Ảnh hưởng của Phật giáo trong tác phẩm văn học thời trung đại ở nước ta (thế kỷ XV-XVIII)
19:20:00 - 13/04/2024
(PGNĐ) - Phật giáo thời Hậu Lê (thế kỷ XV-XVIII) được phục hưng và phát triển, ảnh hưởng tích cực đến nhiều lĩnh vực như: văn hóa, văn học, lịch sử của dân tộc, đồng thời tạo ra sức mạnh đoàn kết dân tộc. Trong đó ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong văn học là điển hình với nhiều tác phẩm văn học trở thành kiệt tác trong nền văn học Việt Nam. Các tác gia gồm những thiền sư, danh Tăng trong Phật giáo và các Phật tử, cư sĩ. Tiêu biểu như tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thiền sư Phổ Chiêu Phạm Thái với những tác phẩm thể hiện sự cách tân mới về nghệ thuật sáng tác thơ, Đào Duy Từ với nhiều sáng tác mang ảnh hưởng của Phật giáo tạo nên nét sắc riêng trong thơ ca của ông.
CÁC TRƯỚC TÁC VĂN HỌC PHẬT GIÁO TIÊU BIỂU Văn học Việt Nam thời Hậu Lê có nhiều tác giả và tác phẩm quan trọng, với thể loại, như: Văn học dân gian (thơ, truyện thơ lục bát) và văn học viết cùng tồn tại, phú, chiếu, biểu, văn bia, truyện ký, cáo, chính luận. Chữ Nôm phát triển và xuất hiện nhiều trong các sáng tác văn học vào thời kỳ này. Văn học Trung đại là đỉnh cao của văn học chữ Nôm, xuất hiện nhiều tác phẩm được sáng tác bằng chữ Hán-Nôm là kiệt tác trong văn chương, góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm phong phú đa dạng. Các sáng tác văn học thời Hậu Lê mang dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn học phong kiến của Việt Nam. Nội dung văn học Trung đại phản ánh đời sống chính trị, xã hội và văn hóa tinh thần nhân dân ta thời bấy giờ.
Các tác phẩm văn học Phật giáo của các thiền sư, chư Tăng Phật giáo, người am hiểu Đạo Phật hoặc tín đồ Phật tử theo Đạo Phật cũng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình văn học Việt Nam. Nội dung văn học Phật giáo mang tính chất giải thoát tâm linh, chủ yếu viết về đời sống tu tập, cuộc sống hiện thực với quan điển triết lý của Đạo Phật, một số sáng tác còn bộc lộ tâm trạng, thái độ của Phật giáo đối với cuộc đời. Các tác phẩm đa số được trước tác bằng hệ thống chữ Nôm, với thể loại: kệ, thơ Thiền, ca, ngâm, phú, truyện thơ Nôm lục bát, thơ Đường luật, thơ tứ ngôn…
Các tác giả thiền sư với các tác phẩm tiêu biểu vào thời này như có thể kể đến: Thiền sư Viên Thái (1400-1460) có dịch thuật bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục. Thiền sư Pháp Tính (1470-1550) dịch Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục ra tiếng Nôm và viết Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Thiền sư Minh Châu Hương Hải có các tác phẩm mà đời sau tập hợp lại trong Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Sự lý dung thông. Thiền sư Chân Nguyên hiệu đính lại các tác phẩm văn học Phật giáo thời Trần của thiền phái Trúc Lâm và trước tác nhiều tác phẩm có giá trị bằng chữ Quốc ngữ (chữ Nôm) như [1]: Thánh đăng ngữ lục, Thiền tông bản hạnh, Kiến tánh thành Phật… Thiền sư Toàn Nhật có các tác phẩm được hậu thế sưu tầm trong Toàn Nhật Quang Đài toàn tập, Hứa Sử truyện vãn. Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1690-1728) trước tác các tác phẩm: Sa di thập giới quốc âm, Ngũ giới quốc âm, Phật tâm luận, Kiến đàn giải uế nghi, Mãn tán tạ quá nghi. Thiền sư Pháp Chuyên Luật Truyền (1726-1798) trước tác khoảng 18 tác phẩm như: Diệu nghiêm Lão tổ thi tập, Tam bảo biện hoặc luận, Chiết nghi luận tái trị, Thiện ác quy cảnh lục… Thiền sư Phổ Chiêu Phạm Thái (1777-1813) có tác phẩm Chiến tụng Tây Hồ phú, truyện thơ Nôm Sơ kính tân trang… Ngô Thì Nhậm với tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh thể hiện Tam giáo đồng nguyên; thi kệ, ngữ lục của Thiền sư Liễu Quán, Thiền sư Nguyên Thiều… Các tác gia thế tục như Nguyễn Trãi với một số bài viết về Phật giáo trong Ức Trai thi tập và quốc âm thi tập. Tác gia Lê Thánh Tông có Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Thánh Tông di thảo, Hồng Đức quốc âm thi tập. Tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Tác gia Nguyễn Gia Thiều có Cung oán ngâm khúc. Nguyễn Du với Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sanh, Lương Chiêu Minh Thái tử phân kim thạch đài. Lê Quý Đôn có sách Kiến văn tiểu lục vàChú giải Kinh Kim cương.
ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI Đạo Phật khởi nguyên từ nước Ấn Độ do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Với hệ thống giáo lý gồm Tam tạng Kinh điển (Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng). Mục đích của Đạo Phật là: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” đã thể hiện tính chất từ bi, bình đẳng của Đạo Phật. Không phân biệt giai cấp, không phân biệt vùng miền, màu da. Thông qua các triết lý: Tứ diệu đế, Thập nhị Nhân duyên, Duyên khởi, Vô ngã,… Đạo Phật luôn hướng đến việc hóa giải khổ đau của con người do vô minh, sai lầm, mà chưa giác ngộ bằng cách chỉ rõ về sự khổ, nguyên nhân của sự khổ đau, sự an lạc hạnh phúc và con đường đưa đến sự an lạc cứu cánh. Bên cạnh đó là phát triển những hạt giống thiện lành trong tâm thức gọi là “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (không làm các điều ác, luôn làm các điều lành) với phương châm “Duy tuệ thị nghiệp” (luôn luôn lấy trí tuệ làm sự nghiệp), tức là luôn lấy trí tuệ sáng soi trong mọi công việc của mình và từ đó góp phần cho cuộc đời ngày càng thêm sáng tươi.
Thời Hậu Lê, Phật giáo được phục hưng và phát triển. Vào giai đoạn Lê Trung Hưng, đất nước bị chia đôi Đàng Trong và Đàng Ngoài, các vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn thường xuyên xảy ra các cuộc giao tranh, đời sống nhân dân cũng vì vậy mà trở nên khó khăn. Phật giáo đã được nhân dân và giới trí thức đương thời rất ưa chuộng và quay về nương tựa trong đời sống sinh hoạt tâm linh của mình. Điều này thể hiện rõ nét trong các tác phẩm văn học. Chính triết lý của Phật giáo đã phần nào hóa giải những nỗi niềm khổ đau trong cuộc sống của họ. Hơn nữa, tính chất Từ bi-bình đẳng của Đạo Phật đã giúp mỗi cá nhân trong xã hội tự ý thức giáo dục về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm của mình. Thời kỳ này, văn chương cũng chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, có nhiều tác phẩm do nhân vật có liên hệ với lịch sử viết ra, hoặc lấy các việc đương thời làm đề mục [2]. Trong bối cảnh đó, các trước tác văn học Phật giáo của các thiền sư cũng đóng vai trò quan trọng, góp phần lớn vào tiến trình văn học dân tộc.
Nếu Nguyễn Trãi nhiều lần đọc Pháp Bảo Đàn Kinh từng viết “Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy,/ Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm” (Du Nam Hoa tự), Nguyễn Du sau này đã viết “Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh” (Tụng đọc Kinh Kim Cương hơn nghìn vạn lần), thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài Độc Phật kinh hữu cảm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ, thế kỷ XVI, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Ông chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác [3]. Sau khi từ quan về quê, ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày, ông cùng với vài nhà sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền học nước ta. Khi thăm chùa Phổ Minh, ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia: “Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại” (Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời) (Du Phổ Minh tự). Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức được tư tưởng Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp ở Kinh Kim Cang [4]. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc [5].
