Chi tiết tin tức Sự giao thoa giữa Phật giáo và Chu Dịch trong triết học Trung Quốc 22:13:00 - 10/06/2024
(PGNĐ) - Chu Dịch là một trong những kinh điển bản địa được dùng để giải thích giáo lý của đạo Phật và ngược lại, dùng triết học Phật giáo để giải thích Chu Dịch.
DẪN NHẬP SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHU DỊCH ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO Theo tài liệu lịch sử hiện có [1], Khương Tăng Hội thời Tam Quốc là người đầu tiên sử dụng Kinh Dịch để giải thích Phật giáo. Khương Tăng Hội truyền giáo ở nước Ngô, vua Ngô không tin Phật pháp, hỏi rằng: “Phật giáo nói về thiện ác báo ứng, điều đó có đúng không?”. – Khương Tăng Hội trả lời: “Kinh Dịch nói rằng tích thiện ắt có phúc báo; Kinh Thi nói: ‘Cầu phúc không trở về’. Mặc dù đây là lời răn trong Nho giáo, nhưng cũng là lời dạy rõ ràng của Phật giáo”. Tại đây, Khương Tăng Hội đã liên kết quan điểm về nhân quả báo ứng của Phật giáo với tư tưởng tích thiện ắt có phúc báo, tích ác ắt có tai ương trong Kinh Dịch. Đây là một cách “quyền thuyết” mượn Kinh Dịch để giải thích Phật giáo. Khi nhận thức về Phật giáo ngày càng sâu sắc, nhiều tông phái Phật giáo đã sử dụng Kinh Dịch như một tác phẩm triết học của Nho giáo để tiếp tục dung hòa triết học Phật giáo với Nho học. Ví dụ: Lý Thông Huyền [3] thuộc tông Hoa Nghiêm đã sử dụng Kinh Dịch để giải thích Kinh Hoa Nghiêm, đặc biệt là sử dụng ý nghĩa của quẻ Càn để giải thích, ảnh hưởng lớn đến các học giả thời Tống. Tông Mật, vị tổ thứ năm của Hoa Nghiêm và là đệ tử đời thứ tư của Thiền phái Hà Trạch, đã so sánh Càn với Đức Phật, Ngũ thường với Ngũ giới, cố gắng truyền bá Phật pháp bằng cách sử dụng Kinh Dịch. Tuy nhiên, trong số những người có mối quan hệ mật thiết nhất với Kinh Dịch, có thể kể đến hai trường phái: Pháp Tạng thuộc tông Hoa Nghiêm chú trọng vào nghĩa lý và Thiền tông Tào Động chú trọng vào tượng số. Một nhánh của Thiền tông “Ngũ diệp” [5] là Tào Động tông, từ Thạch Đầu Hi Diên đến Tào Sơn, họ đã tiếp cận Dịch học thời Hán từ tác phẩm “Tham Đồng Khế” của Viên Bá Dương, đưa mô hình tượng số của Dịch học vào Phật giáo, đồng thời mượn lý thuyết Âm Dương giao cảm của Dịch học để diễn đạt ra các loại Viên tướng và Quẻ đồ khác nhau nhằm giải thích mối quan hệ giữa lý và sự, thể và dụng. Hi Diên được gợi ý từ quẻ Ly và quẻ Khảm trong “Chu Dịch Tham Đồng Khế”, ông đã đưa hai quẻ này vào Thiền môn, sử dụng “Ly minh Khảm ám” để giải thích mối quan hệ giữa sáng và tối, giữa lý và sự. Thiền sư Bản Tịch của Tào Sơn sử dụng biểu đồ hình tròn năm màu đen trắng để biểu thị “Ngũ vị quân thần”. Thiền sư Nguyên Hiền thuộc dòng Tào Động đã chú giải cho tác phẩm “Tham Đồng Khế” của Thạch Đầu Hi Diên. Ông chú trọng vào bốn quẻ Càn, Khôn, Tốn, Đoài xuất phát từ quẻ Ly, cùng với quẻ Ly tạo thành “Ngũ vị quân thần đồ” mới với các vị trí: chính trung phiến, phiến trung chính, kiêm trung chí, kiêm trung đáo, chính trung lai [6]. Ngũ vị tổng đồ dung hợp “A-lại-da