Chi tiết tin tức Nét xưa giữa lòng phố núi 22:03:00 - 15/07/2022
(PGNĐ) - Trải qua bao thăng trầm, bị tác động bởi thời gian, khói lửa chiến tranh, tổ đình Bác Ái vẫn giữ được những nét xưa vốn có của mình giữa lòng phố núi Kon Tum.
Ngôi chùa kiến trúc kiểu Huế cổ xưa nhất ở Kon Tum Theo Đại đức Thích Đồng Tri, trụ trì tổ đình Bác Ái, thì lý lịch chùa Bác Ái năm 1963, do các tác giả Nguyễn Dung, Hà Thị Mỹ biên soạn có ghi rõ, tổ đình Bác Ái được xây dựng vào năm 1933, do ông Võ Chuẩn là Huấn đạo của tỉnh Kon Tum bấy giờ đứng ra thiết kế. Đây cũng là dấu tích ghi lại câu chuyện khai ấp mở làng của người Việt di dân vào tỉnh Kon Tum vào những năm 1931-1932.
Thời điểm đó, miền Trung bị hạn hán, tình trạng mất mùa, đói kém khắp nơi. Người dân Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã quyết định di dân đến vùng đất cao nguyên Kon Tum ngày nay. Theo miêu tả trong sách “Người Ba Na ở Kon Tum” thì “cuộc di dân của người An Nam lên đây đã gặp phải nhiều điều khó khăn; mà điều trở ngại lớn nhất là các bệnh hoạn ở đường rừng như sốt rét, kiết lỵ… đã giết không biết bao nhiêu người mà kể”. Cũng theo Kon Tum tỉnh chí, vùng đất này tứ phía là rừng già bao phủ, thiên nhiên còn hoang dã, dân nơi khác đến rất khó thích nghi, người chết thì nhiều, sinh ra lại ít.
Trước tình hình như vậy, năm 1933, người dân hai làng Lương Khế và Trung Lương làm đơn trình lên quan Quản đạo Kon Tum là cụ Võ Chuẩn, xin lập chùa để thờ Phật và quy y cho các vong linh của người đã chết trên xứ này. Vấn đề này được trình bày với quan Công sứ là Đại uý Quénin, ông đã đồng ý cho tiến hành và còn hỗ trợ nhân lực là 60 phạm nhân dọn vén, đốn cây và phá gốc, hơn hai tháng mới xong.
Thành viên trong ban sáng lập chùa bấy giờ gồm những người làm trong công sở Nhà nước lúc bấy giờ đứng ra chịu trách nhiệm chính như: Võ Chuẩn, Tôn Thất Như, Đội Cầm, Nguyễn Dung, Phán Tịnh, Võ Gia Du, Tôn Thất Minh, Bùi Quang Túc, Nguyễn Dung, Hà Thị Mỹ, Tôn Nữ Thị Lịch… Trong đó, người đại diện trên mặt giấy tờ để xin phép thành lập chùa là ông Tôn Thất Như, còn trách nhiệm thiết kế bản vẽ và lo việc điều hành xây dựng chùa thì do ông Võ Chuẩn thực hiện.
Theo thiết kế ban đầu, chùa gồm nhiều hạng mục như chánh điện nằm ngay vị trí trung tâm khu đất, bao quanh hai bên hông chánh điện là vị trí của trai đường và khách đường, nối tiếp là hai dãy nhà Đông lang và Tây lang, chùa thiết kế theo hình chữ "môn" (門). Vị trí chùa nằm trên một gò đất cao, lưng tựa vào khu rừng già phía Bắc với chiều dài 202 m, mặt hướng ra phía Nam với chiều dài 162 m, phía trước chùa là phần đất thấp có một con suối nước chảy quanh năm, diện tích đất khi mới thành lập là 26.943m2.
Chánh điện được khởi công vào đầu tháng 7-1933, đến tháng 9-1933 thì hoàn thành. Chùa Bác Ái khi mới thành lập lấy tên là “Linh Sơn” (đến năm 1933 thì đổi thành Sắc tứ Bác Ái tự) có kiến trúc theo kiểu nhà cung đình Huế 5 gian 2 chái, chia làm 3 tầng, từ ngoài nhìn vào theo kiểu chữ Tam (三), theo thứ tự từ thấp đến cao gồm thiêu hương hay còn gọi là tiền đường, điện trung và điện thượng. Toàn bộ kết cấu cột kèo, rường, vì, đà, mè… đều bằng gỗ quý như sao xanh, cà chít. Tường vách trét đất, đây là kiểu xây dựng thịnh hành thời bấy giờ.