Thiền học Luy Lâu không còn, và nên không còn được hiểu là khởi nguyên của Thiền học Việt Nam, mà là suối nguồn của Thiền học Việt Nam. Có lẽ Phật giáo Việt Nam cần trở về cội nguồn của Luy Lâu và Yên Tử để tìm thấy mình và bắt gặp lại niềm tin và tự hào lịch sử trước khi có thể mở ra hướng phát triển cho hiện tại.
"Nói đến cuộc sống là vô biên không thể kể xiết nào là vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, mệt nhọc, sung sướng… nhưng điều tất yếu là ta phải biết nhận diện nó, để rồi chuyển hoá nó thì tự nhiên cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, thong dong hơn, đừng nói gì đến “Mỗi lần nêu ra một lần mới”. Ví như ban nãy tôi đang đứng giữa trời đất đưa tay chỉ bầy chim én bay lượn trên cao, tay vừa đưa lên thì chúng đã bay xa. Cho nên mỗi chúng ta đừng vội vàng đi tìm cầu mà hãy trân quý cuộc sống trong hiện tại cho thật thi vị nhiệm mầu". (Trích Tâm quán tình người, Thích Pháp Bảo)
Trong các loài hoa báo xuân thì mai là người gõ cửa, khi chỉ mới vào độ đầu tháng Mười một âm lịch đã thấy lác đác những nụ mầm bật lên, e ấp trong gió đông còn đang xám xịt giữa cô liêu rét buốt, ẩm ướt mưa phùn. Nhưng, phải đợi đến tận những ngày cuối tháng Chạp, mai mới ủ đủ nhựa cho một đợt mãn khai đón Tết đến, xuân về.
Từng lời, từng câu, từng chữ trong bài: Đôi dòng xúc cảm của tác giả Minh Hà đều chất chứa biết bao tình cảm thiêng liêng của người viết. Nó dường như mang nặng trong lòng của những người con Phật về bốn ân to lớn trong đời sống của mình, đó là ân Quốc gia, xã hội; ân Sư trưởng; ân phụ mẫu và ân vạn loại chúng sinh. Từ đây, tác giả đã bước chân vào con đường đạo, từ bỏ mọi danh lợi thế gian, sống một đời sống phạm hạnh, tri túc thường lạc, với mong muốn giản dị là đem lại sự an vui và hạnh phúc mọi người.
Dù em là ai đi chăng nữa, nhưng trong em luôn có tâm thiện, sống có đạo đức thì đó chính là mình có hiếu với bố mẹ rồi. Nói chung, việc báo hiếu nó biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau em ạ. Chứ không phải đi tu là bất hiếu, và lập gia đình là có hiếu đâu em nhé.
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội, sáng ngày 14.5.2008 đã khẳng định:
Bình yên không có nghĩa là đi đến một nơi không có tiếng ồn, không có khó khăn, không cực nhọc. Bình yên là giữa một không gian yên ả, thanh bình, chỉ có tiếng chuông chùa buông trong thinh không làm tâm ta tĩnh lặng, dễ chịu. Bình yên là khi ta biết tìm về với Phật, tìm về nương náu dưới ngôi Tam Bảo để tu thân hành thiện, để cho cuộc đời mình sống có ý nghĩa hơn.
Ăn cũng là một giải pháp của tiến hoá trong mục đích duy trì sự tuôn chảy của dòng sông sự sống vô hình, bằng cách các sinh vật phải chiếm đoạt sinh-khối của nhau để duy trì cuộc sống. Hiện tượng này tạo thành khái niệm sinh học về "chuỗi thức ăn" hoặc "tháp thức ăn" trong sinh quyển . Ăn là hiện tượng tự nhiên như nó là, ăn là một điều-kiện-tính của tồn sinh và ăn đã điều-kiện-hoá sự tồn sinh của mọi cá thể, mọi loài sinh vật.