thức viên tướng đồ” của Quế Phong Tông Mật và “Ngũ vị quân thần đồ” của Tào Động tông, thể hiện mối quan hệ vừa thống nhất vừa tương tác giữa thể và dụng, lý và sự. Tông Mật sử dụng đạo sinh thành vũ trụ của Dịch lý “Thái Dịch → Thái Cực → Lưỡng Nghi” để so sánh với đạo duyên khởi sinh thành vạn pháp của Phật giáo “A-lại-da thức → Nghiệp tướng nhất niệm → Tâm cảnh tam phân”. Do bản thân tượng số của Chu Dịch đã rất huyền bí, nên tượng số Phật giáo được cải biến từ tượng số của Chu Dịch càng trở nên bí ẩn khó lường. Do đó, tư tưởng Thiền học của tông Tào Động cũng ngày càng trở nên khó hiểu và khó giải thích. Một vị cao tăng khác là Trí Húc [7] đã chứng kiến sự suy tàn của các tông phái Phật giáo khác ngoài Tịnh Độ tông. Đặc biệt là Thiền tông, với truyền thống “truyền tâm ấn tâm, bất lập văn tự” đã bị biến tướng một cách tồi tệ. Các thiền sư không học kinh, không thiền định, chỉ dùng những lời quát mắng, gõ mõ để thị uy. Qua hàng trăm năm lưu truyền, những lời quát mắng này đã mất đi ý nghĩa ban đầu, trở thành trò lừa bịp của những kẻ vô học để che đậy sự thiếu hiểu biết của mình, khiến những người có tri thức vô cùng phẫn nộ. Về vấn đề này, Vân Thê Châu Hoằng [8] từng mỉa mai rằng: “Người xưa quát mắng, chỉ để khơi gợi tâm trí con người. Một lời quát mắng, khiến người ta bừng tỉnh. Không như người nay, lấy việc đánh đập người khác làm trò tiêu khiển.” Trí Húc đại sư tự nhận mình là “bác sĩ cứu Thiền” và đưa ra “phương thuốc cứu Thiền” gồm hai phương diện. Về nội bộ Phật giáo: Dung hòa các tông phái, nhấn mạnh sự kết hợp giữa tính và tướng, Thiền và Giáo, Thiền và Tịnh. Về bên ngoài Phật giáo: Chủ trương Nho – Phật là một, Tam giáo đồng nguyên. Ông chủ trương lấy Phật giải Nho, dùng Phật giáo để giải thích Nho giáo. Trong tập sách “Linh Phong Tông Luận” của ông, có rất nhiều ví dụ về việc dùng Phật giáo để giải thích Kinh Dịch. Ông viết “Chu Dịch thiền giải”, dùng Phật giáo để giải thích Kinh Dịch, nhưng thực ra ông đang mượn “xác” của Kinh Dịch để trả lại “hồn” cho Thiền tông. Điển hình nhất là ông đã lồng khái niệm Tứ tất đàn [9] vào trong tác phẩm của mình, dùng hình ảnh Âm Dương của Phục Hy để giải thích “Thế giới tất đàn”, là phương pháp tùy thuận thế gian, tức là dùng những quan niệm và ngôn ngữ chung của thế gian để giải thích đạo lý duyên khởi. “Phục Hy chỉ vạch ra quẻ mà không có lời, lập ra hình ảnh Âm Dương, tùy theo người mà giải thích, đó là Thế giới tất đàn” [10]. Ông lại dùng ý nghĩa Thoán Từ của Văn Vương để giải thích “Vị nhân tất đàn”, là ứng với căn cơ riêng biệt của chúng sinh, nói về các pháp môn tu tập xuất thế, khiến chúng sinh phát khởi thiện căn. “Thoán Từ của Văn Vương, cát nhiều mà hung ít, nêu ra đại cương để sinh thiện, đó là Vị nhan tất đàn” [11]. Trí Húc đại sư dùng lời giải thích của Chu Công về hào từ để giải thích “Đối trị tất đàn”, là đối với lòng tham, sân, si của chúng sinh, ta nên đối trị chúng bằng cách sử dụng đúng “thuốc” cho đúng “bệnh”, giúp