Có thể nhận định đây là kiến trúc đầu tiên theo phong cách Huế, lâu đời nhất và độc đáo, lạ mắt với người dân nơi đây. Điều này cũng được tác giả Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi miêu tả như sau: “Người lương cũng mới cất một ngôi chùa kiểu cách rất ngộ nghĩnh gọi là chùa Bác Ái, có lẽ là ngôi chùa An Nam thứ nhất ở phía Tây dãy Trường Sơn”.
Nơi lưu dấu nhiều dấu tích xưa Khi ngôi chùa được xây xong, bà Hà Thị Mỹ, vợ của ông Tôn Thất Như, là người được giao trách nhiệm xuống Bình Định thỉnh Hòa thượng Thích Hoằng Thông, Trụ trì chùa Bạch Sa, lên làm lễ kỳ siêu chẩn tế cô hồn và chứng minh lễ khánh thành chánh điện vào ngày 27-10-1933. Hòa thượng Hoằng Thông đã cử đệ tử là thầy Từ Vân vốn thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42, pháp danh Thị Niệm lên Trụ trì chùa Bác Ái.
Ngày 3-10-1933, vua Bảo Đại ban biển “Sắc tứ Bác Ái Tự” với nội dung sắc tứ gồm có: Một con dấu bằng gỗ có khắc 5 chữ bằng chữ Hán “敕賜博愛寺” và một biển ngạch hoành phi với nội dung “敕賜博愛寺 (Sắc tứ Bác Ái Tự)”.
Sau đó, vua ban tặng thêm một đại hồng chung với đường kính dài 45 cm, cao 74 cm, trên chuông có ghi chú thời gian tạo như sau: “明 命 柒 年 捌 月 吉 日 奉 鑄。武 師 廟 鍾 重 壹 百 陸 觔” (Minh Mạng thất niên bát nguyệt cát nhựt phụng chú. Võ Sư miếu chung trọng nhứt bách cân), nghĩa là chuông này đúc vào tháng 8 năm 1926, đời vua Minh Mạng năm thứ 7, chuông này trước đó đặt tại Võ Sư miếu, nặng 106 ký.
Cũng trong dịp này, Đức Thánh Cung cũng ban tặng pho tượng Quan Âm bằng gốm men rạn cao 45 cm, có niên đại vào thế kỷ XVI, xuất xứ từ Nhật Bản. Bức tượng này hiện vẫn còn được lưu giữ tại chùa. Ngoài ra, còn có Khôn Nghi Xương Đức thái hoàng thái hậu sắc tứ cho một bức ngự dung có châu phê, bửu ấn và một bức bửu tán bằng gấm; Đoan Huy hoàng thái hậu sắc ban cho hai cặp tràng phan bằng gấm.
Hiện nay, kiến trúc chùa Bác Ái vẫn được giữ nguyên vẹn như thuở ban đầu. Sắc tự, bức tượng Quan Âm, lư hương, cặp hạc, voi, chiếc phản gỗ... vẫn là một trong những món đồ còn được giữ nguyên vẹn nơi đây.
Trong khuôn viên chùa còn lưu giữ trụ gỗ cà chít, đánh dấu nơi chôn cất thi hài của 5 binh sĩ Nhật Bản tự sát năm 1945 và tấm bia kỷ niệm quan Công sứ người Pháp Quénin được xây vào năm 1936.
Tổ đình Bác Ái còn có ý nghĩa rất lớn đối với lưu dân người Kinh khi đến với mảnh đất Kon Tum sinh cơ lập nghiệp. Đây là cơ sở để họ tìm đến giáo lý Phật giáo, truyền thống xưa của ông cha, từ đó làm phong phú thêm những giá trị văn hóa tâm linh của mình trên mảnh đất Kon Tum. Đấy là những giá trị nổi bật mà tổ đình Bác Ái có được trong tiến trình hình thành, tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay.
Với những đóng góp to lớn về mặt lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng...góp phần làm phong phú thêm vốn di sản văn hoá của địa phương và tư liệu quý phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử, địa chí tỉnh nhà, tổ đình Bác Ái đã được UBND tỉnh Kon Tum quyết định công nhận là di tích lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Đây là thuận duyên lớn để góp phần bảo tồn những giá trị xưa mà Phật giáo đã lưu lại.
Quảng Đạo
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |