn sẽ dẫn đến kết quả tốt đẹp. Cách để phát triển như lý tác ý đó là học tập (văn), suy tư các pháp (tư) và tự thân tu tập kiểm chứng (tu). Nếu như nhận thức và hành động đạo đức được bắt nguồn từ ý chí tự do, vậy thì ý chí tự do cũng cần có điều kiện trợ duyên để cho nguồn lực ý chí đó tăng trưởng, chính sự thấy và biết là nguồn động lực để thúc đẩy sự tự do nhận thức và hành động đạo đức (M.2.15; S.II.29). Do đó, ngài Śāntideva nói rằng (BCA,VI.25): Như vậy, tất cả hành động xấu ác điều do nhân và duyên hòa hợp sanh khởi. Không có cái gì có thể phát sinh tự nó được. Ý nghĩa của câu này nói lên rằng, tất cả những hành động xấu ác hay thiện lành chúng xuất hiện điều có nguyên nhân, không phải không có nguyên nhân, do đó một khi chúng ta tìm hiểu được nguyên nhân nào khiến phát sinh những phiền não dẫn ta đến đọa lạc, thì tự thân mỗi người hoàn toàn có thể thực hành chuyển hóa những nguyên nhân xấu này, khiến nó trở nên tốt đẹp, thánh thiện. Trong BCA chương V, còn nêu lên mối quan hệ giữa sự giữ gìn tâm ý và sự thực hành giới luật. Bởi vì tâm ý hay nền đạo đức được thiết lập trên các giá trị hiện thực mà tối thiểu nhất chúng ta có thể cảm nhận và quan sát nó thông qua việc thực hành nền tảng đạo đức Phật giáo (giới luật). Một nền đạo đức nếu chỉ xây dựng trên các lý thuyết suông mà thiếu hẳn con đường thực hành hay sự kiểm nghiệm thì nền đạo đức đó không thể tồn tại bền vững được. Do đó, tri và hành là hai mặt không thể tách rời khỏi đời sống phạm hạnh của người xuất gia. Lý thuyết được kiểm nghiệm thông qua thực hành và quá trình thực hành xác nhận những kiến thức, đó mới thực là niềm tin khách quan, tiệm cận với chân lý. KẾT LUẬN
Thích Đức Trung/TCVHPG417
Chú thích: Tài liệu tham khảo:
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |