Chi tiết tin tức

Vedanā trong Duyên khởi

20:30:00 - 20/10/2025
(PGNĐ) -  Duyên khởi (pratītyasamutpāda), là nền tảng trong giáo pháp của Đức Phật. Nhấn mạnh tầm quan trọng của nó, Đức Phật đã nói: Người nào thấy được Duyên khởi là thấy Pháp. Người nào thấy Pháp là thấy Duyên khởi.1

Duyên khởi giải thích rằng luân hồi (sasāra), tiến trình của những kiếp sống lặp đi lặp lại, kéo dài không dứt bởi một chuỗi các mối liên kết nhân quả phụ thuộc lẫn nhau; lý Duyên khởi cũng tiết lộ phương pháp phá vỡ chuỗi này và chấm dứt tiến trình ấy. Đức Phật đã nói:

Con người với ta (ái) làm bạn đồng hành đã trôi theo dòng luân hồi từ thời vô thủy. Người ta sinh ra, trải qua nhiều loại đau khổ, chết đi chết lại và không kết thúc được tiến trình trở thành không gián đoạn này.2

Đây là sasāra, luân hồi, thế giới của khổ đau, như Đức Phật đã giải thích. Ngài còn nói thêm:

Hiểu biết đúng đắn về sự nguy hiểm của tiến trình này, nhận thức đầy đủ rằng ta, ái, là nguyên nhân của nó, thoát khỏi ái và dính mắc (thủ), người ta nên sống một cuộc sống xả ly một cách có ý thức (chánh niệm).3

Ngài nói rằng cách tiếp cận như vậy sẽ mang lại lợi ích to lớn:

Lạc thú là sức mạnh ràng buộc ở thế gian. 

Các tiến trình suy nghĩ luôn tiếp diễn là cơ sở luôn thay đổi của nó. 

Với sự tận diệt hoàn toàn của ái (thường được dịch là tham ái hay ái dục),

Đạt được trạng thái được gọi là nibbana, Niết-bàn.4

Những lời dạy này của Đức Phật mô tả bản chất của vòng luân hồi, trạng thái đau khổ và bản chất của Niết-bàn, trạng thái giải thoát cuối cùng. Nhưng làm thế nào để phát triển được tâm xả ly và diệt trừ được tham ái?

Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hành mà thức khởi sinh; phụ thuộc vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát sinh; do xúc mà thọ phát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ tiếp diễn.

Đây là khía cạnh thực tiễn của Pháp do Thái tử Siddhattha Gotama khám phá, sự chứng ngộ đã khiến Ngài trở thành một vị Phật, và sau đó Ngài đã giảng dạy cho thế giới lý (luật) Duyên khởi hay Duyên sinh.

Theo giáo pháp này, mười hai mắt xích tạo thành bánh xe của sự trở thành tái sinh hay luân hồi (bhavacakka), gồm có: vô minh (avijjā), hành (sakhāra, các hoạt động có chủ ý), thức (viññāa), danh sắc (nāma-rūpa, tâm-thân), lục nhập (saāyatana, sáu giác quan), xúc (phassa, tiếp xúc), thọ (vedanā, cảm giác), ái (tahā, tham-sân), thủ (upādāna, bám víu), hữu (bhava, trở thành), sinh (jāti), lão tử (jarā-maraa, già-chết).

Phụ thuộc vào vô minh mà hành khởi sinh; phụ thuộc vào hànhmà thức khởi sinh; phụ thuộc vào thức mà danh sắc, tức là tâm-thân phát sinh; tùy thuộc vào danh sắc mà lục nhập khởi sinh; nương vào lục nhập mà xúc phát sinh; do xúc mà thọphát sinh; do thọ mà tham ái phát sinh; do ái mà sinh ra thủ, hay dính mắc. Cứ thế cái vòng lẩn quẩn đau khổ này cứ tiếp diễn. Nói cách khác, nguồn gốc của mỗi liên kết (mắt xích) phụ thuộc vào mối liên kết/ mắt xích trước đó. Chừng nào chuỗi mười hai mối liên kết nhân quả này còn hoạt động thì luân hồi (bhava-cakka) vẫn tiếp tục quay, không mang lại gì ngoài đau khổ. Tiến trình nhân quả này được gọi là anuloma-paticcasamuppada (Luật Duyên khởi trực tiếp/ theo chiều thuận).

Mỗi mắt xích của anuloma đều dẫn đến dukkha, đau khổ, đó là kết quả của vô minh, là nền tảng của mọi mắt xích. Như vậy, quá trình anuloma làm sáng tỏ hai sự thật cao quý (Thánh đế) đầu tiên: dukkha-sacca, sự thật về khổ, và samudaya-sacca, sự thật về nguồn gốc và sự tăng trưởng của nó. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát ra khỏi bhava-cakka (vòng quay của sự trở thành hay luân hồi) của dukkha. Giải thích cách làm sao để thoát ra, Đức Phật dạy rằng khi bất kỳ mắt xích nào trong chuỗi bị đứt, luân hồi sẽ chấm dứt, dẫn đến chấm dứt đau khổ. Điều này được gọi là patiloma-paticcasamuppada (Lý Duyên khởi theo chiều nghịch) làm sáng tỏ sự thật cao quý thứ ba và thứ tư, nirodha-sacca sự chấm dứt đau khổ và nirodha-gaminl-patipada-sacca, sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. Làm thế nào để có thể đạt được điều đó? Dây xích có thể bị đứt ở mắt xích nào? Nhờ tuệ giác sâu sắc, Đức Phật khám phá ra rằng mắt xích cốt yếu là vedanā,thọ hay cảm giác. Trong anuloma-paticcasamuppada, Ngài nói “Vedanā-paccaya-ta”. Vedanā là nguyên nhân của ta, ái, tạo điều kiện cho dukkha, khổ đau sinh khởi. Để loại bỏ nguyên nhân của dukkha và ta, người ta không được phép để cho vedanā kết nối với (đưa đến) ta; nói cách khác, người ta phải thực hành thiền Vipassana vào thời điểm này để vô minh (avijja), trở thành minh (vijja) hay trí tuệ (paññā).

Hành giả phải quan sát vedanā, trải nghiệm và hiểu rõ sự thật về sự sinh diệt của nó, vedanā, vô thường. Bằng thiền Vipassana, khi một người trải nghiệm vedanā một cách đúng đắn, người ấy thoát khỏi ảo tưởng về nicca-saññā (tri giác hay nhận định về sự thường hằng) bằng sự phát triển của vedanā-bodha hay vedanā-vijja (sự hiểu biết hay trí tuệ về vô thường) đối với vedanā. Điều này được thực hành bằng cách bình tâm quan sát sự sinh diệt của vedanā . Với vedanā-bodha, thói quen của tâm thay đổi. Thay vì khuôn mẫu vedanā-paccaya tahā (cảm giác tạo duyên/ tạo điều kiện cho tham hay sân sinh khởi) trước đây, thông qua vedanā-vijja nó trở thành vedanā-paccaya paññā (cảm giác tạo duyên cho trí tuệ sinh khởi). Khi paññā trở nên ngày càng mạnh mẽ hơn, một cách tự nhiên, saññā, tưởng hay tri giác hay nhận định, và cùng với nó, ta, trở nên ngày càng yếu đi. Tiến trình nhân lên của đau khổ với nền tảng của vô minh sau đó trở thành tiến trình chấm dứt đau khổ, với vijja (minh hay trí) làm nền tảng. Khi tiến trình này tiếp tục, sẽ đến lúc có sự ngừng lại (chấm dứt) hoàn toàn của cảm giác và tham-sân – “Vedanā-nirodha, tahā-nirodho”. Trạng thái giải thoát này là một trạng thái vượt ra ngoài tâm và thân, nơi mà cả vedanāvà saññāđều chấm dứt.

Hành giả có thể trải nghiệm điều này trong vài giây, vài phút, vài giờ hoặc vài ngày, tùy theo khả năng của mình, đạt được nirodha-samapatti (trạng thái giải thoát, nhập Diệt thọ tưởng định) bằng cách thực hành Vipassana. Sau thời kỳ nirodha-samapatti, khi quay trở lại lĩnh vực giác quan của tâm và thân, người ta lại trải nghiệm vedanā. Nhưng bây giờ toàn bộ khuôn mẫu thói quen của tâm đã được thay đổi, và việc tiếp tục thực hành dẫn đến giai đoạn mà người ta không còn phát sinh ác cảm hay thèm muốn nữa vì anusaya (phiền não ngủ ngầm) và āsavas (lậu hoặc hay là những bất tịnh có gốc rễ sâu trong tâm thức) đã bị tận diệt. Theo cách này, bằng việc phá vỡ một mắt xích – vedanā, toàn bộ tiến trình bị phá vỡ và vòng luân hồi cũng bị phá vỡ hoàn toàn.

Nếu muốn tiến bộ trên con đường giải thoát, chúng ta phải làm việc (tu tập) ở cấp độ vedanā vì ở đây bánh xe đau khổ có thể được dừng lại. Với vedanā bắt đầu quay bhava-cakka (vòng tái sinh/ luân hồi), (vì avijja) đưa tới vedanā-paccaya ta, gây ra đau khổ. Đây là con đường mà những người u mê (puthujjana) đi theo, vì họ phản ứng với vedanā và tạo ra ta, tham-sân. Và từ đây cũng dhamma-cakka, hay bánh xe diệt khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada) có thể bắt đầu quay, dẫn tới vedanā-nirodhatahā-nirodho – sự chấm dứt thèm muốn, là kết quả của vedanā -vijja hay paññā, đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Đây là con đường mà những người khôn ngoan (sapaññā) đi theo bằng cách không phản ứng với vedanā, bởi vì họ đã phát triển vedanā-bodha nhờ thực hành Vipassana.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải là điều gì đó ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái và đau khổ, chúng ta phải đối mặt với thực tại của cảm giác ở bên trong. Đây là cách thiết thực để thoát khỏi đau khổ.

Nhiều người cùng thời Đức Phật có quan điểm rằng tham ái gây ra khổ đau và để diệt trừ khổ đau người ta phải tiết chế các đối tượng của tham ái. Sau khi học cách khảo sát sâu tâm thức, Đức Phật nhận ra rằng giữa đối tượng bên ngoài và phản xạ bằng tham hay sân trong tâm còn thiếu một mắt xích, đó là vedanā. Bất cứ khi nào chúng ta tiếp xúc với một đối tượng thông qua năm giác quan hoặc tâm, một cảm giác sẽ xuất hiện; và dựa trên cảm giác, tham ái phát sinh. Nếu cảm giác dễ chịu, chúng ta mong muốn kéo dài nó, và nếu cảm giác khó chịu, chúng ta mong muốn loại bỏ nó. Chính trong chuỗi Duyên khởi mà Đức Phật đã diễn đạt sự khám phá vĩ đại của mình.

Phụ thuộc vào sự tiếp xúc, cảm giác phát sinh.

Phụ thuộc vào cảm giác, tham ái phát sinh.5

Do đó, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của tham ái và đau khổ không phải là điều gì đó ở bên ngoài chúng ta mà là những cảm giác xảy ra bên trong chúng ta. Để giải thoát bản thân khỏi tham ái và đau khổ, chúng ta phải đối mặt với thực tại của cảm giác ở bên trong. Đây là cách thiết thực để thoát khỏi đau khổ. Bằng cách phát triển vedanā-vijja (tuệ giác về vô thường), chúng ta học cách cắt đứt những nút thắt của đau khổ và chứng kiến ​​bản chất thực sự của Dhamma. Như vậy, vedanā là nguyên nhân của sự ràng buộc của chúng ta khi không được quan sát một cách đúng đắn, và nó cũng là phương tiện giải thoát khi được quan sát một cách đúng đắn bằng cách hiểu biết Dhamma, lý Duyên khởi hay luật Duyên sinh.

Chân Thông Chiếu dịch

Nguồn: The Importance of Vedanā and Sampajañña, A Seminar Februery 1990 Dhamma Giri, Igatpuri (Hội thảo tháng Hai, năm 1990 Dhamma Giri, Igatpuri, Ấn Độ), t.1.

-------------------------------

Majjhima Nikaya 1.306

Suttanipata 745

3 Sđd. 746

Samyutta Nikaya 1.1.64

5 Mahavagga (Vinaya Pitaka)

Nguồn: GNO

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin