Khái quát
Thơ ca thuộc hai trường phái Nho và Thiền khác nhau về nhiều mặt, trước hết là cơ sở văn hóa của hai loại hình nghệ thuật thơ ca và sau đó là ở đặc điểm nghệ thuật. Về mặt nghệ thuật, nếu so sánh cái nhìn, tư duy, quan niệm, con người của hai trường phái ta đều thấy có sự khác nhau.
Với tư cách là một tông phái hấp thu tinh hoa các tông phái Phật giáo, Thiền cảm nhận cuộc sống một cách trực tiếp, trực giác, thiền thiên về thực hành, chú trọng tự lực, đi vào mọi tầng lớp (hòa quang đồng trần) thấm nhuần trong các ngành văn hóa – nghệ thuật phương Đông. C. Jung giới thiệu Thiền trong tác phẩm “Archetype”, trong đó ông so sánh thiền với Individuation. Đó không phải là con người cá nhân mà là sự hòa nhập và tương nhập (thẩm thấu và tồn tại trong nhau) vào cái lớn hơn, cái toàn thể một cách có ý thức. Ở Trung Quốc, sách “Liệt Tử” (thiên “Trọng Ni”) đã đề cập đến Phật giáo, ở nước ta Mâu Bác (165 – ?) đã so sánh Nho và Thiền (“Lý hoặc luận”).
Thơ ca chịu ảnh hưởng hai trường phái tư tưởng này khác nhau về nhiều mặt, trước hết là do cơ sở văn hóa của hai loại hình nghệ thật thơ ca khác nhau nên biểu hiện ở đặc điểm nghệ thuật cũng khác nhau.
Văn hóa Thiền là loại hình văn hóa có gốc ban đầu ở Ấn, văn hóa Nho là loại hình văn hóa thuần túy Trung Hoa, hai loại hình văn hóa này khác nhau về nhiều mặt như tư duy, quan niệm về con người, quan niệm về giá trị, ngôn ngữ, thơ ca, quan niệm về tổ chức cuộc sống cá nhân. Văn hóa Phật giáo đã tồn tại ở nước Việt khoảng thế kỷ thứ II với quan điểm phủ nhận văn hóa Trung Hoa là trung tâm duy nhất của thế giới. Ở Trung Hoa xét về lịch sử thì trường phái thơ Thiền tồn tại sau thơ Nho, trong thơ Nho, còn ở nước ta trường phái thơ Thiền tồn tại trước thơ Nho, sau đó song song thơ nho, cuối cùng nó vừa tồn tại song song thơ Nho vừa trong thơ Nho.
Căn bản luận của Thiền có thể được trình bày với nhiều phương thức, cấp độ, cái nhìn, từ nhiều tác phẩm kinh điển – ngữ lục khác nhau. Thiền học phản ánh “tâm tức Phật”. “Tâm” ở đây là hiện thực rộng lớn mang tính toàn thể, là tất cả sự vật hiện tượng, gồm cả “chân không” và “diệu hữu”. Vượt “có – không” để nhận chân bản thể chân như là điều tối cao trong mọi bài thơ Thiền. Đó cũng là điều tối nghĩa, mơ hồ đối với những người đọc không chuyên, tầm đón nhận thơ Thiền không phù hợp, hay người đọc dùng ngôn ngữ thông thường để hiểu ngôn ngữ Thiền. “Càng bám vào ngôn ngữ (danh từ) càng xa rời bản thể chân như vì ngôn ngữ (danh từ) đã cắt xén thực tại thành những mảnh nhỏ. Mỗi tên gọi, danh từ, khái niệm đều có một nội hàm và một ngoại diên nhất định. Dùng cái có hạn (ngôn ngữ, văn tự) để mô tả cái vô hạn (bản thể chân như) là không thể được” (Đỗ Tùng Bách – Thơ Thiền Đường Tống – trg 112).
Thiền được các nhà nghiên cứu hiện đại quan tâm như vấn đề Thiền và tình yêu (Rishnammurti – “Thiền vẻ đẹp và tình yêu”, “Thiền và cái tôi” – Suzuki, “Thiền và Tâm phân học” (E. Fromm). Nhà nho Phan Huy Ích đã từng so sánh Nho – Thiền (Tựa “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh”).
Thơ Thiền Việt Nam thường được sáng tác bởi các thiền sư như Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Ngô Chân Lưu, Mãn Giác, Khánh Hỷ, Cẩm Thành, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang, Hương Hải… Các bậc nguyên thủ quốc gia như Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Minh Tông, các nho sĩ như Nguyên Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du… Trường phái thơ Thiền cực thịnh vào thời Lý – Trần, trầm lắng sau Trúc Lâm Tam Tổ (đầu thế kỷ XIV), phục hưng vào cuối thế kỷ XVIII và tiếp tục hiện đại hóa.
Về mặt nghệ thuật, nếu so sánh về cái nhìn, tư duy, quan niệm, con người, của hai trường phái đều có sự khác nhau.
Về cái nhìn
Nho và Thiền mỗi bên đều nhìn vũ trụ, cuộc đời theo một quan niệm riêng.
Đối với Thiền, “Zen (Thiền) là phương pháp nhìn thẳng đến cuộc đời, một phương pháp có tính cách khác thường. Vì Zen là phương pháp trực tiếp (trực quan) và bằng phương pháp này Zen đã nhìn sự vật như bản chất của nó, không thêm không bớt, đồng thời nhờ phương pháp này, Zen nhìn thấy được hình thể của sự hỗn hợp của tất cả mọi sự vật” (Đoàn Văn An – Triết học Zen, T2 – trg 105-106). “Quán thân thấy được thực tướng – Quán Phật thấy được lẽ tự nhiên” (“Quán thân, quán Phật” – Tuệ Trung Thượng sĩ). Đối với nghệ thuật, “Zen (Thiền) chú trọng tới thực tại hơn là biểu tượng, nhưng là nguồn cảm hứng của nhiều nghệ thuật” (Triết học Zen – T2 – trg 07). Nho giáo nhìn cuộc sống trong sự phức tạp, suy đồi cần gây dựng trật tự cương thường theo mô hình Nho giáo. Cái nhìn của Nho sĩ với xã hội là cái nhìn ý thức trách nhiệm với chính mình và với xã hội. Về mặt tích cực, đó là cái đẹp hợp lý về nhiều mặt: “Ta giúp triều đình thăm kẻ khốn – Tiêu trừ sâu mọt, diệt gian tham” (“Án Thao Giang lô” – Đi kinh lý Lộ Thao Giang – Phạm Sư Mạnh). Nhưng về mặt tiêu cực, cái nhìn Nho giáo bị Trang Tử phê phán. “Nam Hoa kinh”(thiên “Tề vật luận”) cho rằng “phải là một lẽ vô cùng, quấy cũng là lẽ vô cùng”, vì vậy có sự gần nhau, “hòa” nhưng “bất đồng” giữa hai trường phái khi nhìn một số vấn đề cơ bản.
Nho có các quan niệm ẩn, vô sự, nhàn, lạc, lý, tính, thiên, thái hòa… Thiền hay nói đến định, chỉ, không, vô, an lạc, chân như, tính… Vì thế, Nguyễn Đổng Chi (“Việt Nam cổ văn học sử”) đã xếp cả thơ Thiền và một bộ phận thơ Nho đời Trần vào cùng loại “thơ cao siêu”. Theo “Lý hoặc luận” (Mâu Tử), “Vô vi” của Nho giáo là vô tư, đạm bạc, dốc về chất phác”. Từ “vô vi”, “vô sự,” “nhàn” và những cơ sở về “Lý”, nhà nho nhìn sự vật, nhìn thế giới, cảm nhận vũ trụ trong sự lưu thông, linh động, vì vậy sẽ cảm nhận được “thái hòa”.
Nho sĩ nhìn thế giới qua cái nhìn “Lý”- “Tính”, “khi nhàn ta vui với cái tính tự nhiên của ta” (“Ngụ hứng, 4” – Nguyễn Bỉnh Khiêm). Các Thiền giả tiếp nhận thế giới ở phương diện chiếm lĩnh thể tính: “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm – Muôn nghiệp lắng yên, an nhàn thể tính…” (“Cư trần lạc đạo phu” – Trần Nhân Tông). Cái nhìn của thơ Thiền là cái nhìn bản thể còn thơ Nho thường có cái nhìn trên bình diện hiện tượng (hoặc bản chất xã hội dưới cái nhìn xã hội). “Lý hoặc luận” nhận xét cả hai trường phái đều “là vàng với ngọc”.
Cái nhìn của con người theo triết học Hiện sinh – “Con người là địa ngục của những con người khác” (Jean Paul Sartre). Cái nhìn của con người thông thường theo Nho giáo đó là cái nhìn về con người chưa được “quân tử hóa”. Cái nhìn của con người thông thường đối với Thiền đó là “tri kiến cá nhân”, “nhị kiến vô minh” (tâm phân biệt), biến kế sở chấp (quan niệm về thang giá trị chủ quan của cộng đồng Nho sĩ), đó là cái nhìn đa tâm, tán tâm… Thiền có cái nhìn vượt trên những cố chấp, nhị kiến – “Ví bằng quên nhị kiến – Pháp giới lộ hình dung” (Tuệ Trung). Người Nho sĩ nhìn về mình trong nỗi tự hào: “Ta đội ơn vua lên trấn thủ – Tiêu trừ trộm cướp, dẹp binh oai” (“Hành quân” – Phạm Sư Mạnh).
Cái nhìn của thơ Nho là nhìn nhân sinh bằng nhãn quan nhân đạo, ái nhân, nó khác với cái nhìn “kiêm ái” (yêu cả mọi người) của Mặc Tử. Nhân đạo theo thang giá trị Nho gia là Nhân đạo nhưng “dĩ trực báo oán”, rõ lẽ “ghét – thương”. Cái nhìn của thơ Thiền là cái nhìn từ bi, yêu thương, cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn “vô thường vô ngã”… Nói chung đó là cái nhìn bình đẳng (Bình đẳng quan). Bình đẳng nên “Ta, người như móc cũng như sương” (“Phàm thánh bất dị” – Tuệ Trung Thượng Sĩ) và Từ bi nên “Mười hai nguyền địa ngục hết gia hình” (“Chí tâm…” – Trần Thái Tông).
Tóm lại, cả hai trường phái, hai cái nhìn đều chứa đựng nhiều điều thú vị, sự dung hợp, gặp gỡ của hai cái nhìn thường tạo ra những ý thơ mới lạ, bất ngờ, những tác phẩm có tầm vóc và sức sống mới như trường hợp của Ngô Thì Nhậm.
Về tư duy
Nói đến tư duy là nói đến hoạt động nhận thức của chủ thể, nói đến cái tâm. Nói đến sự khác biệt của hai trường phái về phương thức tư duy cần phải xuất phát từ phạm trù “Tâm”.
Thơ Nho vốn trong sáng, chân thờ thực, nhưng lại chịu ảnh hưởng của tính khoa cử, thù phụng nên vị nghệ thuật, tình cảm chân thực bị ảnh hưởng. Ở thơ Nho, dòng ý thức trữ tình xoay quanh phạm trù Nhân, Nghĩa, Trung hiếu, Tiết liệt… “Nhân, nghĩa, trung cần giữ tích ninh” (“Bảo kính cảnh giới, 4” – “Quốc âm thi tập”). Ở thơ Thiền, dòng ý thức rộng không biên giới, không cố chấp, không định hướng, không phân biệt… “Nhược nhân yếu thức tu phân biệt – Lĩnh thượng phù sơ tỏa mộ yêu” (“Ví người hiểu lẽ không phân biệt – Núi phủ mây chiều cây cỏ tươi”) (Thiền sư Bảo Giám) (“Thiền uyển tập anh”…). Các thành tựu của trường phái “Tâm lý học phát triển” ngày nay đã đóng góp nhiều thành tựu, nó đưa đến nhiều gợi ý trong nghiên cứu.
Tư duy Thiền là thường xuyên liên tục ý thức, ý thức về tự ý thức (quán), ý thức về ý thức của người khác, tự ý thức về bản thể từng phút giây, từng sát-na (khoảnh khắc). Hơn nữa, đó là sự ý thức về thiên nhiên vũ trụ và vô chấp những sự vật, cảnh vật ấy. Các thiền sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Chân Không, Tuệ Trung Thượng Sĩ… đã phản ánh bản thể trong từng tín hiệu, từng hiện tượng tự nhiên trong quá trình trình tự ý thức, có ngộ, có giác…
Tư duy Nho là sự thường xuyên ý thức về đức – lý – tâm – tính – thiện – ác – công – danh – tu – tề – trị – bình – xuất – xử… “Lúc nào cũng để tâm nơi sách vở cổ nhân đến mức độ đạt cảnh giới “vong ngã”… mới có sở đắc” (“Đáp Lý Dực thư …” – Hàn Dũ). Các bài “Cổ ý” (Phù Thúc Hoành), “Bột Hải” (Lê Thánh Tông), “Hạ cảnh” (Thái Thuận) ít nhiều gần với lối tư duy này. Đặc biệt nó xem trọng con người, xem trọng những chuẩn mực xã hội, chuẩn mực của khuôn mẫu xã hội ổn định (dù một số quốc gia bị các quan niệm trật tự đó làm cho “thủ cựu” (“Lịch sử văn minh Trung Hoa” – W. Durant).
Tư duy Nho học còn phản ánh ở sự sùng bái những thần tượng cổ nhân – tiền nhân – thánh nhân. Tư duy Thiền thể hiện ở dòng ý thức vận hành tự nhiên, lưu thông, không chướng ngại. Tư duy nho thể hiện ở dòng ý thức cố chấp trật tự, cố chấp sự lựa chọn qua giá trị như đúng – sai, quân tử – tiểu nhân, sáng – tối… Tư duy Thiền là chánh tư duy về vô thường, vô ngã, niết bàn, sau đó vượt qua ngôn ngữ.
Tư duy Thiền “chú trọng đến “chữ tâm”, tư duy trong thơ Thiền phát triển đến cấp độ ngừng tư duy đó là sự im lặng vĩ đại (“mặc như lôi” – im lặng sấm sét). Đó chính là chủ trương của phái thiền Tào Động: “Phi tư duy thị Thiền chi yếu giả” (Không tư duy là điểm trọng yếu của Thiền). Thiền thường được hiểu là quá trình đi tìm tâm, và nên hiểu tâm ở đây là vạn hữu, vạn vô. Tỳ – ni – đa – lưu – chi (Vinitaruci) nói: “Tâm ấy tràn đầy thái hư” (“Thiền uyển tập anh”), ở đây thiền sư đã sử dụng thuật ngữ “thái hư” của Nho để diễn tả Thiền lý.
Phạm trù “tâm” trong Phật giáo được cả Duy thức tông và Thiền tông khai thác ở tất cả các mặt vật chất, tinh thần – tư duy, xã hội. Chữ “Tâm” trong thơ Nho tiềm tàng hoặc xuất hiện trong tất cả các bài thơ Nho, đó là: ưu, bi, phẫn, cảm, lạc…, đặc biệt là “tiên ưu” – cái lo đậm màu Nho giáo, lo việc nước và xã hội trước cái lo cá nhân. Các bài thơ “Hoành châu” (Nguyễn Đình Mỹ), “Lão dung” (“Cây đa già” – “Quốc âm thi tập”), “Thuật hứng, 22” (“Quốc âm thi tập”)… phản ánh những mối lo cho đời hằn sâu trong suy nghĩ. Tư duy thơ Nho thường ám ảnh bởi cái “bi” thời thế, tuy vậy thơ Nho cũng có những khoảng lặng, những cái không lời của nhàn nhã, vô sự, đa nghĩa hoặc bất lực.
Kiểu tư duy vô ngã được các nhà nho nói đến trong các quan niệm về phạm trù “thần”. Ở đây “vô ngã” được hiểu ở cấp độ đơn giản như một kỹ xảo, tính tất nhiên, một phản xạ không điều kiện. Tư duy Thiền có thể là cái vô ngôn, cái không lời, đó là tín hiệu biểu hiện bản thể. Tư duy thơ Thiền mang tính trực cảm, trực giác. Vì “theo chân như môn… chỉ lấy trí mà chứng các hiện tượng tức là dùng cái trực giác mà biết chứ không phải dùng ngôn thuyết” (“Thiền học”- Trần Trọng Kim).
Tư duy thơ Thiền có một số đặc điểm. Đặc điểm thứ nhất là Trực cảm (theo trục thời gian – thời điểm sáng tác thơ mang phẩm chất Thiền). Trước hết là thơ Thiền chứng ngộ, tức là thơ trực cảm về khổ, lạc, giảng kinh, tọa thiền, hành cước, vấn đáp thiền, thăm viếng Phật tích. Kế đó là trực cảm về nhập thế sau khi chứng đạo, trực cảm về siêu đạt, bình đẳng quan, thoát tục, cảm nhận Thiền vị trong mọi không gian – thời gian (còn gọi là Bình đẳng tánh trí hay Đại viên cảnh trí) đồng thời có những trường hợp không nhất thiết trực cảm về Thiền (Hậu đắc trí – trí sau khi chứng đắc).
Các hình thái, dạng thức Thiền chỉ là những phương tiện tạm thời – “những chiếc ghế của Bồ tát”. Đứng về cảm quan Thiền, việc chia hai trường hợp như trên chỉ có tính chất tương đối. Vì đối với Thiền có trường hợp nhân quả đồng thời, phương tiện – mục đích đồng thời, sau – trước đồng thời.
Đặc điểm thứ hai là: Tư duy Thiền vừa trực cảm (trực tiếp, trực giác) vừa siêu nghiệm vì “nó (tự tánh, chân như)… là thể tuyệt đối nên chẳng phải là đối tượng của tư duy”. Điểm tối quan trọng của tư duy thơ Thiền là các kiểu tư duy về vấn đề đạt đạo. Việc xác định và trực tiếp xác nhận phương thức tư duy Thiền gặp rất nhiều khó khăn vì mối quan hệ không tương đồng giữa Thiền – ngôn ngữ Thiền và ngôn ngữ triết học, ngôn ngữ nói chung vì “nếu tâm động niệm liền trái pháp thể gọi là chấp tướng”.
Về con người
So sánh hai dạng thức con người phản ánh trong thơ Nho và thơ Thiền, về phương diện tổng quát, cái tôi của cả thiền sư và nho sĩ đều phai mờ đi.
Cái tôi của Thiền hòa vào bản thể, tiêu dao cùng bản thể, ra vào khái niệm bản thể. Cái tôi của Nho hòa vào tâm thức cộng đồng Nho sĩ, cái tôi trách vụ ràng buộc tự ngã của từng Nho sĩ, vào cương thường vào mục đích tu – tề – trị – bình. Đứng về phương diện xã hội học hiện đại thì thơ Thiền là một biểu hiện của cá nhân thấm đẫm tự do, tự quyết… vượt qua vô thức tập thể, soi sáng vô thức tập thể. Còn thơ nho cái tôi cá nhân bị nhiều mối quan hệ phức tạp khống chế, kiềm hãm.
Đứng về phương diện Thiền để nhận xét thì thơ Thiền là “ngã” chân thật (Ngã chân thật gọi là Phật tánh), quan niệm Thiền là “vô ngã” chỉ giải quyết phạm trù Hữu – Vô trên bình diện ngôn ngữ học. Thơ Nho có thể xếp vào hữu ngã nhưng lại hòa tan vào trật tự cộng đồng. Đó là sự phức tạp khi tiếp cận, nhận diện, so sánh hai loại hình con người này.
Trần Thái Tông nhận xét về cái tôi của các thế hệ nho sĩ, của chính mình trước đây và của mọi người là chưa ý thức sâu về chính mình (nhận thức còn thiếu sót về “ngã”).
Nguyên nhân là “sai vì hữu niệm quên vô niệm” cho nên hậu quả là “phong trần thất thểu làm thân khách – muôn dặm xa quê cuộc viễn trình” (“Khóa hư lục” – Trần Thái Tông). Dầu tâm hồn nho sĩ không chứa đựng những ý niệm riêng tư thì vẫn đầy ắp những suy tư về chí, về nhân nghĩa, về cuộc đời, về quốc gia đại sự – “ra công gánh vác việc lớn thuộc về nhà nho ta” (“Tiễn quan Kinh Doãn họ Nguyễn” – Nguyễn Phi Khanh). Thiền sư Cứu Chỉ nhận xét: “Nho, Mặc chìm đắm trong cái Hữu; Lão, Trang chìm đắm trong cái Vô” (“Thiền uyển tập anh”).
Tâm hồn nhà nho luôn có những suy tư về khoa mục, xuất – xử, về tuổi già, việc bất như ý, về triều chính, về tình cảnh người dân, về phong hóa, về trách vụ đi sứ, hành quân… “Một thân lẩn quất đường khoa mục – Hai chữ mơ màng việc quốc gia” (“Ngôn chí, 8”, Nguyễn Trãi).
Đọc thơ Thiền từ tiếng vượn rừng sâu (“Phỏng Tăng Điền đại sư” – Tuệ Trung thượng sĩ) tiếng mùa xuân xào xạc đi qua đồng (Issa) đến bóng nhạn trên mặt nước (Thiền sư Nghĩa Hoài) ta đều khó thấy được bóng dáng một con người theo nghĩa thông thường. Chí hướng là cánh hạc của nho sĩ, cánh nhạn trong thơ Thiền không có nghĩa chí hướng, không có nghĩa cao sĩ:
“Nhạn bay trong không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm giữ bóng”.
(Thiền sư Nghĩa Hoài) (“Truyền đăng lục”).
Chính vì vô ngã nên thiền sư thi sĩ Saigyô và cả Myôe đều nhận xét “mặc dù tôi làm thơ, tôi vẫn không nghĩ rằng đó là thơ tôi làm”, còn Emily Dickinson nhận xét về thơ Thiền: “nhà thơ đã từ tốn hiển bày một thế giới rồi lẳng lặng ẩn mình trong bóng tối, để cho thơ tự nói”. Con người trong thơ Nho thường trong tâm trạng xa quê, nhớ quê hương có rau thuần cá vược, có ngày giỗ mẹ, càng day dứt đối với người trong bước sứ trình, lênh đênh cùng vua chạy loạn, lánh giặc trong núi…, thậm chí là khách tha hương trên quê mình như Nguyễn Trãi…
“Con người” trong thơ Thiền đang về đến quê hương, sống an lành trong quê hương, “quay đầu lại thì được quê hương – buông thả tâm thì chìm sâu trong địa ngục” (“Khóa hư lục” – Trần Thái Tông), “Đại thiên sa giới ngoại, hà xứ bất vi gia” – Thiền sư Thường Chiếu). Quê hương đó thực sự là một mái nhà theo quan niệm – “Bừng bừng chiếu khắp cõi bà sa – Ức triệu sinh linh thảy một nhà” (Thiền sư Chân Không) (“Thiền uyển tập anh”).
Còn quê hương lý tưởng của Nho sĩ là “quốc thái dân an”, cảnh giới “nhân” trong thiên hạ được xây dựng, là thái hòa hoặc không gian ẩn dật…
Tính chất vô ngã – hữu ngã trong thơ Nho còn tùy thuộc vào thái độ của nhà nho ẩn dật hay hành đạo. Nếu hành đạo thì cái tôi đậm nét của ý chí. Nếu là nhà nho ẩn dật, cái tôi dường như hòa vào bước đường du ngoạn hay trong không gian ẩn dật…
Cùng ý thức về thân, nhà nho thường phản ánh trong thơ về tấm thân không biết gởi về đâu, thân bệnh, tuổi già, mái đầu bạc, bị ghen ghét…; thơ Thiền phản ánh “thân” trong triết lý sâu sắc về quy luật biến đổi của thể xác con người trong sự thấu hiểu và tự tại – “Thân như bóng chớp chiều tà” (“Thị đệ tử”-Thiền sư Vạn Hạnh) hay “Thân như vách đổ với tường xiêu” (Viên Chiếu) (“Thiền uyển tập anh”).
Con người trong thơ Nho thường xuyên thúc ước theo thứ bậc “khắc kỷ phục lễ” (phản ánh trong thơ chúc tụng, cung đình, xướng họa với vua…), phản ánh đạo thần tử theo hệ thống dọc, theo quy ước (“Phụng Bắc sứ” – Phạm Nhân Khanh). Con người trong thơ Thiền hoành tráng, hiên ngang: “Trời đất chỉ như búng ngón tay – Non sông chỉ bằng một tiếng dặng hắng” (“Thị đô”- Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Con người trong thơ Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông… canh cánh bên lòng con người quy phạm, trách vụ, trật tự, ưu tư. Con người trong thơ thiền là con người vô úy, vô nhiễm, vô niệm, tự chủ, tôn trọng chủ thể – đề cao bản sắc đa dạng của con người bình đẳng (“Hưu hướng Như Lai” – Thiền sư Quảng Nghiêm), phá chấp, cởi mở, hòa hợp với tự nhiên một cách siêu tự nhiên, siêu kinh nghiệm.
Nhà thơ Thiền đã thật sự sống và hành động phù hợp với mình, “tinh thần “vô úy bình thường tâm” (Mã Tổ) làm con người thực sự là mình, tự do tự tại…” (Đoàn Thị Thu Vân – Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X-XIV – trg 67). Con người trong thơ Nho có mối quan hệ tất yếu với con người mẫu mực theo tam cang, ngũ luân, ngũ thường; con người trong thơ Thiền là con người vô phân biệt – “Tâm bỉ ngã – Ký tuyệt hôn mai” (“Lòng không bỉ, thử – Dứt tuyệt mê mờ”) (Thiền sư Trí Thiền). Liễu Tôn Nguyên cũng thấy “Thân vô bỉ ngã na hoài thổ” (“Thân không bỉ ngã quên quê quán”).
Vô phân biệt trong thơ Thiền phản ánh những khoảnh khắc của “bình đẳng tánh trí” (tức Đại viên cảnh trí). Đó là đứng về phương diện “thể”. Sau đó và đồng thời là “dụng”, là “Hậu đắc trí” thường xuất hiện trong đời Thiền sư sau giác ngộ, đối đáp, tùy hứng…
Hai con người khác nhau của trí tuệ bát nhã, của trí thức Nho học tạo nên hai loại hình thơ khác nhau. Đó là con người nhân vi và con người vô vi; với Thiền – “Con người đề cao tư tưởng “vô vi”, chống lại tư tưởng “nhân vi” làm méo mó cả tâm hồn và thể xác, để đạt tới sự “hồn toàn”, sự sáng láng trường tồn” (Nguyễn Phạm Hùng – Thơ Thiền Việt Nam những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, tr.77).
Mỗi trường phái có những khuôn mẫu, kiểu dạng, quan niệm chi phối sáng tác. Những rung cảm sáng tạo của người nghệ sĩ trong trường phái được tổ chức theo những kiểu mẫu mô thức trên. Những khuôn mẫu đó quyết định những đặc điểm ưu thế, khuyết điểm của mỗi trường phái kèm theo những ưu thế là những khiếm khuyết, những quy định do sự khép kín của trường phái. Bản thân trong hạt nhân thơ Thiền đã bao hàm sự “không giới hạn”, vì thế có sẵn tính “tồn sinh”. Nhưng ở đây chúng ta khảo sát trường phái thơ Thiền Trung đại với tư cách tương tự như nghiên cứu Giang Tây thi phái ở Trung Hoa. Mỗi trường phái đều có sự vận động nhưng thông thường, theo thời gian, sự vận động của trường phái không theo kịp sự vận động và phát triển của thi ca nhân loại. Từ đó, nó phải chuyển đổi quá độ hoặc bị chấm dứt (trường hợp thơ Nho là rất cụ thể). Nguyên nhân kết thúc của trường phái nằm ngay ở chính đặc điểm của trường phái. Quan niệm vừa tạo đặc điểm cho trường phái để phân biệt trường phái này với trường phái khác, vừa tạo nên giới hạn của trường phái. Các thi sĩ trong trường phái thơ rất ít khi vượt qua chính mình.
HUỲNH QUÁN CHI
Tài liệu tham khảo chính 1. Đoàn Văn An (1963), Triết học Zen (T1), NXB.Đông Phương, Sài Gòn. 2. Hoàng Bá (Hy Vận) (1994), Truyền tâm pháp yếu, trong sách: “Góp nhặt lời Phật Tổ thánh hiền”, (Thích Duy Lực), Thành hội Phật Giáo TP.HCM xb. 3. Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đường Tống, (Nguyễn Phước dịch), NXB.Đồng Nai. 4. Nhật Chiêu (1994), Bashô và thơ Haiku – NXB Văn học – Khoa Ngữ văn báo chí – ĐHTH TP.HCM. 5. Nhật Chiêu (2003), Nhật Bản trong chiếc gương soi – NXB.Giáo Dục, Hà Nội. 6. Đông Hồ, Thiền vị, đạo vị, thi vị trong văn chương Việt Nam, Nguồn: http://thivien.maihoatrang.com/forums/viewforum.php 7. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa Phương Đông, NXB.ĐHSP, Hà Nội. 8. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ Thiền Việt Nam những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, NXB. HĐQG HN, Hà Nội. 9. Trần Trọng Kim (1965), Nho giáo, NXB.Tân Việt, Sài Gòn. 10. Trần Trọng Kim (2004), Thiền học, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội. 11. Lưu Cương Kỷ – Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và mỹ học, (Hoàng Văn Lâu dịch), NXB.VHTT, Hà Nội. 12. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 1, 2, 3), NXB.Văn học, Hà Nội. 13. Mộng Bồi Nguyên (1998), Hệ thống phạm trù Lý học, NXB. KHXH, Hà Nội. 14. Thiền uyển tập anh ngữ lục (1993), Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, NXB.Văn Học, Hà Nội. 15. Nguyễn Trãi (Toàn tập) (1976), NXB.KHXH, Hà Nội. 16. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV, Trung tâm nghiên cứu Quốc Học – NXB.Văn Học, Hà Nội.