chúng sinh đoạn trừ mọi điều ác. “Hào từ của Chu Công, răn nhiều mà cát ít, biến đổi mọi trạng thái để khuyên răn trừng phạt, đó là Đối trị tất đàn” [12]. Ông dùng học thuyết Thập Dực của Khổng Tử để giải thích “Đệ nhất nghĩa tất đàn”, tức là phá trừ mọi ngôn ngữ, trực tiếp dùng nghĩa lý chân thực để giải thích bản chất của vạn pháp, khiến chúng sinh thực sự “khế nhập giáo pháp”. “Thập Dực của Khổng Tử, hội tụ học thuyết nội thánh ngoại vương, đó là Đệ nhất nghĩa tất đàn.” [13] Ở một đoạn khác, Trí Húc đại sư đã khéo lồng ghép các khái niệm “Thường, lạc, ngã, tịnh” vào trong “Nhân, nghĩa, lễ, trí”: “Nếu đem so sánh với Phật pháp thì Nhân là đức Thường, vì thể không thiên lệch vậy; Lễ là đức Lạc, vì đầy đủ trang nghiêm vậy; Nghĩa là đức Ngã, vì được tự tại vậy; Trí là đức Tịnh, vì không bị hôn ám vậy. Nếu tương nhiếp tương hợp thì Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí là hằng tính cho nên Thường; Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đem ra thụ dụng cho nên Lạc; Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí tự tại mãn túc cho nên Ngã; Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí không tạp loạn không ố bẩn cho nên Tịnh. Lại nữa, bốn đức này không ố bẩn cho nên gọi là Nhân; bốn đức này đều đầy đủ hoàn bị cho nên gọi là Lễ; bốn đức này thu nhiếp lẫn nhau cho nên gọi là Nghĩa; bốn đức này tạo nên tất cả các pháp bản cho nên gọi là Trí.” [14] SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO VỚI CHU DỊCH Trước khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, Dịch học được xem là một triết lý hướng đến sự giác ngộ và chân lý. Tuy nhiên, sau khi Phật giáo du nhập, tư tưởng huyền bí trong Dịch học đã được sử dụng để thể hiện trí tuệ siêu phàm của Phật giáo. Ví dụ, phương pháp nhận thức “cảm” trong Dịch học đã vô tình thay thế cho phương pháp nhận thức lý tính của Phật giáo. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, mọi người bắt đầu nhận ra rằng Chu Dịch chứa đựng những lý lẽ huyền vi, nhưng tượng quẻ không thể hiển thị rõ ràng những lý lẽ này, và tất cả ngôn ngữ trong Dịch cũng không thể biểu đạt đầy đủ ý nghĩa của tượng quẻ. Tượng quẻ là mô phỏng hình dạng của sự vật, mục đích của việc lập tượng là để thể hiện ý, và ngôn ngữ là để thông hiểu các ý nghĩa này. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt thì khó có thể để cho người học lĩnh hội được ý nghĩa sâu xa của Dịch. Như Nguyễn Duy Cần từng than: “[…] Nhưng đọc Dịch rất khó. Khó nhất là sự quan trọng của Dịch không phải ở “lời” mà ở “tượng” và “số”, không phải ở “tượng” và “số” mà ở “ý”, “ý tại ngôn ngoại” […] Kẻ học hiểu được ở lời thì chỉ hiểu được ở phần thiển cận, mà khi nào hiểu được phần tượng mới mong đạt đến phần tinh thâm diệu nghĩa của nó mà thôi. Thật vậy, có đọc “lời” mới đạt đến chỗ “không lời” của sách Dịch” [16]. Tư tưởng “ngôn bất tận ý” (lời nói không thể diễn tả hết ý nghĩa) đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận Dịch học. Mọi người nhận ra rằng quẻ tượng và hệ từ trong Dịch học không thể biểu đạt đầy đủ ý nghĩa, dẫn đến việc đề cao “đắc ý vong ngôn” (hiểu được ý nghĩa thì nên quên lời nói). Ngôn ngữ được xem như một công cụ để nhận thức Phật pháp, chứ không phải là bản thân Phật pháp. Quan điểm “ngôn bất tận ý” cũng ảnh hưởng đến triết học Phật giáo. Ngôn ngữ được xem như một trò chơi chữ nghĩa, là thuyền để qua sông, là ngón tay chỉ mặt trăng, giúp chúng ta nhận thức được Phật pháp trong trò chơi ngôn ngữ. Nhiều công án trong lịch sử Thiền tông sử dụng đối thoại phi lý để giúp đối phương ngộ đạo, chính là lợi dụng tác dụng trò chơi của ngôn ngữ. Vương Bật có thể chịu ảnh hưởng sâu sắc từ “thuyết trò chơi ngôn ngữ” trong triết học Phật giáo, và đề xuất “đắc ý vong ngôn”, nghĩa là sau khi nhận thức được ý nghĩa của tượng quẻ thông qua ngôn ngữ, người học có thể từ bỏ mọi lời giải thích về quẻ, thậm chí cả tượng quẻ cũng nên được từ bỏ. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, các nhà Nho thời Hán cũng nghiên cứu Dịch học theo hướng trừu tượng hóa. Trước thời Nhị Trình, Nho học thời Tống có thể chia thành hai phái: tượng số và nghĩa lý. Phái tượng số lấy Lưu Mục, Chu Đôn Di, Thiệu Ung làm đại diện, họ lấy thuyết vũ trụ sinh thành của Đạo giáo làm nền tảng lý luận, lấy tượng, số, đồ thư của Kinh Dịch làm hình thức để giải thích thế giới. Phái nghĩa lý bao gồm: Phạm Trọng Yêm, Hồ Ẩn, Âu Dương Tu, Lý Lượng, Vương An Thạch, Trương Tải, họ kế thừa phương pháp giải thích Kinh Dịch bằng nghĩa lý của Vương Bật, nhưng khác với Vương Bật là dùng Lão Trang để giải thích Kinh Dịch, phái nghĩa lý lại giải thích Dịch theo truyền thống Nho học. Tuy nhiên, dù là phái tượng số hay nghĩa lý, đều chưa giải quyết được vấn đề thống nhất thế giới quan và nhân sinh quan. Trong đó, phái tượng số như Chu, Thiệu thiên về vũ trụ quan, và sa vào thuật số; phái nghĩa lý chỉ xoay quanh việc thảo luận về “Thái cực là gì”, và dựa trên nhận thức của bản thân mà lần lượt đưa ra lý, khí, tâm để giải thích Thái cực, đồng thời từ bỏ việc sử dụng ngôn ngữ để diễn giải Kinh Dịch, trên thực tế là đơn giản hóa và hạ thấp Kinh Dịch. Mãi đến thời Nhị Trình mới kết hợp Nho, Phật, Đạo để giải thích Kinh Dịch, lấy lý làm trung tâm liên kết vũ trụ và cuộc sống, thế giới quan và đạo đức, từ đó xây dựng nên bộ khung cơ bản của Lý học. Sau Nhị Trình, Chu Hi, Lục Cửu Uyên, Vương Dương Minh đều xuất phát từ Nhị Trình, hình thành nên hệ thống Lý học duy tâm khách quan và Tâm học duy tâm chủ quan hoàn chỉnh và trưởng thành, thay thế vị trí thống trị của Phật giáo trong ý thức hệ triết học. Nhìn chung, sự kết hợp giữa Phật giáo và Kinh Dịch thời Tống tập trung nhiều hơn vào tâm tính và nghĩa lý. Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến Kinh Dịch nhất là Kinh Hoa Nghiêm, tiếp theo là tư tưởng Thiền tông. TẠM KẾT
Nguyễn Đình Triển/TCVHPG421
Chú thích: Tài liệu tham khảo:
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |