Chi tiết tin tức

Phật dạy kinh người ao trắng

20:38:00 - 09/01/2015
(PGNĐ) -  Chúng tôi biên soạn và chú giải bản Kinh Người Áo Trắng, để giúp cho người cư sĩ tại gia, trước nhất là có niềm tin chân chính đối với Tam bảo và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức. Đây là bản kinh gối đầu nằm cho người cư sĩ tại gia, người Phật tử tại gia hãy nên tụng đọc, nghiền ngẫm và tu tập, sẽ thấm nhuần yếu chỉ của Kinh mà sống đời bình an, hạnh phúc trong từng phút giây...

LỜI GIỚI THIỆU

Chúng tôi biên soạn và chú giải bản Kinh Người Áo Trắng, để giúp cho người cư sĩ tại gia, trước nhất là có niềm tin chân chính đối với Tam bảo và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức. Đây là bản kinh gối đầu nằm cho người cư sĩ tại gia, người Phật tử tại gia hãy nên tụng đọc, nghiền ngẫm và tu tập, sẽ thấm nhuần yếu chỉ của Kinh mà sống đời bình an, hạnh phúc trong từng phút giây.

Nếu ai thực hiện được những lời dạy chân chính của Phật, thì chứng được quả vị Thánh đầu tiên trong tứ quả Thanh-văn, tức không còn bị đọa lạc  vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người tại gia chứng được quả vị thứ nhất Tu-đà-hoàn thì phá được kiết sử thân kiến, giới cấm thủ và nghi.

Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật. Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, để cùng nhau sống hòa hợp.

 

Trong sự chấp ngã, bám víu vào cái ta và của ta rồi dẫn đến chiếm hữu, sự bám víu vào cái thân vật chất này ai cũng coi trọng nó, kẻ nào chạm đến sẽ bị phản kháng dữ dội. Cái ta ban đầu chỉ là sự bất giác của một vọng niệm được khởi lên và dính mắc vào đó, đến khi thành hình rồi thì nó cần một nền tảng vật chất, để dựa vào đó mà hiện hữu. Nền tảng đó chính là sự hiện hữu và tồn tại cái thân này.

Chúng ta bám víu vào thân cho đó là ta, là của ta rồi nâng niu, chăm sóc bảo vệ cho nó, đây gọi là "thân kiến". Khi ăn thì tìm món ngon vật lạ cho ta, khi uống thì tìm những thứ ngon ngọt ... Cũng từ sự ăn uống mà ngày nay trên thế giới sinh ra rất nhiều bệnh tật, dù khoa học có tiến bộ tới đâu cũng không thể nào theo kịp sự phát sinh và biến dạng của bệnh tật.

Chúng ta mặc thì kiếm quần áo tốt đẹp có thương hiệu nổi tiếng, để cho ta mặc. Ở thì phải xây nhà cao cửa rộng, nguy nga tráng lệ, có đẳng cấp sang trọng, quý phái để cho ta ở. Xe thì phải mua loại mắt tiền có giá trị từ bạc tỉ trở lên để cho ta đi. Đồ dùng thì phải mua sắm đủ thứ tiện nghi hiện đại trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt để cho ta ngắm và mong nhiều người khác khen tặng. Vợ chồng nói thương yêu nhau chung thủy, nhưng thật ra ai cũng thương thân mình là trước hết.

Cái ta ảo tưởng không thật có này, là trạng thái mê mờ không thấy rõ những gì đang xảy ra trong từng phút giây. Đức Phật dạy: Do ta không có sự trải nghiệm trong tu chứng nên lầm chấp thân này là ta, là của ta. Khi cái ta ảo tưởng có mặt thì cái "của ta" cũng theo đó mà phát sinh, rồi luyến ái chấp giữ muốn cái gì cũng là của riêng mình, ai xâm phạm đến ta sẽ bị kháng cự mãnh liệt.

Những gì tốt đẹp dễ có lợi cho mình thì ta thu thập, tích lũy, chiếm hữu, duy trì cho được bằng mọi cách. Như chúng ta đem lòng thương yêu một ai đó và muốn người ấy thuộc về mình mãi mãi. Cái gì không ưa thích thì ta tìm cách loại bỏ, khử trừ, xa lánh, hủy diệt.

Cái ta nếu được phát triển theo chiều hướng tốt đẹp làm lợi ích cho nhiều người, ngược lại cái ta được mở rộng theo chiều tiêu cực thì tệ nạn xã hội tràn lan gây thiệt hại cho nhân loại. Thực tế, nếu chúng ta có tu học một chút, ta sẽ thấy rõ thân tâm đều vô thường và hoàn cảnh hiện tại chẳng có gì là ta và của ta.

Từ cái thấy thân kiến là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là ta, là của ta, nên từ đó bắt đầu sinh ra chiếm hữu. Ai đụng đến cái ta này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham sân si, mà dẫn đến tranh đấu, hủy diệt lẫn nhau không thương tiếc.

Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân, mà làm cho con người đánh mất chính mình.  

Do giữ năm giới được trọn vẹn và tín tâm sâu với Tam bảo, vị hành giả dễ dàng vào thiền định và nhờ thường xuyên chiêm nghiệm quán chiếu sâu sắc, nên phát sinh trí tuệ mà phá được kiết sử thân kiến, tức chấp thân tâm làm ngã, nhờ vậy tham lam, sân giận không còn tác động mạnh mẽ như trước kia nữa.

Kế đến là phá được giới cấm thủ đây cũng là quan niệm sai lầm, một số người họ tu theo và thực hành theo cách sống của loài chó, có người thì đứng một chân, giơ một tay họ cho rằng tu như vậy mau giác ngộ, giải thoát. Và cuối cùng phá được kiến chấp sai lầm là nghi. Nghi là nghi ngờ, không tin mình có khả năng làm chủ bản thân, không tin nhân quả, không tin tâm mình là Phật và không tin pháp Tứ diệu đế.

Người cư sĩ tại gia khi đã có niềm tin chân chính đối với Tam bảo không bao giờ lui sụt nữa và gìn giữ năm giới pháp trọn vẹn, từ trong tâm tưởng cho đến hành động không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không uống rượu, sử dụng các chất xì ke ma túy thì dễ dàng phát sinh định lực, nhờ vậy phá bỏ được ba thứ kiết sử trên. Người này, Phật dạy đã vào dòng, tức nhập lưu chứng quả Thánh thứ nhất trong Tứ quả Thanh văn, chỉ còn bảy lần qua lại cõi nhân gian rồi nhập Niết-bàn giải thoát.

Yếu chỉ Kinh Người Áo Trắng rất cao sâu và vi diệu. Trước tiên, không giết hại mà còn mở lòng từ bi thương xót bình đẳng mọi loài.

Thứ hai là không lấy của không cho mà còn hay bố thí giúp đỡ người khác và cúng dường người đáng kính.

Thứ ba là không tà dâm mà còn khuyên nhủ mọi người sống chung thủy để bảo vệ hạnh phúc gia đình mình và người khác.

Thứ tư là không nói dối hại người mà còn hay nói lời chân thật.

Thứ năm là không nói lời thô lỗ, cộc cằn, mắng chửi mà còn hay nói lời ái ngữ, hiền hòa dễ thương.

Thứ sáu là không nói lời đùa chơi vô ích mà hay nói lời có ích lợi cho mọi người.

Thứ bảy là không nói lời vu khống đổ tội cho người khác mà còn nói lời động viên, khuyến khích, an ủi mọi người cùng kết nói yêu thương, sẻ chia cuộc sống để cùng nhau sống đời bình yên, hạnh phút ngay trong giờ phút hiện tại.

Ngoài ra, người cư sĩ tại gia phải còn quán niệm về Phật thật sâu sắc, để thể nhập tâm sáng suốt và lòng từ bi hỷ xả của Ngài.

Rồi quán niệm về Pháp để thấy lời dạy của Phật, giúp cho mọi người vượt qua biển khổ sông mê.

Quán niệm về Tăng là đoàn thể sống an vui, hạnh phúc theo tinh thần lục hòa, để chúng ta cố gắng nương tựa mà tu học.

Và cuối cùng là quán niệm về giới pháp chân chính giúp cho ta có tín tâm vững chắc, nhờ vậy người cư sĩ tại gia phá bỏ được ba kiết sử sai lầm về thân, giới cấm thủ và nghi, mà sống hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Một chút tâm tình xin gửi đến chư huynh đệ pháp lữ gần xa, với tấm lòng biết ơn sâu sắc! Chúng tôi xin được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, hạnh phúc tràn đầy, con đường tỉnh thức, tủ sách duyên lành, bằng trái tim hiểu biết.

                                                                    Kính ghi

                                                          Thích Đạt Ma Phổ Giác

              

PHẬT DẠY KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Phật ở chùa Kỳ Viên do Cấp Cô Độc, thái tử Kỳ-đà phát tâm hiến cúng. Vào sáng hôm nọ, ông Cấp Cô Độc cùng với năm trăm cư sĩ thuần thành viếng thăm, đảnh lễ ngài Xá-lợi-phất, rồi ngồi một bên. Ngài Xá-lợi-phất dùng nhiều phương tiện, thuyết pháp khai tâm cho các cư sĩ, mang lại niềm vui và sự khát ngưỡng đối với Tam bảo và sự thực tập con đường chuyển hóa.  

Ngài Xá-lợi-phất hướng dẫn tất cả đến viếng đức Phật, đầu thành năm vóc, đảnh lễ chân Người, rồi ngồi một bên, an trú trong chính niệm. Thế Tôn ân cần dạy bảo mọi người những điều cốt lõi mà người tại gia cần siêng thực hành, để được an vui.    

Này các đệ tử, nếu người áo trắng sống đời thanh cao, giữ gìn trọn vẹn năm điều đạo đức, tu tập đầy đủ bốn tâm cao thượng, có thể đạt được một cách dễ dàng phước và hạnh phúc ở trong hiện tại và biết chắc rằng không còn rơi rớt trong các nẻo ác: Địa ngục, ngạ quỷ và loài động vật trong kiếp tương lai. Đồng thời, người ấy đã được chắc chắn dự vào dòng thánh ở quả thứ nhất.   

Đạo đức thứ nhất: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa mọi sự giết hại, buông bỏ vũ khí, chấm dứt bạo động, tu tập từ bi, thương xót mọi loài, bảo vệ thiên nhiên, biết sống hổ thẹn, lương tâm trong sáng. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng nhổ tận gốc rễ tâm niệm giết hại, sống trong hạnh phúc và sự an vui.  

Đạo đức thứ hai: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa mọi sự trộm cắp, tôn trọng sở hữu hợp pháp của người, những gì không cho thì không được lấy; vui thích bố thí, cứu người giúp đời vượt qua nghèo khổ; lúc bố thí thì không cầu đền đáp. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng không bị tâm lý tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt che lấp, sống trong liêm khiết, giàu lòng vị tha.   

Đạo đức thứ ba: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa tà dâm ngoại tình, sống hạnh chung thủy, bảo vệ hạnh phúc tất cả mọi người trong sự bảo hộ của cha và mẹ, hoặc cả cha mẹ, hoặc anh chị em, hoặc bên sui gia, hoặc người đồng tính, hoặc vợ chồng con của mình và người, cả kẻ cuồng dâm, bạo lực gia đình, hoặc kẻ bán phấn. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng không bị tâm lý hưởng thụ thấp kém làm mất hạnh phúc.      

Đạo đức thứ tư: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa những lời dối gạt, chấm dứt nói láo - tuyên bố sự thật, không nói chia rẽ - nói lời xây dựng, không nói thô tục - nói lời lịch sự, không nói tán gẫu - nói lời lợi lạc. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng an trú chính niệm, đáng được tin cậy, uy tín tăng trưởng.            

Đạo đức thứ năm: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa rượu và ma túy, các chất gây say; chấm dứt thói quen hưởng thụ độc tố; không tham gia  sản xuất, buôn bán các độc tố này. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng giữ gìn sức khỏe và sống hạnh phúc với người thân thương. 

Này các đệ tử, làm người áo trắng, sống đời tại gia, hãy cố gắng giữ năm điều đạo đức vừa được tuyên thuyết, để sống hạnh phúc với nhiều phước báo trong hiện tại và mai sau.

Này các đệ tử, hãy lắng lòng nghe Như Lai giảng dạy phương pháp đạt được bốn tâm cao thượng trong hiện tại này, một cách dễ dàng với nhiều giá trị.      

Tâm cao thượng một: Đệ tử áo trắng quán niệm Như Lai là bậc Giác ngộ không còn dính mắc, bậc Minh Hạnh Túc, là bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, là Thiên Nhân Sư, là Phật, Thế Tôn. Nhờ quán niệm này, vọng tâm, dục niệm thảy đều tiêu diệt; không còn yếu tố bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ, lo âu ảnh hưởng, chi phối. Nhờ quán tưởng Phật, tâm được lắng trong, đạt an vui lớn.      

Tâm cao thượng hai: Đệ tử áo trắng quán niệm chánh pháp được Phật giảng dạy tài tình dễ hiểu, có khả năng lớn đưa đến giải thoát mọi sự khổ đau và các phiền não; tâm được thư thái, không bị nóng bức, an vui lâu dài.        

Tâm cao thượng ba: Đệ tử áo trắng quán niệm Tăng đoàn của đức Như Lai, đi trên nẻo thiện, thánh đạo chân chánh, hướng theo giáo pháp, thực tập giáo pháp, sống đúng giáo pháp. Có vị đã chứng quả A-la-hán, quả A-na-hàm, quả Tư-đà-hàm, quả Tu-đà-hoàn, hoặc đang trên đường đạt các quả ấy. Tăng đoàn gồm đủ bốn đôi, tám bậc, thành tựu đạo đức, thiền định, trí tuệ, giải thoát cũng như tri kiến giải thoát. Thánh chúng như thế đáng được tôn kính, phụng sự, cúng dường, là ruộng phước tốt cho đời gieo trồng.      

Tâm cao thượng bốn: Đệ tử áo trắng quán niệm giới luật được Phật giảng dạy không có khuyết điểm, không bị tỳ vết, không bị nhơ uế, có khả năng lớn bảo hộ đạo đức, giúp người giữ giới an trú vững chãi trong cảnh giới Phật. Giới này thanh cao vốn được hiền trí khen ngợi, tiếp nhận, thực tập, truyền bá.    

Này các đệ tử, nên ghi nhớ rằng đệ tử áo trắng khi thực tập được bốn tâm cao thượng một cách trọn vẹn là đã chấm dứt các nẻo xấu ác, không còn đọa lạc địa ngục, ngạ quỷ và loài súc sanh, hướng đến chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, ngay trong hiện tại. Người đệ tử ấy đi về nẻo giác, chuyển hóa phiền não, thanh tịnh thân tâm; qua lại tối đa bảy lần sinh tử trong cõi trời người là có thể đạt giác ngộ, giải thoát, không còn khổ đau.

Sau khi tuyên thuyết năm điều đạo đức, bốn tâm cao thượng, Thế Tôn ân cần trùng tuyên tóm tắt bằng một bài kệ dễ hiểu sau đây:    

Người tại gia sáng suốt,

Sợ các cảnh giới xấu,

Siêng thực tập chính pháp,

Chuyển hóa mọi khổ đau.    

Giữ năm điều đạo đức:

Không giết hại sự sống,

Chân thật, không trộm cắp,

Chung thủy trong hôn nhân,

Không nói lời tổn hại,

Không rượu và ma túy.    

Người đệ tử áo trắng

Thường thực tập niệm Phật,

Thường thực tập niệm Pháp,

Thường thực tập niệm Tăng,

Thường quán niệm đạo đức,

Nhờ đó, tâm thảnh thơi.     

Người đệ tử áo trắng

Hoan hỷ với bố thí,

Gieo trồng phước hiện tiền,

Khéo thực tập chính niệm,

Giác ngộ và giải thoát.      

Hãy quan sát đàn bò

Có con vàng, đỏ, trắng,

Một màu hoặc có đốm;

Dù bò màu sắc gì,

Hoặc xuất xứ từ đâu,

Giá trị thật của bò,

Là ở sức chuyên chở.

Là con bò hữu dụng

Phải có sức khỏe mạnh,

Kéo xe, chuyên chở nhiều,

Giúp chủ trong công việc.  

Trong thế giới con người

Dù xuất thân thế nào,

Già trẻ hay nam, nữ

Vua chúa hay thương gia

Tu sĩ hay thường dân,

Bất kỳ ai giữ giới,

Sống trong sạch, đứng đắn,

Trở thành người đạo đức,

Khéo vượt khổ, thảnh thơi,

Đạt được sự giác ngộ.

Cúng dường người như vậy

Sẽ được phước đức lớn.    

Như Lai không phân biệt

Giai cấp và nguồn gốc.

Kẻ không có tài đức

Không lợi lạc cho ai.

Cúng dường người như thế

Không có giá trị nhiều.                      

Phật tử siêng tu huệ,

Tâm hướng về Phật pháp,

Căn lành luôn tăng trưởng,

Hiện đời được hạnh phúc,

Khi chết tái sinh lành,

Qua lại trong trời người,

Nhiều nhất là bảy lần,

Tiếp tục tu nhân lành,

Đạt niết-bàn giải thoát.  

Nghe Phật dạy xong, ngài Xá-lợi-phất, Cấp Cô Độc và năm trăm cư sĩ cảm thấy hân hoan, phát nguyện làm theo những điều Phật dạy, đồng thời phát nguyện truyền bá lời Phật, đem lại lợi lạc cho khắp mọi người.

                                                              (Bản dịch Thích Nhật Từ) 

CHÚ GIẢI VÀ DUYÊN KHỞI KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG

Chủ yếu bài Kinh này Phật dạy cho người cư sĩ tại gia, trước tiên là phải có niềm tin chân chính về bốn tâm cao thượng và gìn giữ năm điều đạo đức, nhằm xây dựng nếp sống bình yên, hạnh phúc trong gia đình và xã hội, ngay trong giờ phút hiện tại.

Người cư sĩ tại gia mà trong Kinh gọi là người áo trắng, nếu ai thực hiện được những điều trên thì chứng được quả Thánh đầu tiên là Tu-đà-hoàn trong bốn dòng Thánh, rồi tiến tu tiếp để chứng quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và quả vị cuối cùng là A-la-hán. Khi chứng được quả vị Tu-đà-hoàn thì không còn bị đọa lạc vào ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Kinh là gì? Kinh là lời Phật dạy bằng tiếng Phạn, nói cho đủ là Tu-đa-la, người Trung Hoa dịch là Khế Kinh. Khế Kinh có nghĩa là khế lý và khế cơ và ứng hợp mọi thời đại.

Khế lý là sao? Là luôn đúng với lý giác ngộ, giải thoát của chư Phật, tức là dù trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu sự thăng trầm của cuộc sống, nhưng lời Phật dạy vẫn giúp cho con người biết cách làm chủ bản thân, để sống đời bình yên, hạnh phúc bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Khế cơ là khế hợp với tất cả mọi người, dù là người cổ xưa hay là người văn minh hiện đại, đều có thể áp dụng tu hành mà chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Trong cuộc sống của kiếp người, ai khéo tu thì chuyển hóa được phiền não khổ đau, nên Phật tùy theo căn cơ mà chỉ dạy cho hai giới xuất gia và tại gia. Người xuất gia, Phật chỉ dạy pháp giác ngộ giải thoát hoàn toàn và người tại gia Phật dạy từng phần giác ngộ và hành Bồ-tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn.

Kinh Người Áo Trắng nhằm chỉ cho người cư sĩ tại gia, là nhân tố nền tảng của gia đình và xã hội, Phật vì lòng từ bi thương xót nên đã dạy năm điều đạo đức và bốn tâm cao thượng, nhằm giúp cho mọi người sống an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

Ta cũng có thể nói đạo Phật là một tôn giáo dạy con người biết hướng thiện, dứt ác làm lành, nhờ tin sâu nhân quả và biết cách sống tốt hơn để hoàn thiện chính mình về mọi mặt. Sống là một nghệ thuật để con người biết cách thương yêu và san sẻ cho nhau bằng trái tim hiểu biết, với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Sống có hiểu biết tạo nên hạnh phúc cho mình và người khác. Hạnh phúc của chúng ta và hạnh phúc của người khác có liên quan mật thiết với nhau, như nước với lửa rất cần nhau trong đời sống hằng ngày. Để tạo nên nhịp cầu kết nối yêu thương, nhằm xây dựng hạnh phúc bền vững và lâu dài cho mình và người khác, ta cần phải có niềm tin đối với Tam bảo và giới pháp chân chính.

Niềm tin chân chính là niềm tin có trí tuệ sau khi có cân nhắc và chiêm nghiệm. Vì thế, đức Phật khuyên chúng ta đừng nghe những gì người khác nói, dù đó là truyền thuyết có từ nhiều đời. Nghe điều gì, chúng ta nên suy nghĩ, tìm tòi xem sự việc đó có thiết thực lợi ích hay không, vì khi ta muốn tin điều gì mà không có trí tuệ suy xét, không chứng minh được nguồn gốc của nó thì dễ rơi vào mê tín, dị đoan.

Đức Phật cũng dạy chúng ta rằng đừng vội tin những gì được nhiều người tin theo. Nếu họ là nhà trí thức có đời sống đạo đức, nhân cách cao thượng được nhiều người quý mến kính trọng, ta cũng phải suy xét cho kỹ càng giá trị lợi ích của họ. Niềm tin của chúng ta căn cứ trên những tiêu chuẩn như vậy là niềm tin chân chánh.

Như chúng ta đã biết, niềm tin là mẹ sinh ra các công đức lành được trải nghiệm qua đời sống hiện thực, nếu không chúng ta sẽ phạm phải sai lầm đáng tiếc vì niềm tin mù quáng và từ đó chúng ta cũng sẽ bị người lợi dụng để làm các việc xấu ác.

Khi niềm tin của chúng ta bị lợi dụng, chúng ta trở thành người cuồng tín si mê dại dột, nên mặc tình giết người vì nghĩ rằng sẽ được lên thiên đường hưởng phước báo tối cao. Phước đâu chẳng thấy, chỉ thấy mang tội giết người và bị tù tội hoặc tử hình cho nên tạo ra mối nguy hiểm cho xã hội.     

Trong mối quan hệ giao tế giữa con người với con người, lòng tin tạo nên sự gắn bó thân thiết trong sự liên quan các mối giao dịch làm ăn và củng cố uy tín cho chính mình đối với cộng đồng xã hội. Trong suốt quá trình xây dựng lòng tin đối với mọi người, chính chúng ta cần phải có sự kiên nhẫn và thành thật tin sâu nhân quả. 

Trong sinh hoạt gia đình, sự thương yêu, đùm bọc sẻ chia cho nhau đều bắt đầu từ lòng tin giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, người thân và láng giềng. Lòng tin như một chất keo, luôn gắn bó con người với con người và là một chất liệu kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, để cho chúng ta thêm gắn bó và cảm thông với nhau trong lâu dài.

Phật dạy: Tin là căn bản của sự thành công và là nguồn gốc để phát sinh muôn hạnh lành. Nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, bốc đồng mà không có suy xét kiểm chứng qua sự thực hành. Ðức Phật đã từng nói rằng ta chỉ là vị thầy dẫn đường giúp cho mọi người đi đến con đường bình yên hạnh phúc, ta không phải là một vị thần linh hay một đấng tối cao có quyền ban phước giáng hoạ.

Người Phật tử tin Phật là một con người giác ngộ và chúng ta cũng là một con người, ai quyết tâm và kiên trì, bền bỉ sẽ biết cách chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, do đó sự thành công của chúng ta không phải là một thứ mê tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của mỗi con người, có thể làm cho chúng ta ỷ lại, lười biếng mà dang tay chờ đợi những giáo điều ngu ngơ huyền hoặc.

Ta tin chính mình là chủ của bao điều họa phúc, để ta biết cách làm chủ bản thân qua ý nghĩ, lời nói và hành động mà sống đời bình yên, hạnh phúc ngay nơi cõi đời trần tục này. Niềm tin ấy rất cần thiết cho mọi người, nhưng niềm tin ở đây là niềm tin có trí tuệ, sau khi ta biết quán xét và chiêm nghiệm, không phải niềm tin mù quáng.

Đây là bài Kinh căn bản thể hiện nhân cách sống tốt đẹp về đạo đức làm người, Phật nói cho người cư sĩ tại gia. Được xây dựng bởi niềm tin chân chính, có ý thức và chịu trách nhiệm về ý nghĩ, lời nói và hành động của mình qua cách thức giữ năm giới.

Tôi nghe như vầy, tức là thầy A Nan, Ngài là một trong mười vị đệ tử xuất cách nhất thời Phật còn tại thế, thầy có tài nhớ giỏi và trùng tuyên lại kinh này, nhờ có thầy năm ba lần xin Phật mà phái nữ được xuất gia tu học bình đẳng với nam giới. Bởi vì đất nước Ấn Độ trong thời kỳ đó, phân biệt giai cấp và trọng nam khinh nữ.

Bài Kinh được nói tại Tịnh xá Kỳ Viên, rừng Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc, thành Xá Vệ, nước Câu-tát-la. Thái tử Kỳ-đà là con vua Ba Tư Nặc, thái tử  được sinh ra đúng ngày vua Ba Tư Nặc chiến thắng quân giặc phiến loạn. Nhân ngày chiến thắng đó mà đặt tên cho con mình là Kỳ-đà, có nghĩa là chiến thắng. Cấp Cô Độc là vị đại thí chủ nổi tiếng thời đức Phật về công hạnh bố thí và sẻ chia.

Ngoài việc hộ trì Tam bảo, cúng dường tứ sự cho chư Tăng, ngài còn san sẻ, giúp đỡ cho người bất hạnh vô điều kiện, nên được người đời ban tặng cho danh hiệu Cấp Cô Độc. Cấp có nghĩa là cho, cho người cô độc chén cơm, manh áo để tồn tại. Ngài cúng dường chư Tăng và giúp đỡ kẻ nghèo khổ bần cùng, không tính toán phân biệt thân hay sơ.

Theo lịch sử, sau khi trưởng giả Cấp Cô Độc được Phật chỉ dạy đạo lý nhân quả nên đã có lòng tin vững chắc đối với Tam bảo, mà phát tâm mua một miếng đất đẹp để xây dựng Tịnh xá.

Trưởng giả Cấp Cô Độc tìm mãi chẳng thấy miếng đất nào vừa ý để xây dựng Tịnh xá, chỉ có miếng đất của thái tử Kỳ-đà con vua Ba Tư Nặc là có đủ điều kiện về mọi mặt đẹp đẽ, hùng vĩ và trang nghiêm. Nhưng thái tử Kỳ-đà là một người giàu có, ông đâu cần tiền bạc, nên khi Ngài Cấp Cô Độc tới đặt điều kiện mua đất làm Tịnh xá cho Phật và Tăng đoàn, Thái tử vì không muốn bán, nên nói giá trên trời để ông đi tìm chỗ khác mà mua, “nếu ông đủ khả năng lấy vàng trải đầy đất thì ta sẽ bán cho”.

Bút sa gà chết, không ngờ lời nói chơi đó đã trở thành sự thật. Sợ Thái tử đổi ý, nên sáng sớm hôm sau trưởng giả Cấp Cô Độc đã tranh thủ cho người chở đầy các xe vàng đến để lót vào đất. Trong lúc mọi người lót vàng thì ông mới đứng trầm tư suy nghĩ, thái tử Kỳ-đà tưởng ông tiếc nuối nên mới hỏi: “bộ ông hối hận hay sao mà đứng ngẩn người ra như thế”?

Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời: “tôi đang suy nghĩ nên lấy số vàng ở kho nào, để lót cho được đầy đủ số đất còn lại mà khỏi phải mất thời gian”.

Nghe ông nói vậy, Thái tử Kỳ-đà rất đỗi ngạc nhiên nên mới hỏi Cấp Cô Độc, Phật là ai mà ông dám bỏ gần hết phân nửa gia tài, để mua đất làm Tịnh xá cúng dường cho Phật.

Trưởng giả Cấp Cô Độc lúc bấy giờ mới nói: Phật trước kia là một hoàng thái tử được kế thừa ngôi vua, Ngài có cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ, mà dám từ bỏ hết tất cả để tìm ra thân phận kiếp người, biết cách làm chủ bản thân, an nhiên tự tại sống đời giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Ngài đã mở ra một trang sử mới, một nét son vàng chưa từng có trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay. Sự thấy biết của Ngài, hoàn toàn đi ngược lại các truyền thống xa xưa cho rằng có một đấng thần linh thượng đế ban phước, giáng họa. Ngài đã thật sự giác ngộ giải thoát, nhờ thấy biết đúng như thật, không còn bị sự trói buộc bởi các dục lạc thế gian như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn sung, mặc sướng, ngủ nhiều”.

Khi nghe tới đây, thái tử Kỳ-đà như được rót mật ngọt vào tai, cảm thấy trong lòng an ổn nhẹ nhàng, nên đã tín tâm tôn kính đức Phật. Thái tử nói với Cấp Cô Độc, “ông khỏi cần phải lót vàng vào đất nữa, bao nhiêu đây là đủ rồi. Đất là phần của ông cúng dường, rừng cây hoa lá cùng hồ ao, suối nước mát trong là phần của tôi, xin được cúng dường cho Phật”.

Thế nên, ngày hôm nay khi chúng ta nghe bài kinh nào Phật nói tại thành Xá Vệ, thì ta có thể biết được tích truyện của thái tử Kỳ-đà và ông Cấp Cô Độc, hai người đã đồng phát tâm cúng dường Phật.

Trưởng giả Cấp Cô Độc một đời kính tin Tam bảo nên làm việc bố thí cúng dường cho chư Tăng không biết mệt mỏi, nhàm chán, mà còn hay giúp đỡ người nghèo khó, cô độc, bệnh hoạn, bất hạnh nên được mọi người tặng cho danh hiệu là Cấp Cô Độc.

Cấp có nghĩa là cho, là san sẻ hay giúp đỡ những người bất hạnh cô độc, không người nuôi dưỡng. Theo sử liệu ghi lại, Phật ở tại Tịnh xá Kỳ Viên của ông và Thái tử Kỳ-đà cúng dường suốt 25 mùa An Cư Kiết Hạ, trong 49 năm hoằng dương Chánh pháp.

Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng ngời về hạnh bố thí, cúng dường Tam bảo và hết lòng cưu mang, giúp đỡ nhiều người bất hạnh với tinh thần thương yêu bằng trái tim hiểu biết, luôn sống vì lợi ích tha nhân.

Kinh này được Phật nói tại chùa Kỳ Viên cho cư sĩ Cấp Cô Độc và một số  bạn bè thân thuộc của ông. Cư sĩ Cấp Cô Độc là người đã từng hộ trì Tam bảo với lòng thành kính và biết ơn. Chính ông đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà để dâng cúng cho Phật và giáo đoàn 1250 vị Tỳ-kheo có chỗ nơi để tịnh dưỡng và tu tập.

Ông có niềm tin vững chắc đối với Tam bảo và một lòng tôn trọng kính thờ Phật và chư Tăng. Ông đã độ được gia đình người thân, một vợ và con trai cùng ba cô con gái, biết quy hướng về Tam bảo và giữ giới trong sạch để sống đời an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Cư sĩ Cấp Cô Độc có rất nhiều bạn bè trong giới trí thức và mua bán làm ăn, ông đã khuyên nhủ được bạn bè thường xuyên đến đức Phật để học hỏi mà biết cách tu tập chuyển hóa. Ngày hôm đó, ông đã hướng dẫn các bạn bè tới Tịnh xá Kỳ Viên để thăm thầy Xá-lợi-phất và nghe thầy chỉ dạy cách thức tu hành.

Sau đó ông và các bạn tới đảnh lễ đức Phật. Trước sự hiện diện của thầy Xá-lợi-phất, Phật dạy cho ông và năm trăm người bạn Kinh Người Áo Trắng, tức là kinh cho người cư sĩ tại gia. Bài Kinh này là Kinh gối đầu nằm cho người cư sĩ tại gia mà Phật gọi là người áo trắng, nếu ai giữ được trọn vẹn năm giới và bốn tâm cao thượng thì coi như chứng được quả vị thứ nhất là Tu-đà-hoàn, tức là được vào dòng Thánh.

Trưởng giả Cấp Cô Độc đã được gặp Phật lần đầu tiên tại Tịnh xá Trúc Lâm đất nước Ma-kiệt-đà do vua Tần-bà-sa-la hiến cúng. Từ đó, ông tin sâu Tam bảo và muốn đạo Phật được truyền bá rộng rãi tại đất nước ông là thành Xá-vệ. Phật đã nhận lời thỉnh cầu trên.

Sau đó, Phật đã cho thầy Xá-lợi-phất cùng đi với ông Cấp Cô Độc về thành Xá Vệ đất nước Câu-tát-la. Ông đã mua được khu vườn nghỉ mát của thái tử Kỳ-đà, một khu vườn thật đẹp đúng với mong muốn của ông.

Trong Kinh Người Áo Trắng, chúng ta thấy trưởng giả Cấp Cô Độc đưa năm trăm người bạn tới thăm thầy Xá-lợi-phất trước rồi mới đến thăm Phật sau, vì có duyên cùng làm Phật sự xây chùa. Khi gần cuối đời, chính thầy Xá-lợi-phất và Ngài A-nan là người đến thăm bệnh ông và chỉ pháp yếu tu hành giải thoát, để ông trút hơi thở cuối cùng trong an lạc và nhẹ nhàng.

Kinh này Phật nói với thầy Xá-lợi-phất, nhưng cũng để cho trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm người bạn của ông cùng nghe. Nội dung chính của Kinh nói về năm giới cho người cư sĩ tại gia và bốn phép quán niệm về Phật, Pháp, Tăng và giới pháp chân chính.

Phật dạy nếu người cư sĩ tại gia giữ được năm giới trọn vẹn và bốn phép quán niệm cao thượng này thì thành tựu quả vị Tu-đà-hoàn, có nghĩa là chứng dòng Thánh thứ nhất trong bốn quả Thanh-văn. Khi một người cư sĩ tại gia đã chứng được quả vị này, thì sẽ không bao giờ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Chữ Thánh ở đây có nghĩa là thánh thiện và cao quý.

ĐỊA NGỤC NGẠ QUỶ SÚC SINH CHỊU KHỔ VÔ CÙNG TẬN

Năm loài cùng chung ở hay sáu đường sinh tử luân hồi có đầy đủ trong loài người, nhưng loài người có ưu điểm hơn năm loài kia nhờ biết suy nghĩ, nhận thức được mọi sự việc tốt xấu, đúng sai, vui buồn, thương ghét và thường xuyên nếm trải hương vị ngọt ngào hay đắng cay của cuộc sống. Chính vì vậy, đức Phật mới xuất hiện nơi cõi Ta-bà này vì loài người có đủ điều kiện để tu hành thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát. Năm loài còn lại không đủ khả năng tu hành thành Phật.

Đạo Phật ra đời đã trên 2600 năm, trải qua các cuộc thịnh suy, thăng trầm của thời đại nhưng không bao giờ có đổ máu, hận thù, tàn phá, giết hại, mà đạo Phật chỉ giúp cho con người sống có hiểu biết và yêu thương hơn bằng tinh thần từ bi hỷ xả với tấm lòng vô ngã, vị tha. Đó là ưu điểm của loài người, biết vận dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày mà sống an vui, hạnh phúc.

Địa ngục thì quá khổ đau cùng cực, không có chút tự do, chúng sinh rơi vào cảnh giới này chịu khổ triền miên không có ngày thôi dứt, chính vì vậy nên không có thời gian suy xét và quán chiếu, do đó cũng không tu được.

Nhìn từ góc độ thực tế, chúng ta thấy cũng có địa ngục trần gian, ai phạm tội giết người thì bị xích lại nhốt vào ngục tối, nặng nhất là án tử hình. Tội nhân bị án này sẽ ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm cứ phập phồng lo sợ không biết thần chết đến lúc nào để rước mình đi, khi nghe tiếng mở cửa là sợ điếng cả hồn vì ai cũng tham sống, sợ chết. Một ngày trôi qua là họ mừng một ngày vì vẫn nuôi hy vọng được sống để làm lại cuộc đời. Còn những án khác từ án chung thân đến án khổ sai từ một tháng cho đến hai ba chục năm và nhẹ nhất là hưởng án treo.

Nhìn từ góc độ triết lý học Phật giáo, chúng ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo, bò, gà, vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt. Mỗi một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ cho loài người.

Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể hình dung địa ngục trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại người, hại vật hoặc bị phiền não chi phối gọi là địa ngục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối.

Loài ngạ quỷ là loài quỷ đói thấy thức ăn mà ăn không được bởi nghiệp tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn chiêu cảm. Nhìn từ góc độ cuộc đời, ta thấy ngạ quỷ cũng có trong loài người thiếu ăn, nghèo đói, thèm khát, ham muốn quá đáng mà không được nên khổ đau bức bách. Quỷ đói không phải có trong người nghèo khổ mà cả người giàu có vì tham vọng quá lớn, không được như ý muốn cũng vẫn phải chịu khổ như thường.

Trong sáu đường sinh tử luân hồi, mỗi loài đều có hoàn cảnh và sự sống khác nhau. Loài súc sinh chúng ta thấy rất rõ là loại có cánh bay lượn trên không, chúng sống thành từng đàn, từng nhóm và tồn tại nhờ thức ăn của núi rừng thiên nhiên bao la theo kiểu hoang dã.

Nhóm thứ hai có cách sống nhờ sự trồng trọt của loài người, hầu như mạng sống của chúng ảnh hưởng theo sự phát triển của nhân loại. Nếu con người tồn tại và phát triển ngày càng đông thì có nguy cơ tiêu diệt các chủng loại khác và phá hủy thiên nhiên để phục vụ cho nhân sinh. Loài sống trên mặt đất cũng vậy, có loài sống nhờ rừng núi thiên nhiên và chúng có thể ăn nuốt lẫn nhau theo kiểu lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu.

Ngoài ra, các loài súc sinh sống gần con người, chịu sự nuôi dưỡng của con người và tùy theo khả năng mà chịu sự sai khiến làm việc, phục vụ cho con người, và có những loài được nuôi để cung cấp thức ăn cho nhân loại. Các loài sinh vật dưới nước cũng thế, chúng cũng bị con người bắt và nuôi dưỡng cũng để làm thức ăn phục vụ cho nhân loại.

Loài súc sinh của thời kỳ cổ đại được sống tự do, thoải mái trên những núi đồi thiên nhiên bạt ngàn, xanh tươi, màu mỡ, ít bị loài người sát hại. Một số loài súc sinh phải chịu ảnh hưởng phước báu của con người nên con vật nào được người thương thì cuộc sống có phần thoải mái, ngược lại thì bị người giết hại.

Con người thuần hóa các loài vật để phục vụ cho mình như lạc đà, lừa, ngựa, trâu, bò để chuyên chở và cày bừa. Việc săn bắn, đánh bắt, giăng bẫy các loài thú tuy có nhưng không đáng kể và việc nuôi thú để làm thực phẩm cho con người cũng không có nhiều.

Tuy nhiên, thế giới con người ngày nay quá đông nên nhu cầu đánh bắt loài vật không đủ sức cung phụng cho loài người, do đó con người phải tự nuôi thêm các loài gia cầm, súc vật theo công nghệ hiện đại để đủ đáp ứng nhu cầu thực phẩm. Ngoài ra, các loài vật cũng chịu sự ăn nuốt lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ nên luôn sống trong khổ đau, lầm lạc và thù ghét lẫn nhau.

Đức Phật đã thấy rõ thế giới này phải tương tàn tương sát để bảo tồn mạng sống theo nguyên lý duyên sinh lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, ăn nuốt giết hại lẫn nhau không có ngày thôi dứt.

Thế giới này sở dĩ có chiến tranh, sóng thần, động đất, thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn, dịch bệnh triền miên, đều do con người không biết gìn giữ năm điều đạo đức. Người Phật tử tại gia nhờ giữ giới trong sạch và biết giúp đỡ người khác khi cần thiết, nên dần hồi dứt được tâm giết hại mà phát khởi tâm từ bi rộng lớn. Nhờ vậy, không còn bị đọa lạc vào ba đường ác địa ngục, ngả quỷ và súc sinh.

Còn nếu chúng ta tuy có làm phước giúp đỡ nhân loại mà không có lòng tin đối với Tam bảo và không giữ giới trong sạch, thấy mình là kẻ giúp, người nhận, vật cho nên sinh lòng dính mắc mà chấp trước ta, người, chúng sinh, do đó dễ sân si và nóng giận, ai không làm theo ý mình thì dễ oán giận thù hằn.

Có những cái rất thực tế mà không ai chịu nhìn nhận là ta có hiểu biết, ta có suy nghĩ, ta biết tư duy, ta biết quán chiếu, ta có nhận thức sáng suốt nếu mình chịu khó học hỏi, tư duy, chiêm nghiệm và thực hành. Con người vì quá tham lam, nên làm cái gì cũng muốn được nhiều; do đó, tham được thì thêm tham, tham không được thì sinh ra oán giận, thù hằn mà tìm cách hủy diệt lẫn nhau.

Một số người hễ cứ nghĩ đến chùa làm lễ qui y là Phật sẽ ban cho hết tất cả, nên họ nhờ người khác ghi tên dùm và lấy lá phái. Bởi trong lá phái có câu qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục, qui y Pháp rồi khỏi đọa ngạ quỷ, qui y Tăng rồi khỏi đọa súc sinh.

Trong nhà Phật có nói ba đường khổ là địa ngục, ngạ quỷ, và súc sinh. Nếu qui y Phật rồi khỏi rơi vào địa ngục, qui y Pháp rồi khỏi rơi vào loài ngạ quỷ, qui y Tăng rồi khỏi rơi vào loài súc sinh. Nếu Phật làm được điều đó thì đâu có khuyên chúng ta, “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”.

Chánh pháp ở đây có nghĩa là lời dạy của Phật, muốn không bị đọa địa ngục thì chúng ta phải không nóng giận, không thù hằn, không cuồng tín, không si mê, tà kiến, không cướp của, giết người, không sát sinh, hại vật, không trộm cướp, lường gạt…

Như chúng ta đã biết, Phật là bậc giác ngộ sáng suốt hoàn toàn, không còn mê lầm, khổ đau. Qui y Phật tức là trở về con đường thanh tịnh, sáng suốt. Như một số người vì tin lầm, mê bậy, cuồng tín cho rằng giết người được lên thiên đàng, nên họ khủng bố, giết chóc, dã man. Thế giới này từng có những hạng người như thế, hỏi sao không đọa địa ngục cho được? Họ tưởng làm vậy sẽ được sinh thiên, nào dè bị đọa chỗ u mê, tối tăm, không có ngày ra khỏi.

Cũng vậy, khi chúng ta phát nguyện qui y tu theo Phật, có nghĩa là chúng ta phải tin sâu nhân quả và quyết tâm gìn giữ không gieo nhân xấu ác, để từng bước đi tới quả giác ngộ, giải thoát. Nhưng trong quá trình từ nhân đến quả, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực liên tục, phải cố gắng thực tập hạnh buông xả và kiên trì, bền bỉ tu hành, mới được kết quả như lời Phật dạy.

Qui y Pháp khỏi đọa vào loài ngạ quỷ, ngạ quỷ tức là loài quỷ đói. Vì người tu theo đạo Phật phải có tấm lòng rộng lớn, từ bi, thương yêu, bình đẳng với mọi người. Khi ta có lòng từ bi thì ai khổ đau, bất hạnh, chúng ta luôn tìm cách san sẻ và giúp đỡ. Nhờ lòng từ bi nên chúng ta không nỡ gian tham trộm cướp, lường gạt của ai, mà còn sẵn sàng giúp đỡ người khác bằng tình người trong cuộc sống.

Nhờ có lòng từ bi rộng lớn nên ta không có tâm tham lam, bỏn sẻn, tâm keo kiết, ích kỷ và ác độc với ai. Vì ta không gieo nhân như thế, nên không bao giờ bị đọa làm loài quỷ đói. Bởi vì chúng ta đã gieo nhân tốt thì làm sao bị quả xấu được. Cho nên, khi qui y Pháp rồi thì quý vị tránh khỏi làm loài quỷ đói, nhờ biết gieo nhân thương người, cứu vật bằng tất cả tấm lòng.

Chính vì thế khi đã qui y, chúng ta phải thực hành lời Phật dạy, để phát triển tâm từ bi rộng lớn, mà cùng nhau chia vui, sớt khổ theo tinh thần của Bồ-tát Quán Thế Âm, dấn thân đi vào đời để phục vụ chúng sinh bằng 33 ứng thân.

Qui y Tăng rồi khỏi đọa làm loài súc sinh. Tại sao? Vì súc sinh là từ nhân si mê mà ra. Phật đã nhập Niết Bàn từ lâu, bây giờ còn lại chư Tăng đang kế thừa con đường của Phật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho chúng ta biết đâu là điều thiện lành, tốt đẹp, đâu là điều xấu ác, đâu là tội, đâu là phước, đâu là chánh, đâu là tà.

Khi chư Tăng đã chỉ cho mình biết rõ rồi, thì mình phải khôn ngoan, sáng suốt, tránh tội làm phước, tránh ác làm lành và hay giúp đỡ sẻ chia. Như vậy, từ nhân đến quả ta không gây tạo nhân si mê thì làm sao bị đọa làm loài súc sinh cho được. 

Chúng ta đến với đạo Phật là để tu, có nghĩa là sửa, là bỏ, là chừa những thói quen tật xấu, nên Phật dạy lấy nhân quả làm nền tảng trong sự tu hành chuyển hóa. Khi chúng ta gieo nhân tốt rồi, còn phải cố gắng duy trì bền bỉ, bảo vệ dài lâu, thì sẽ được kết quả tốt đẹp. Nếu chúng ta gieo nhân xấu thì phải đọa vào chỗ khốn cùng, đó là một sự thật. Như vậy, người Phật tử chân chính phải biết sáng suốt chọn lựa nhân tốt để gieo, tránh không làm những việc xấu ác. Đó là chúng ta biết tu theo lời Phật dạy. 

Bước đầu tu theo Phật là qui y Tam Bảo, tức chúng ta tạo ba chánh nhân thiện lành, tốt đẹp.

Nhân thứ nhất là nhân sáng suốt để giúp ta không bị u mê, tối tăm che mờ, chính vì vậy mà ta không bị đọa vào địa ngục.

Nhân thứ hai là nhờ có lòng từ bi, thương yêu nhân loại bằng trái tim hiểu biết, nên không bao giờ bị đọa vào chỗ ngạ quỷ.

Nhân thứ ba là nhờ quán chiếu, chiêm nghiệm, xem xét, nên ta phát sinh trí tuệ, nhờ vậy không bao giờ bị đọa vào chỗ súc sinh.

Ba chánh nhân này như cái đỉnh ba chân giúp ta đứng vững trên đường tu học, không bị phong ba, bão táp làm chướng ngại nhờ tâm thanh tịnh, sáng suốt, từ bi và trí tuệ, nên chuyển hóa soi sáng muôn loài vật.

Muốn không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì ta phải giữ giới không giết người, hại vật, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, lường gạt và không uống rượu say sưa, hay dùng các chất độc hại như là xì ke, ma túy, thì chúng ta tránh khỏi bị người thù hằn oán giận, tránh khỏi nhân giết hại lẫn nhau, tránh khỏi nhân si mê và tù tội.

Giữ được đầy đủ những giới như vậy thì hiện tại chúng ta không bị người thù oán, rình rập giết lại, không phải bị tù tội vì vi phạm pháp luật, không bị ai phá hoại hạnh phúc gia đình, không bị ai lường gạt, hãm hại và không si mê, tối tăm nên sống đời bình yên, hạnh phúc.

Thế nên, khi chúng ta đến với đạo Phật, nếu biết tu thì được hưởng nhân nào quả nấy tốt đẹp, còn không biết tu thì phải chuốc lấy khổ đau. Ai muốn đi tới chỗ tốt, hưởng điều tốt, thì phải dứt ác làm lành. Từ nhân đi đến quả chớ không có cái ngẫu nhiên, cũng không có ai ban phước, giáng họa cho ta hết.

Người làm phước nhiều mà không quy hướng Tam bảo và không giữ giới trong sạch, thì được hưởng quả vị giàu có, quyền cao chức trọng, lãnh đạo nhiều người, nhưng lại tham lam ích kỷ cho gia đình mình, đất nước mình, nên có khi lại muốn xâm lược nước khác để chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên và bắt con người làm nô lệ. Trong nhà Phật gọi là A-tu-la, lịch sử thế giới nhân loại đã chứng minh cho ta thấy rõ điều này.

Thế giới nhân loại, không bao giờ có dân chủ thật sự bởi vì chúng ta gieo tạo nghiệp báo không đồng, con người càng giỏi thì càng độc tài, chỉ có người biết tu nhân tích đức, tin sâu nhân quả mới giàu lòng vị tha, còn tất cả chỉ vì lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình và cao hơn nữa là lợi ích đất nước, nên thế giới lúc nào cũng tranh giành, giết hại lẫn nhau là vậy đó!

Phật vì lòng từ bi rộng lớn, thương xót mọi người nên khuyên chúng ta tin sâu nhân quả, kính tin Tam bảo và giữ giới trong sạch, thì tránh được tai nạn binh đao, tàn sát giết hại lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Đó là một sự thật mà thế giới con người ít ai quan tâm đến, nên chiến tranh cứ xảy ra mà không có ngày thôi dứt. Nhân giết hại dẫn đến chiến tranh hận thù vay trả, chiến tranh tiếp diễn dẫn đến con người oán giận thù hằn, tàn sát giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

Là người Phật tử chân chính, chúng ta cần phải chiêm nghiệm kỹ chỗ này để không còn bị quả báo si mê lầm lạc và sẽ sống thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết, với lòng vô ngã, vị tha.

Một người biết giữ gìn năm giới trong sạch như không giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối hại người và dùng những độc tố có hại cho chính mình như  rượu, xì ke ma túy thì chắc chắn sẽ sống bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

Và tiến tới xa hơn nữa, gia đình nào, đất nước nào biết giữ gìn năm giới trọn vẹn và có lòng tín kinh đối với Tam bảo, thì chúng ta sẽ sống an lạc thái bình ngay nơi cõi đời này mà không cần tìm cầu đâu xa. Chúng ta sẽ không bao giờ bị chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, lũ lụt, tai nạn bất ngờ và dịch bệnh nan y làm tổn hại vì nhân quả rất công bằng, thì ngay nơi đây là Cực lạc hiện tiền.

TÔN TRỌNG VÀ BẢO VỆ SỰ SỐNG MUÔN LOÀI

Phật dạy người cư sĩ tại gia, gìn giữ năm giới pháp trọn vẹn sẽ giúp ta bình yên, hạnh phúc ngay trong hiện tại. Vậy năm giới là gì? Năm giới là nền tảng căn bản cho thế giới loài người, do Phật chế ra vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, giúp mọi người vượt qua cạm bẫy cuộc đời để sống an vui, hạnh phúc trong từng phút giây.

Đạo đức thứ nhất: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa mọi sự giết hại, buông bỏ vũ khí, chấm dứt bạo động, tu tập từ bi, thương xót mọi loài, bảo vệ thiên nhiên, biết sống hổ thẹn, lương tâm trong sáng. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng nhổ tận gốc rễ tâm niệm giết hại, sống trong hạnh phúc và sự an vui.  

Nếu chúng ta là người sống có văn hóa, có đạo đức, có nhân cách, có hiểu biết, có yêu thương, có đức tính từ bi hỷ xả và biết bao dung tha thứ, thì ta phải biết tôn trọng, bảo vệ sự sống chung cho tất cả muôn loài vật trên thế gian này. Người Phật tử chân chính phải phát nguyện không giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật, bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên, không khai thác phá hủy bừa bãi làm ảnh hưởng chung cho thế giới loài người.

Chúng ta không trực tiếp giết hại hay phá hủy môi trường, không xúi bảo người giết hại, không vui vẻ hay tán đồng khi thấy người giết hại dù chỉ là trong tâm tưởng. Cuộc sống này vô cùng quý giá, ai cũng tham sống sợ chết, cớ sao ta lại đành lòng nhẫn tâm giết hại kẻ khác. Giết hại là nhân gây thù chuốc oán làm khổ đau cho nhau không có ngày cùng.

Giới thứ nhất giúp ta thấy được những khổ đau do sự giết hại gây ra nên người Phật tử chân chính quyết tâm tôn trọng, bảo vệ sự sống cho tất cả muôn loài. Chúng ta không giết người, không trực tiếp giết hay xúi bảo người khác giết, hoặc vui vẻ khi thấy người khác giết.

Nếu chúng ta biết từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từ bi và làm lắng dịu những tâm xấu ác hại người, vật. Khi tâm từ phát triển thì  mọi thứ ưu sầu khổ não sẽ lần hồi được chuyển hóa. Và người Phật tử sẽ cảm thấy một năng lực mát mẻ, từ nội tâm thanh tịnh lan tỏa ra bên ngoài, thấm nhuần khắp tất cả mọi hiện tượng sự vật, trong mối giao thoa, bình đẳng hài hòa.

Người Phật tử chân chính biết hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật cho đến khi nào không còn tâm niệm giết hại nữa. Muốn được như vậy chúng ta phải tự biết xấu hổ khi cố ý hoặc vô tình làm tổn hại các loài vật khác, phải cảm thấy thẹn thùng mắc cỡ vì mình không làm được như thế, khi thấy người khác biết tôn trọng và bảo vệ sự sống.

Sự sống vô cùng quý giá, từ con người cho đến muôn vật ai cũng tham sống sợ chết, niềm vui căn bản của tất cả chúng sinh là được sống an vui, bình yên, hạnh phúc, mạng sống không bị đe dọa.

Giới thứ nhất được thể hiện qua lòng từ bi để bảo vệ sự sống của người Phật tử tại gia. Sự sống ở đây bao gồm tất cả muôn loài vật, trong đó có các loài động vật và thực vật, kể cả các loài nhỏ bé nhất. Sự thực tập ở đây nhằm giúp cho người tại gia, diệt trừ tận gốc tâm giết hại.

Muốn diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại, ta cần phải biết hổ thẹn và từ bi. Hổ là tự mình biết xấu hổ khi xâm phạm tới đời sống của một sinh vật khác, hoặc cố ý hay vô tình. Thẹn là mắc cỡ khi so sánh với người khác, khi thấy người kia biết bảo vệ sự sống của muôn loài vật, trong khi mình không làm được như họ.

Chúng ta biết hổ thẹn với chính mình khi làm điều sai quấy. Biết ăn năn hối lỗi tự biết xấu hổ với chính mình, thường tôn trọng danh dự cá nhân nên không bao giờ để tái phạm lại lỗi lầm xưa.

Khi lỡ làm điều gì sai trái, chúng ta biết hổ thẹn với mọi người, nên cố gắng không làm điều xấu ác. Người biết hổ thẹn xấu hổ với lỗi lầm, tức còn thấy mình sai nên cố gắng sửa sai, do đó có cơ hội làm mới lại chính mình và sống tốt hơn.

Từ là hiến tặng niềm vui cho kẻ khác về mặt tinh thần, mà niềm vui đó là được sống bình yên hạnh phúc. Bi là cứu khổ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh, do thiếu thốn khó khăn, bệnh tật. Ai hành trì được bốn tâm niệm này thì tự nhiên diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại, và kết quả là ta sẽ sống an vui hạnh phúc, vì không sợ bị ai trả thù.

Tiếp nhận và hành trì giới không giết hại mà còn hay bố thí giúp đỡ người khác, bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên, để bản thân mình sống từ bi thánh thiện. Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này đều nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn sự sống.

Khi thấy con người bị bất hạnh khổ đau đang sống trong phập phòng lo sợ, chúng ta tìm cách chia sẻ nhằm xoa dịu bớt nỗi khổ niềm đau giúp người qua cơn hoạn nạn. Chúng ta biết hiến tặng niềm vui cho kẻ khác để mọi người đều được sống an vui và hạnh phúc, biết san sẻ nỗi khổ niềm đau để làm vơi bớt sự lo lắng và sợ hãi cho mọi người.

Nếu chúng ta làm được như vậy thì ta đã thực hiện được 4 tâm niệm lớn của một vị Bồ-tát, mà Bồ-tát là người giác ngộ từng phần cho đến khi nào viên mãn bằng Phật mới thôi.

Giết hại tức hủy diệt mạng sống của một chúng sinh, quả báo đền trả tương xứng trong hiện tại và mai sau là bệnh hoạn, chết yểu và bị giết hại trở lại bởi oán giận, thù hằn. Người Phật chân chính cần phải suy xét cho thấu đáo giới này, vì nó là nhân của người không có lòng từ bi thương yêu bình đẳng muôn loài vật.

Đức Phật nhờ tu chứng nên mới thấy rõ sự tác hại lớn lao do nhân giết hại gây ra, nên Ngài đã hướng dẫn và khuyên nhủ mọi người không được giết hại là vì tâm từ rộng lớn, thương tưởng tất cả chúng sinh. Khi ta giết con vật như trâu bò, heo dê, gà vịt, tôm cá, chúng vẫn giẫy giụa, kêu la thảm thiết, trông thật tội nghiệp.

Thật ra, đâu có con vật nào tự hiến mình nạp mạng cho con người, vì chúng không có trí khôn và sức mạnh, nên đành phải chịu bị giết hại như vậy. Hầu như, tất cả các loài vật đều bị giết chết khi chưa đúng tuổi thọ, bởi sự ham muốn và thèm khát của con người.

Thế giới con người càng đông thì sự giết hại càng nhiều vì nhu cầu sự sống của nhân loại. Giết hại loài vật để cung cấp thực phẩm cho con người dĩ nhiên phải có tội, còn tội nặng hay nhẹ là tùy theo sự cố ý, hay bất đắc dĩ vì sự sống mà tội phước có phần cụ thể, rõ ràng.

Phước ở đây là cung cấp các nhu cầu cần thiết để nuôi sống con người. Tội là vì muốn bảo tồn mạng sống cho ta và người mà ta đành trực tiếp giết hại các loài vật. Cho nên, nhân quả rất công bằng, không biết thiên vị một ai, làm phước thì được phước, làm tội thì chịu quả xấu.

Có phước thì đời sống vật chất đầy đủ, nhưng ngược lại làm tội thì bị quả báo chết yểu, bệnh tật, và đời đời kiếp kiếp gieo nhân oán giận, thù hằn, vay trả, trả vay, không có ngày thôi dứt. Do đó, chúng sinh vì mạng sống của mình mà ăn nuốt, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Bây giờ, chúng ta thử chia ra làm bốn vế, để luận về tội và phước:

Một là người nuôi, hai là người bán, ba là người giết, bốn là người ăn. Có người đổ thừa tại có người ăn nên mới có người nuôi, người bán và người giết. Vâng, ăn uống là nhu cầu cần thiết để bảo tồn mạng sống cho con người và các loài vật, đó là quy luật sinh tồn không ai có thể chối cãi được. Chính điều này, Phật đã thấy quá rõ ràng thế gian là một chuỗi dài nhân duyên tương tàn tương sát, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, ăn nuốt lẫn nhau mà bảo tồn mạng sống.

Người vừa nuôi vừa giết là tội nặng vì cố tình, cố ý sát sinh, hại vật để nuôi sống bản thân mình và gia đình người thân, nhất là phụ nữ vì thương cha mẹ, chồng con mà giết hại nhiều loài vật. Chính vì lẽ đó, mà người nữ phải chịu quả báo mang nặng đẻ đau.

Mình không tự tay giết mà thuê mướn người khác giết, đây cũng là tội nặng vì cố ý xúi bảo và có một điều đặc biệt nữa là mình hoan hỷ vui vẻ khi thấy người khác giết hại, đây là sự đồng tình nên cũng nặng tội. Người giết hại nhiều, bị quả báo chết yểu, chết vì tai nạn bất ngờ và bệnh tật triền miên.

Người trực tiếp lưới đánh bắt, giăng bẫy, săn bắn cũng đồng với các tội trên. Còn người ăn mà không trực tiếp giết hoặc xúi bảo người khác giết, chỉ ăn vì sự sống, tuy có tội nhưng nhẹ, không sao, có thể sám hối, làm phước thì có thể hết tội, vì không có tâm ý giết hại. Tội và phước nặng hay nhẹ, nhiều hay ít là do có cố tâm, cố ý hay không mà thôi. Ngoài trừ các vị Bồ-tát, các vị Thánh nhân và chư Phật mới không giết hại từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động.

Người Phật tử tại gia hãy nên khôn ngoan, sáng suốt, chọn lựa nghề nghiệp chân chính để không làm tổn hại nhiều đến muôn loài vật. Trước tiên là không được giết người, rồi hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật, cho đến khi nào giữ được hoàn toàn trọn vẹn giới không giết hại và ăn trường chay mới thôi.

Người Phật tử vì hoàn cảnh sống nên phải nuôi súc vật để bán mà lấy tiền nuôi sống gia đình, người thân; nếu chỉ nuôi để bán, không trực tiếp giết vật, tuy có tội, nhưng tội này nhẹ hơn là trực tiếp giết vật, nên có thể sám hối, và làm nhiều việc phước đức thì có thể chuyển được tội nhẹ bớt hoặc dứt hẳn.

Còn nếu nuôi bán và giết trực tiếp thì tội này rất nặng, phải chịu quả báo theo luật nhân quả thù hằn vay trả, không có ngày thôi dứt. Còn vì sự sống mà mua ăn, không trực tiếp giết hại với điều kiện không thấy người giết, không nghe con vật kêu la khi bị giết, con vật đã được làm sẵn thì không sao, nếu có tội cũng nhẹ, sám hối và làm phước thì từ từ sẽ hết.

Tội ở đây được hình thành khi người đó có cố tâm, cố ý, phát khởi từ lòng tham lam, ích kỷ, muốn giết hay xúi bảo người khác giết, hoặc vui vẻ khi thấy người giết. Ai mở lò sát sinh là tội nặng vì cố ý và mua bán, chế tạo vũ khí, rồi xúi bảo nhân loại giết hại lẫn nhau, đây là tội nặng phải chịu quả khổ, chết chóc, đau thương vô số kiếp.

Trường hợp bất đắc dĩ vì sinh ra nơi vùng sông biển nên phải làm nghề đánh lưới bắt các loài thủy sản. Ta chỉ đánh bắt các loài đủ tiêu chuẩn do luật pháp ban hành, không nên đánh bắt các loài còn quá nhỏ. Chính yếu,  Phật chế giới cho người tại gia là không được giết người, “quý vị hãy nên nhớ chỗ này” và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật, cho đến khi nào giữ được trọn vẹn giới không giết hại.

Trong cuộc sống khó tránh khỏi việc vô tình giết hại, như làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp và phục vụ cho con người, ta phải dùng thuốc trừ sâu, làm vệ sinh phải hại đến loài trùng kiến, vậy người Phât tử phải làm sao để tránh khỏi tội giết hại?

Từ con người cho đến muôn loài vật trên thế gian này vốn tồn tại trong nhịp cầu nhân quả mang tính cách tương đối, ai khôn ngoan sáng suốt và có tu nhân tích đức nhiều đời, thì sẽ biết chọn lựa nghề nghiệp chân chính mà ít làm tổn hại đến con người và các loài vật.

Giết hại là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, làm cho nhân loại khổ đau, chúng sinh hoảng sợ, là nhân dẫn đến quả u mê, tối tăm, mù mịt. Người Phật tử chân chánh phải nên dứt khoát xa lìa nghiệp giết hại, nếu không sẽ bị đọa lạc vào chỗ khốn cùng, chịu quả báo cực kỳ đau khổ vô số kiếp.

Cho nên, ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, chúng ta hãy nên học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống cho mọi người và muôn loài, để cùng nhau không bị quả báo chết yểu. Bậc làm cha mẹ hãy nên khuyên dạy con cái không nên cố ý giết hại, và khi lớn khôn trưởng thành phải biết chọn lựa nghề nghiệp chân chính, để không làm tổn hại cho người và vật.

Ngược lại, ta không giết hại mà còn hay phóng sinh giúp người cứu vật, mở rộng tấm lòng nhân ái, khuyến khích, khuyên nhủ nhau hạn chế sự sát sinh hại vật, kêu gọi mọi người ăn chay ít nhất mỗi tháng một vài ngày. Nhờ vậy, thế giới dứt bớt nghiệp binh đao, chiến tranh và khủng bố sẽ được giảm bớt mà sống an vui, hạnh phúc.

Đạo đức trong Kinh Người Áo Trắng, nguyên tắc thứ nhất là chấm dứt sự giết hại, tức tránh xa lối ứng xử thô bạo, hận thù, thích thú gây thiệt hại lên sự sống của sinh vật, dù sinh vật đó là con người hay các loài thấp bé khác.

Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự giết hại, chấm dứt sự giết hại, buông bỏ khí giới, biết hổ biết thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi loài sinh vật, kể cả các loại côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại.

Như vậy, nguyên tắc hay giới thứ nhất không chỉ đơn thuần là không được sát sinh, xa lìa sát sinh mà còn phải khởi tâm từ bi, bảo hộ mạng sống của mọi loài. Chỉ khi nào ta đoạn tận tâm niệm giết hại, phát triển năng lực của tâm từ bi thì sự bảo hộ, giữ gìn giới thứ nhất mới được xem là trọn vẹn.

TỪ BỎ VĨNH VIỄN GIAN THAM TRỘM CƯỚP

Đạo đức thứ hai: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa mọi sự trộm cắp, tôn trọng sở hữu hợp pháp của người, những gì không cho thì không được lấy; vui thích bố thí, cứu người giúp đời vượt qua nghèo khổ; lúc bố thí thì không cầu đền đáp. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng không bị tâm lý tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt che lấp, sống trong liêm khiết, giàu lòng vị tha.   

Ý thức được những khổ đau do gian tham trộm cướp, lường gạt lấy của người dưới nhiều hình thức, người Phật tử chân chính nguyện mở rộng tấm lòng thương xót, không xâm hại tài sản vật chất của người khác, để đem lại niềm vui sống cho tất cả mọi người. Chúng ta phải ý thức dù là một cây kim, cọng chỉ nếu không phải của mình hay người khác không cho, thì ta không được tự ý lấy làm của riêng.

Trộm có nghĩa là canh me, rình rập lén lấy không để cho người khác thấy. Cướp có nghĩa là công khai, ngang nhiên cưỡng đoạt lấy trước mặt mọi người. Cân non bán thiếu, trốn thuế, lường gạt đều gọi là trộm. Lợi dụng quyền cao chức trọng tham ô, hối lộ, ăn chặn bắt chẹt người phải đưa tiền của đều gọi là cướp.

Tham lam muốn chiếm lấy của người làm của riêng cho mình, là do thói quen lười biếng làm ít mà muốn hưởng thụ nhiều, là nhân dẫn đến nghèo cùng khốn khổ trong hiện tại và mai sau. Có biết bao người đau khổ vì bị mất của, bị lừa đảo mà túng quẫn dẫn đến tự sát.

Lại nữa, tiền bạc là phương tiện để nuôi sống bản thân và gia đình, bao nhiêu năm tháng chắt chiu dành dụm, giờ thì đội nón ra đi. Sự mất mát tài sản làm cho gia đình trở nên thiếu thốn, khó khăn, nghi ngờ lẫn nhau, có thể dẫn đến tan nhà nát cửa. Sự đền trả xứng đáng của quả báo này là nghèo cùng vô số kiếp và nếu có nhiều tiền của thì cũng không thể tự do sử dụng tiêu xài.

Chúng ta nên nhớ của phù vân khó bao giờ tồn tại, bởi sống trên sự đau khổ của người khác. Nhan nhãn mỗi ngày có những vụ lừa đảo, lường gạt trong xã hội mà báo chí thường đăng tải, là do lòng tham muốn quá đáng của con người. Con người vì lòng tham lam quá đáng nên mới dễ bị người khác lường gạt.

Người Phật tử chân chính khi đã tin sâu nhân quả rồi, thì không khởi tâm trộm cắp của người khác dưới mọi hình thức. Nếu ta không tỉnh thức trong từng phút giây, thì lòng tham lam sẽ che mờ tâm trí ta, dẫn đến bị tù tội chịu thống khổ vô cùng. Những thủ đoạn tinh vi, như gian dối, lường gạt, ăn chặn của người khác, tham nhũng, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... xảy ra hằng ngày.

Chỉ khi nào ta không khởi tâm trộm cắp, muốn chiếm đoạt của người khác, đó là một nghiệp lành cao cả mà ít ai làm được vì lòng tham lam, ích kỷ. Khi ấy, những hiện vật trưng bày ở những nơi công cộng như đường sá, vườn hoa, công viên, nhà mát, khu di tích lịch sử... ở đâu đều còn nguyên vẹn ở đó, được mọi người thích thú chiêm ngưỡng.

Quả báo của sự trộm cướp nặng thì nghèo cùng vô số kiếp hoặc làm thân súc vật để đền trả cho người, nhẹ thì ruộng vườn, nhà cửa, tài sản bị thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn, sóng thần, động đất phá hủy. Chúng ta hãy nên tin sâu nhân quả làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau.

Nhân trộm cướp là việc làm xấu ác, cả thế giới loài người đều không chấp nhận nên có luật pháp chế tài, phạt tù, nặng thì tử hình, huống hồ là luật nhân quả luôn âm thầm chi phối.

Trên thế gian này, người được giàu sang, phú quý, hiển vinh, công thành danh toại là nhờ biết tu nhân tích phước từ nhiều đời trước. Trên đời này không có việc gì ngẫu nhiên, đương nhiên, khi không, tự nhiên mà thành. Ngoài việc không gian tham trộm cướp lường gạt của người khác, ta còn phải biết bố thí, giúp đỡ sẻ chia.

Muốn được giàu sang nhiều của cải vật chất ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Nếu ta không có khả năng về vật chất để thực hành bố thí, thì ta phát tâm hoan hỷ khi thấy người khác làm việc thiện ích. Người bố thì thì được phước giàu sang, người tuỳ hỷ vui theo việc làm tốt của người khác thì không bị tâm thương ghét, ganh tỵ, tật đố làm tổn hại.

Vậy bố thí, cúng dường có ý nghĩa gì? “Bố thí” tiếng Phạn là Dana, có nghĩa là sự cho; còn theo từ ngữ Hán Việt “bố” là cùng khắp, “thí” là cho, nghĩa là cho cùng khắp không giới hạn. Thông thường, ta chỉ bố thí cho người thân, rộng hơn nữa là cho người nghèo khổ, ít ai bố thí cho người ta đang ghét bỏ hay hận thù.

Từ ngữ “cúng dường” là nói trại của hai chữ “cung dưỡng”, có nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi. Về nội dung thì bố thí hay cúng dường chỉ là một, không có gì là sai khác. Tuy cùng chung một nghĩa cử, một hành động, nhưng người ta dùng hai từ khác nhau để cho phù hợp với đối tượng thọ nhận; ta cho với lòng hảo tâm, thương cảm thì gọi là bố thí; còn cho với lòng ngưỡng mộ, tôn kính thì gọi là cúng dường.

Thí dụ, cha mẹ là hai đấng sanh thành mang nặng đẻ đau, nuôi ta khôn lớn, lo cho ta ăn học tới nơi tới chốn, dựng vợ gã chồng, tạo cho ta gia tài sự nghiệp, ta phải có trách nhiệm cúng dường cha mẹ khi tuổi già hay lúc bệnh hoạn, ốm đau… (nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi cha mẹ.)

Tại sao ta phải cúng dường người tu hành chân chánh? Cha mẹ làm nên thân ta, thầy Tổ giúp ta biết được điều hay lẽ phải để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, không rơi vào hố sâu tội lỗi. Vì vậy, từ cúng dường được dùng đối với các bậc trưởng thượng, tôn kính như cha, mẹ, thầy Tổ… là những người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ dạy, giúp ta nên người.

Ngoài từ ngữ bố thí, cúng dường còn có nhiều từ ngữ khác như kính tặng, kính biếu… để nói lên lòng tôn kính của người cho. Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử dụng với nhiều ý nghĩa như cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ… Tất cả đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho. Khi gặp người nghèo khổ ta thương tình giúp đỡ gọi là “cho” hay gọi là “bố thí” cũng được.

Giới không gian tham trộm cướp thể hiện tinh thần trong sạch liêm khiết của người Phật tử tại gia, đóng góp vào sự công bằng cho xã hội. Căn bản của sự tu hành là diệt trừ tận gốc sự không cho mà lấy, nguyên nhân chính là do lòng tham lam sai sử, bởi sự chấp ngã nhiều đời của mình.

Vị đệ tử áo trắng thường ưa thích bố thí, giúp đỡ người khác, tìm niềm vui trong sự sẻ chia đóng góp và khi bố thí mà chúng ta không cầu đền đáp. Bố thí ở đây là hiến tặng niềm vui cho kẻ khác, bởi vì sự thực tập này bất nguồn từ tâm niệm từ bi, thương xót bình đẳng mà ta có thể giúp người cứu vật, không phân biệt và mong cầu đền đáp.

Có ba hình thức bố thí. Trước hết là bố thí vật chất, tức bố thí những gì  thuộc sở hữu của mình. Ai cũng tham lam hay muốn chiếm hữu của người khác. Do đó rất khó để chúng ta mở lòng ra bố thí cho người khác một cách hoan hỷ. Ngoài việc giúp đỡ, sẻ chia quan tâm đến người khác, chúng ta còn phải thương yêu, chăm sóc bảo vệ cuộc sống cho mình và người thân.

Thứ hai là bố thí pháp. Thông thường chúng ta hay có xu hướng nghĩ rằng chỉ có những vị thầy lớn mới có khả năng bố thí pháp. Thực ra người xuất gia hay cư sĩ đều cũng có thể bố thí pháp, bằng cách này hay nhiều cách khác. Bố thí pháp là chia sẻ năng lực bên trong, để giúp mọi người làm vơi bớt nỗi đau về tinh thần.

Thứ ba là bố thí niềm tin chân chính. Có niềm tin chân chính thì người ta sẽ không còn sợ hãi, vu vơ bởi những niềm tin mù quáng trong mê tín. Phật gọi là bố thí vô úy, tức không sợ hãi mọi vấn đề đúng sai trong cuộc sống. Phương pháp này giúp cho người tại gia bỏ các tà kiến sai lầm, thiết lập niềm tin chân chính về nhân quả.

Kế đến là bố thí Ba-la-mật là gì? Tại sao ta phải thực hành bố thí Ba-la-mật? Bố thí Ba-la-mật là bố thí vật chất lẫn tinh thần. Khi ta đem của cải, vật chất hay sự hiểu biết tặng cho người khác vô điều kiện, không có bất cứ một dụng ý hay yêu cầu nào. Nói cách khác, bố thí Ba-la-mật là cho những gì khó cho; dù đau khổ đến tận cùng ta vẫn một lòng quyết chí không buồn khổ, không ân hận hay nuối tiếc khi cho những gì khó cho.

Nhờ giữ giới không gian tham trộm cướp và hay bố thí giúp đỡ người khác, nên ta dần hồi chuyển hóa được tâm tham lam ích kỷ, sống liêm khiết trong sạch và giàu lòng vị tha.

Nguyên tắc đạo đức thứ hai là xa lìa hành động không cho mà lấy. Đây là nguyên tắc mà người cư sĩ tại gia phải giữ gìn. Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự không cho mà lấy, chấm dứt sự không cho mà lấy, thường ưa bố thí, tìm niềm vui trong sự bố thí và bố thí mà không cầu đền đáp. Vị này không bị tâm trạng tham lam che lấp, luôn luôn bảo hộ sự liêm khiết của mình và diệt trừ tận gốc sự không cho mà lấy.

Ở đây, chúng ta thấy vấn đề không phải chỉ là không được phép lấy những gì không được sự đồng ý của người khác, mà còn phải biết phát khởi tâm bố thí, tìm thấy niềm vui trong sự bố thí ấy. Đây thực chất mới là phương pháp diệt trừ tâm tham lam, bỏn sẻn vốn được xem là cái gốc do si mê chấp ngã mà ra.

SỐNG THỦY CHUNG ĐỂ BẢO VỆ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH MÌNH VÀ NGƯỜI KHÁC

Đạo đức thứ ba: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa tà dâm ngoại tình, sống hạnh chung thủy, bảo vệ hạnh phúc tất cả mọi người trong sự bảo hộ của cha và mẹ, hoặc cả cha mẹ, hoặc anh chị em, hoặc bên sui gia, hoặc người đồng tính, hoặc vợ chồng con của mình và người, cả kẻ cuồng dâm, bạo lực gia đình, hoặc kẻ bán phấn. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng không bị tâm lý hưởng thụ thấp kém làm mất hạnh phúc.      

Ý thức được những khổ đau do xâm phạm tiết hạnh của người khác, người Phật tử chân chính nguyện chỉ sống một vợ một chồng chung thủy có đôi, không dan díu ăn nằm với người khác nếu không phải là vợ hoặc chồng. Chúng ta phải ý thức rằng tà dâm là hành động sai lầm về tình dục nam nữ, làm mất đi nhân cách của con người.

Người Phật tử chân chính khi lớn khôn có quyền cưới vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình. Song, ngoài vợ chồng chính thức ta không được quan hệ tình dục với người khác vì đó là ngoại tình, là phá hoại hạnh phúc gia đình người. Đi tìm thú vui trong chốn thanh lâu cho đến cưỡng bức xâm hại người khác, hoặc nam nữ đã có gia đình hay chưa có thường phóng tâm đam mê tửu sắc, chơi bời trác táng đều thuộc hạnh tà dâm.

Xưa nay, từ vua chúa quan quyền cho đến thứ dân bần cùng nghèo khổ bị tan nhà nát cửa, mất nước mất thành, gia đình đổ vỡ đều do hạnh tà dâm mà ra. Nhiều vụ án xảy ra do ghen tuông mà hủy hoại nhan sắc tình địch hoặc giết người dã man.

Bản chất của chúng sinh là ái dục, chính vì điều đó mà chúng ta có mặt trong cuộc đời này, nhưng không vì thế mà chúng ta quá lạm dụng trong vấn đề tình dục. Ai ham hưởng thụ quá đáng vấn đề khoái lạc xác thịt và đi quá đà trong chừng mực cho phép thì dễ đánh mất nhân cách, phẩm chất đạo đức.

Thường như thế sẽ kéo theo sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình là ghen tuông, giận dỗi, mắng nhiếc, đánh đập và chia lìa, quả báo hiện đời không bao giờ có được mái ấm gia đình hạnh phúc. Vì vậy, người Phật tử chân chính hãy sống chung thủy một chồng một vợ, để không bị người khác phá hoại hạnh phúc gia đình mình.

Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau, bởi sự yêu thương trong vị kỷ cho nên nói tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề.

 

Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng cảm giác khoái lạc.

 

Ngược lại, vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét, tham lam và ích kỷ, sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế, mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì lợi ích cho con người không loài nào bằng.    

 

Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Bởi vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau, mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến ích kỷ, hẹp hòi làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

 

Trong tình ái do bảo vệ cái ta ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ, dễ làm con người mù quáng gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, vì sự tham lam ích kỷ của ta.

 

Ai thương yêu và giúp đỡ ta, ta sẽ quý mến họ. Ai làm hại ta, ta sẽ thù ghét họ. Đó là quy luật tất yếu của thế gian mà ít người vượt qua nỗi. Một khi giữa hai người không đáp ứng được nhu cầu cho nhau, từ đó vợ chồng bị sức mẻ rạn nức, dẫn đến gây gổ cãi vả và việc bạo hành sẽ xảy ra, cuối cùng dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc, vì trong họ không có tình yêu thương chân thật. 

 

Quan niệm về tình yêu, hôn nhân vợ chồng sống với nhau vừa có tình, vừa có nghĩa, trong mối quan hệ vợ chồng phải có tình yêu, tình bạn tri kỷ, phải có sự tôn trọng lẫn nhau và có trách nhiệm, bổn phận trong việc sẻ chia niềm vui hay nỗi buồn.

 

Những đổ vỡ, trong đời sống gia đình dẫn đến mất hạnh phúc, tình trạng ly dị, ly thân, ngoại tình, gây ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, đã khiến cho người ta xem xét lại và tìm thấy những giá trị tích cực, lời Phật dạy trong hôn nhân tình yêu.

 

Sợi dây kết hợp vợ chồng là ân ái. Nhưng chúng ta ân ái phải có hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục thì mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài. Tình yêu lứa đôi, luôn đóng vai trò thiết yếu quan trọng trong cuộc sống và thế giới loài người sở dĩ tồn tại và phát triển nhờ loại tình yêu mãnh liệt này.

 

Chúng ta vì muốn bảo vệ tình yêu cho riêng mình trong sự ích kỷ, nên mới phát sinh ra các thứ tình cảm như yêu ghét, buồn vui, thương giận và lo lắng. Tình ở đây nói chung gọi là tình người trong cuộc sống như tình cha mẹ, tình chồng vợ, tình anh em, tình bè bạn, tình làng nghĩa xóm, tình yêu, tình nhân loại v..v…

 

Vì cái tình đó, cho nên con người sinh ra luyến ái, mến thương, yêu thích và luôn gắn bó với nhau nhiều hơn. Chính vì nhìn thấy được bản chất thật của tình cảm con người rất phức tạp và phiền toái, nên các bậc Thánh nhân thường hay khuyên nhủ mọi người hãy nên tu tập tâm từ bi để mở rộng tấm lòng rộng lớn, bằng tình yêu thương chân thật.

 

Tình cảm con người thật sự bao la không ngần mé, phải được xuất phát từ tình yêu thương chân thật bằng trái tim hiểu biết, nên dễ cảm thông và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu ngoài sự quan hệ tình dục ra, chúng ta còn có trách nhiệm bổn phận đối với việc nuôi dạy con cái. Cho nên trong tình yêu cần có sự hy sinh, bao dung và độ lượng, nâng đỡ và sẻ chia, rồi còn phải biết tha thứ và cảm thông cho nhau.

 

Tóm lại, muốn cho tình nghĩa vợ chồng được hạnh phúc dài lâu thì chúng ta phải biết thương yêu nhau, sống thủy chung, tôn trọng, thành thật, biết thông cảm và tha thứ cho nhau….. Đây chính là những điểm then chốt làm nên hạnh phúc gia đình của người cư sĩ tại gia, mà ai cũng cần phải biết để áp dụng và thực hành.

 

Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình được hạnh phúc, an vui thì xã hội mới được bền vững và lâu dài. Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình mình và người khác.

 

Giới này nhằm bảo vệ tiết hạnh của cá nhân, đời sống lứa đôi và nền tảng hạnh phúc gia đình. Biết bao vụ án đã xảy ra vì hành động tà dâm, vì nếp sống thiếu trách nhiệm, vì đắm nhiễm sắc đẹp. Biết bao gia đình đã ly hôn, ly dị vì nạn tà dâm đam mê sắc đẹp và một số trẻ em là những nạn nhân trực tiếp của sự cưỡng bức, do người nặng về dâm dục quá đáng. Nếu chúng ta muốn sống hạnh phúc thủy chung một vợ một chồng thì ta sẽ không phá hoại hạnh phúc gia đình người khác, vì ta có ý thức và trách nhiệm.

 

Nguyên tắc thứ ba là xa lìa các hành vi tà dâm. Đây là nguyên tắc hay giới thứ ba mà người cư sĩ tại gia phải giữ gìn. Vị đệ tử áo trắng xa lìa tà dâm, chấm dứt sự tà dâm, bảo vệ cho bất cứ ai, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha, mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác, kể cả kẻ bị cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ bán phấn buôn hương. Vị này diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm.

 

Có nghĩa là ta phải thực tập sống có ý thức và trách nhiệm, thương yêu bản thân mình và người khác, thì ta mới có một đời sống trong sạch trong lĩnh vực này.

  

TỪ BỎ VĨNH VIỄN KHÔNG NÓI DỐI HẠI NGƯỜI

Đạo đức thứ tư: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa những lời dối gạt, chấm dứt nói láo - tuyên bố sự thật, không nói chia rẽ - nói lời xây dựng, không nói thô tục - nói lời lịch sự, không nói tán gẫu - nói lời lợi lạc. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng an trú chính niệm, đáng được tin cậy, uy tín tăng trưởng.            

Lời nói là một phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ, có thể giúp ta thông tin, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, trao đổi kinh nghiệm để được yêu  thương bằng trái tim hiểu biết mà vui vẻ sống hòa hợp với nhau. Cho nên lời nói “chẳng mất tiền mua” tại sao ta không biết “ lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Lời nói khi thốt ra thì không lấy lại được cho nên trước khi nói, ta phải nên suy xét cho kỹ càng.

Bồ-tát Quán Thế Âm là một người do tu hạnh nhĩ căn viên thông - phản văn văn tự tánh, trở về tánh nghe của mình mà thành tựu đạo quả, sau đó phát tâm đi vào đời để cứu độ chúng sinh bằng hạnh lắng nghe và dùng lời nói nhẹ nhàng, êm dịu để giúp mọi người vượt qua nỗi lo lắng, sợ hãi, bất hạnh, khổ đau.

Bồ-tát là một con người mẫu mực đã mở ra cánh cửa “Phổ Môn” rộng khắp thế giới Ta bà để mang lại niềm an vui, hạnh phúc chân thật cho nhiều người và sẵn sàng san sẻ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh, cho tất cả chúng sinh với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Trong cuộc sống hằng ngày, để có thể hiểu biết nhau, thông cảm nhau, thương yêu nhau và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, con người dùng lời nói để làm phương tiện trao đổi thông tin mà cùng nhau sống vui vẻ hòa hợp. Ðôi khi khác vùng miền không cùng ngôn ngữ, nhưng con người cũng có thể hiểu biết nhau qua dáng điệu, cử chỉ, nét mặt, thái độ, hay giọng nói.

Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình… Nói chung, nhờ lời nói mà con người có thể thông cảm và hiểu nhau nhiều hơn, do đó sống có yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Nói thì dễ nhưng nói như thế nào để không mất lòng người nghe, nói như thế nào để người nghe cảm thấy dễ chịu thoải mái, lần sau muốn được nghe nữa.        

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu tỉnh giác gây ra, người Phật tử chân chính xin học và làm theo hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm  cùng nói lời thương yêu, hòa nhã bằng trái tim hiểu biết.

MIỆNG TỪ BỎ NÓI DỐI HẠI NGƯỜI 

Nói dối hay còn gọi là nói dốc, nói láo. Nói dối tức là chuyện có nói không, chuyện không nói có, hứa hẹn với người khác rồi nuốt lời. Tự mình nói dối để lừa gạt người dưới nhiều hình thức, rồi xúi bảo kẻ khác nói dối hoặc thích thú trong lời nói dối gạt và khen ngợi lời nói dối.

Mục đích của lời nói dối là để lường gạt người khác hoặc để người ta thương tâm mà giúp đỡ mình. Lời nói dối có nhiều cách, do ganh ghét tật đố mà nói dối để hại người khác. Một người nói dối thường gây ra nhiều tội lỗi bằng nhiều hình thức, cũng chỉ vì bảo vệ quyền lợi cho riêng mình.

Thành thật là một đức tính tốt đẹp được thể hiện nhân cách sống của chính mình, bao giờ cũng đem lại cho người niềm vui vô hạn. Những lời nói thành thực là chất liệu của sự thật thà chất phát không làm cho chúng ta tốn kém tiền bạc hay hao tổn sức lực, nhưng nó đem lại nhiều ích lợi và làm cho người nghe được an ủi, khích lệ và làm cho tình thân giữa ta với người khác được thêm thắm thiết đậm đà.

Thuốc đắng dã tật người thật mất lòng. Ở đời có những lời nói khó nghe, làm mất lòng ta, nhưng họ chỉ có ý tốt muốn ta thấy được lỗi lầm của mình mà sửa sai. Ta hãy nên cám ơn người đó.

Tuy thế, có những lời ngọt ngào, êm tai, rất được lòng ta, nhưng đó là những lời dối trá, xu nịnh, không hề tạo cho ta một điều tốt nào cả, đấy là những “lời ngọt mật chết ruồi” của những kẻ gian dối, điêu ngoa. Chính vì thế, mỗi ngày được sống, ta hãy biết chọn những lời hay ý đẹp mà nói, phù hợp với chân lý, để làm phong phú thêm nét đẹp văn hóa của nhân loại.

Để đạt được những tình cảm trong lời ăn tiếng nói, ta cần phải biết kiềm chế những cảm xúc tiêu cực như nóng nảy, giận dữ, quát mắng, nhất là với những người thân yêu của chúng ta. Và một điều rất quan trọng nữa là ta nên suy nghĩ thật cẩn thận, trước khi muốn nói điều gì.

Dĩ nhiên, chúng ta không nên nói với nhau những lời giả dối. Trái lại, chúng ta cần nói lời thành thật với nhau bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Người cư sĩ tại gia luôn biết tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải, sống  thật thà và can đảm nhận lỗi, khi mình mắc phải khuyết điểm mà cố gắng sửa sai.

Sống trung thực giúp ta nâng cao phẩm giá, làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội và sẽ được mọi người tin yêu, kính trọng. Do đó, cây ngay không sợ chết đứng, người thật không sợ mích lòng. Thế gian ai cũng ưa thích nói lời chân thật, giúp cho con người biểu lộ sức mạnh nội tâm, đem đến sự tin tưởng trong mối quan hệ giao tế làm ăn.

Người Phật tử chân chính không nên có nói không, không nói có, bóp méo boi nhọ sự thật, thường xuyên tạc lẽ phải làm cho con người nghi kỵ thù hằn lẫn nhau.

Có những lời nói dối đưa đến ganh ghét, tật đố, tỵ hiềm lẫn nhau. Có những lời nói gian dối dẫn đến nghi kỵ chém giết, hận thù. Có những lời nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản, cửa nát nhà tan. Có những lời nói dối đưa kẻ khác vào con đường tù tội, làm cho gia đình đổ vỡ phân ly. Có những lời nói dối làm cho sự nghiệp của người khác rơi vào hoàn cảnh bế tắc. Có những lời nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác. Có lời nói dối làm cho gia đình người thân, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau...như kẻ thù. Có những lời nói dối làm cho người ta uất giận nghẹn ngào, dẫn đến xuất huyết mà chết.

Lời nói chân thật có thể mang lại niềm an vui hạnh phúc cho nhiều người, giúp họ có niềm tin, ý chí và nghị lực trong cuộc sống để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Việc lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và nói lời từ ái, hòa nhã làm cho con người càng thêm gắng bó với nhau hơn.

Nói sự thật để bảo vệ chân lý sống cho nhân loại, bảo vệ lợi ích cho nhiều người thì dù có chết ta vẫn phải nói. Nhưng, nếu nói sự thật để làm cho người khác bị gục ngã, mà không được sống yêu thương và hiểu biết, thì ta phải khéo léo nói khác đi một chút.

Lời nói khéo léo giúp cho ta nâng đỡ được người kia lên, vượt qua biển khổ sông mê, nhờ vậy lúc nào cũng thấy cuộc đời là thiên đường của hạnh phúc. Một lời nói ác ý, có thể dìm con người ta xuống địa ngục trần gian, nên lúc nào cũng thấy đời là bể khổ trần ai.

Người dám phê bình ta, mà phê bình đúng, người đó là thầy ta, người hay khuyên nhủ ta làm điều tốt luôn an ủi ta, giúp ta vượt qua nghịch cảnh là bạn tốt, ta hãy nên kết thân với người này.

Người hay gian dối nịnh bợ tâng bốc ta để được quyền cao chức trọng, không sớm thì chày người đó sẽ hại ta trong nay mai. Quả thật sống trong thế gian này nếu không có lời nói thì con người không thể truyền thông hiểu biết cho nhau, để cùng nhau làm việc, để cùng nhau kết nối yêu thương, để cùng nhau sẻ chia, để cùng nhau tâm tình và để cùng nhau chia vui sớt khổ, bằng tình người trong cuộc sống.

Lời nói chân tình, lời nói thành thật, lời nói nhẹ nhàng, lời nói cảm thông, lời nói tha thứ, lời nói yêu thương là cách thức góp phần làm cho mình và người an vui hạnh phúc, ngay trong giờ phút hiện tại.

Hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm là một nghệ thuật để cho ta sống có hiểu biết và yêu thương, do đó mỗi người đều có hai tai, nhưng chỉ có một cái miệng. Miệng có hai nhiệm vụ một là được ăn để mà sống, hay là nói để truyền đạt thông tin hiểu biết cho nhau. Chính vì vậy ta có hai tai để lắng nghe nhiều hơn, ta lắng nghe và biết cảm thông nỗi đau của người khác.

Lời nói khi thốt ra ta lấy chữ tín làm đầu, không nên hứa rồi mà lỗi hẹn, không nên nói dối, nói xảo, nói xạo, vì những việc ngoài khả năng của ta, ta không nên hứa suông để làm người thất vọng hoặc dùng lời nói khéo để lừa bịp người khác.

Ta không nên nói việc gì khi chưa rõ sự thật, không nên vội vã phát biểu ý kiến hay loan tin để tránh gây hậu quả không tốt cho người khác. Để được kết nối yêu thương trong sự giao tiếp, ta cần phải nói rõ ràng chậm rãi, không quá nhanh và cũng không quá chậm, để người nghe dễ dàng tiếp thu mà cùng nhau sống hòa hợp.

Chính vì vậy lời nói là thước đo của lòng người, nên ta phải biết rèn luyện tu tập lời nói sao cho vừa lòng người, mà không phải bằng cách gian dối dua nịnh. Do đó học ăn thì dễ, nhưng học nói phải suốt đời chưa chắc đã làm xong, cho nên mọi người phải thận trọng trong lời nói để ta và người cùng sống yêu thương có hiểu biết.

Sống ở đời lý trí và tình cảm thường đi đôi với nhau. Tình cảm là con tim, lý trí là khối óc, nếu ta biết quân bình vận dụng khối óc và con tim nhịp nhàng thì cuộc sống mới được bình yên hạnh phúc. Con người quá tình cảm mà không có lý tri thì dễ trở thành gian dối hại người. Ngược lại, nếu có lý trí mà thiếu tình cảm thì đời sống con người trở nên khô khan.

Là người Phật tử chân chính, chúng ta hãy nên từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối để hại người. Chư đại Bồ-tát, các bậc Thánh nhân cùng với những nhà nhân cách đạo đức dù họ có lìa bỏ thân mạng, bị sỉ nhục đắng cay, bị hành thân thể đau thương vẫn không nói dối để hại người!

Không nói dối mà còn hay nói lời chân thật là phẩm chất cao thượng, là đức tính quý báu của người cư sĩ tại gia. Lời nói rất quan trọng, có thể tác động tới tâm tư mọi người khiến họ hạnh phúc hay đau khổ. Do đó, chúng ta nguyện sẽ nói lời chân thật và không nói dối để tránh làm tổn hại người khác.

MIỆNG TỪ BỎ LỜI VU OAN GIÁ HỌA NGƯỜI KHÁC  

 

Lời nói dối đã làm tổn hại rất nhiều người, nguy hiểm hơn là lời vu oan đổ tội cho người khác, lời nói này còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều vì có thể làm cho người ta bị tù tội chết chóc đau thương. Lời nói dối, có thể do tham lam sai sử, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ cao hơn nữa là vu oan giá họa để hãm hại người khác. Vì sự tham lam, ích kỷ của mình mà chúng ta nhẫn tâm hại người, giống như loài rắn rít, bò cạp.

 

Đức Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người hủy nhục trước mặt vua quan, thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt mọi người: “Sa môn Cồ Đàm đã lấy em rồi mà ngày nay bỏ bê, để em phải bụng mang dạ chữa, sao anh đối với mọi người đều từ bi thương yêu bình đẳng, mà lại để em thành ra nông nỗi như thế này. Nếu anh không có thời gian để lo cho em thì hãy nên nhờ bà Tỳ Xá Khư chăm sóc, giúp đỡ cho em chứ?”

 

Trước mặt đại chúng, Phật an nhiên trả lời “chuyện này chỉ có tôi biết, cô biết” mà không cần phải đính chính hay minh oan một lời nào. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến trong lúc cô ta đang diễn kịch, thì cái bụng bầu giả bằng gối rớt xuống trước mặt mọi người. Cô gái quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy, nhiều người tức quá chửi theo “đồ thứ con gái hư thân mất nết”.

 

Chuyện đó xảy ra không bao lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và dã man hơn nữa, làm rúng động lòng dân trong cả nước. Bọn người đê tiện, chúng muốn tẩy chay cả giáo đoàn đức Phật cho bằng được, nên lập mưu bày kế tinh vi hơn. Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái đẹp giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở, rồi lên trình báo với vua quan, rằng cô gái ngoan đạo của họ sau một thời gian đến Tịnh xá để nghe pháp và bây giờ đã bị mất tích.

 

Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo ấy. Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng, đâu còn ai nghi ngờ gì nữa, vì mọi người đều tai nghe mắt thấy. Vậy ai là thủ phạm đã giết cô gái và chôn trong Tịnh xá? Phật à, không thể nào có chuyện đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.

 

Bọn người xấu lúc này lợi dụng thời cơ, đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Vua Ba Tư Nặc biết rất rõ về Phật, trước kia là thái tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ tuyệt đẹp, nhưng Ngài vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản.

 

Nhà vua biết chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét tật đố mà làm chuyện tày trời như vậy để vu oan hủy nhục đức Phật. Cuộc điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc, có mặt khắp mọi nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng chờ đợi kết quả cuối cùng.

 

Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao tuyên truyền, tung tin rằng xác cô gái chết do sa môn Cồ Đàm đã hãm hiếp cô gái rồi giết luôn và chôn ngay tại chỗ. Một ngày rồi hai ngày trôi qua, nhưng vẫn không có tin tức gì! Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng, lo âu về sự thật quá phũ phàng, từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng tày trời như thế.

 

Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo gió thì gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban chuyên án đã tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn. Mọi người hay tin, cũng đều thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã minh oan được cho Phật và giáo đoàn.

 

Số là bọn nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn xấu ác, nhưng do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu cùng nhau, chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm cổ.

 

Thế là cả bọn đều được đưa về cung vua chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ quá nên đã khai hết. Có một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy chay giáo đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền vào hầm lửa để thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh xét xử sau.            

 

Chuyện xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực.

 

Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình, mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh. Bất kể là thành phần nào trong xã hội, khi gặp Phật đều được lợi lạc, và an vui hạnh phúc.

 

Chính vì việc làm và hành động cao thượng của Phật đã để lại tiếng thơm  cho đời mà đến tận ngày nay, chúng ta vẫn được thừa hưởng. Hương thơm của các loài hoa có ngào ngạt cách mấy, cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh, luôn bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

 

Lời nói tán thán tôn vinh ca ngợi là chất liệu cần thiết trong cuộc sống, nhằm để động viên và khuyến khích mọi người cùng nhau làm tốt trong mọi công việc. Tuy nhiên sự tán thán ấy phải phù hợp với việc làm của họ, không nên khen ngợi người làm việc xấu ác có tính cách hại người, hại vật hoặc không nên chê bai người làm việc thiện lành tốt đẹp, luôn giúp ích cho nhiều người.

 

Khi hướng dẫn cho ai một điều gì thì ta đừng nên quá khắc khe, hoặc chỉ lỗi cho ai thì cũng đừng quá vội vã, nóng nảy hay nói trước mặt nhiều người dễ làm cho người đó tự ái rồi sinh ra giận dỗi, hờn mát, mà không có thiện cảm với ta.

 

Người Phật tử chân chính, ngoài việc tu tập hành trì chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, mà còn phải biết từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối hại người, lời vu oan giá họa, để không làm tổn hại nặng nề đến người khác.

 

Bài học cuộc đời đức Phật là một bằng chứng “gieo nhân xấu thì gặt quả xấu”, mình chưa hại được ai mà đã tự hại mình. Chính vì vậy, người cư sĩ tại gia hãy nên tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, mà dứt ác làm lành để sống đời bình yên, hạnh phúc.

 

MIỆNG TỪ BỎ LỜI NÓI CỘC CẰN, THÔ LỖ, NGUYỀN RỦA, MẮNG CHỬI…

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng hai cách nói trên nhưng cũng chẳng hay ho, tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại cả.

Lời cộc cằn, thô lỗ, nguyền rủa, mắng chửi người khác biểu hiện trạng thái tâm sân hận quá mức, do không ý thức được sự tác hại của nó. Những lời nói như thế có thể làm đau lòng người khác, thường đưa đến sự xô xát, đánh đập rồi dẫn đến mất tự chủ mà giết hại lẫn nhau.

Trong một gia đình, nếu một trong hai người vợ hoặc chồng nói năn thô lỗ cộc cằn hay lớn tiếng nạt nộ chữi mắng, rồi dẫn đến thượng chân hạ cẵng thì trước sau gì gia đình đó cũng tan vỡ. Khi ta tức giận một ai đó thì không nên mắng xối xả vào người đó, hoặc tìm đủ mọi cách để hạ nhục người đó.

 

Ở đời ít ai chịu nhục lắm vì đó là sĩ diện của con người, trước mặt bá quan văn võ mà mình bị chà đạp khinh rẻ, hỏi không nhục làm sao được. Cho nên người xưa nói: Thà chết vinh hơn sống nhục” là vậy đó. Bậc hiền Thánh khi muốn nói với ai điều gì dù biết rằng người đó có lỗi, nhưng xét thấy không có lợi nên tìm cách nói khác đi, để cho ta tự ý thức mà ăn năn hối lỗi.

 

Thường khi ghét ai ta hay đem chuyện xấu của người đó ra mà nói, nói với lời giận dữ, hằn học, cau có làm cho đối phương đau khổ. Nếu người đó không dằn nỗi cơn tức tối thì khẫu chiến sẽ xãy ra nhẹ thì cự cãi lôi thôi, nặng thì thượng cẵng hạ chân để rồi dẫn đến thù ghét nhau.

 

Người bệnh chấp ngã nặng có thể mất ăn mất ngủ vì lời nói của ta, họ ghim vào lòng chờ cơ hội trả thù. Người có hiểu biết và tin sâu nhân quả thường không bị chi phối bởi những cơn nóng giận, vì họ đã có sự tu tập và biết kiềm chế trong mọi vấn đề. Người cư sĩ tại gia, lời nói ra phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe.

 

Ái ngữ chính là lời nói dịu dàng, êm ái ngọt ngào, dễ nghe dễ thương, phát xuất từ lòng từ tấm lòng rộng mở, phát xuất từ tâm thanh tịnh trong sáng, phát xuất từ tâm biết lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm để sẵn sàng chia vui sới khổ. Ái ngữ là lời nói chân thật, phát xuất từ đáy lòng nên không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi để lợi dụng người khác, không phải là lời nói hoa mỹ để làm xiu lòng người, không phải là lời nói tâng bốc khách sáo để làm cho đối phương thích mà hàm chứa dụng ý bên trong.

Nói lời xin lỗi là một phương pháp hữu hiệu nhanh nhất để con người cùng ngồi lại bên nhau, mà cùng nhau kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống. Không ai mà có thể cố chấp quá độ khi người thân của mình đã mở lời xin lỗi, chỉ có người quá thành kiến sâu nặng mới không cảm thông và tha thứ cho người ấy.

Nói lời xin lỗi là món ăn tinh thần rất cần thiết trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nếu khi ta đã lỡ làm cho ai đó buồn phiền hoặc khổ đau, ta hãy nói lời xin lỗi một cách thành tâm, để người cảm thông mà tha thứ cho ta, là phương pháp duy nhất giúp ta xóa bỏ ân oán hận thù.

Con xin lỗi cha mẹ vì lỡ lầm nghe theo bạn bè xấu xúi dại. Em xin lỗi anh vì lỡ lời nói nặng, anh xin lỗi em vì ham vui với bạn bè mà anh để em và con ăn cơm một mình. Cha xin lỗi con vì nóng giận quá mức nên tát con một bạt tay như thế. Anh nhân viên xin lỗi ông giám đốc vì sáng nay kẹt xe nên đến cơ quan trể, kính mong ông thứ lỗi cho ....

Lời nói ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên thanh thản cho người nghe. Lời nói ái ngữ có tác dụng an ủi vỗ về, giúp cho người nóng giận giảm bớt sự sôi sục âm ỉ bên trong. Do đó, lời nói được thốt ra có khi tạo được cảm tình tốt đẹp, cũng có khi gây nên ác cảm, oán thù giữa con người với nhau. Ta chỉ cần sơ ý lỡ một lời nói, có khi hỏng cả việc lớn. Chỉ cần ta lỡ một lời nói, thì tai nạn ùn ùn kéo đến chỉ vì người nghe hiểu lầm, cho nên tìm cách hãm hại ta.

 

Chính vì vậy chúng ta phải cẩn thận trong lời nói bởi vì con người thích được khen ngợi tâng bốc nhiều hơn là bị chê bai. Tai họa xảy đến, thường do lời nói mà gây nên tác hại. Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói.

 

MIỆNG TỪ BỎ LỜI NÓI NHÃM NHÍ, ĐÙA GIỠN VÔ ÍCH

Những lời nói như thế, làm mất thì giờ vô ích. Chỉ có những kẻ ăn không ngồi rồi, tâm tư bị xáo trộn bởi những lời đùa chơi vô ích, ngồi lê đôi mách, không có công ăn việc làm, nên mới rơi vào trường hợp này.

Những lời nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích... trở lâu ngày thành thói quen làm tổn hại đến nhiều người khác. Những lời nói bỡn cợt, tầm sàm bá láp, ban đầu tưởng là vô hại, nhưng lâu dần khiến ta thành kẻ không đứng đắn, mất tư cách phẩm chất đạo đức của mình.

 

Con người sinh ra để được sống yêu thương là nhờ lời nói cho nên chúng ta không khen ngợi người đáng chê trách và không nên chê bai người đáng được khen ngợi. Lời nói chân thật có tác dụng sẻ chia rất lớn nhưng rất khó nghe đối với người hay gian dối dua nịnh.

 

Cho nên lời nói là phương tiện truyền đạt kiến thức hiểu biết, để cho mọi người hòa hợp cùng làm việc với nhau mà có sự cảm thông trong các mối quan hệ của cuộc sống. Không có lời nói để trau đổi thông tin, cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa và buồn tủi đến chừng nào.

 

Nhưng theo tâm lý học Phật giáo nói pháp để cho mọi người tin sâu nhân quả mà hay làm các việc thiện lành và không làm các việc xấu ác. Đó là lời nói chân chính phát xuất từ tâm rộng mở, có sức thuyết phục giúp người chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc.

 

Và cách thức thứ hai là biết im lặng như pháp là một cách thức biểu đạt chánh niệm tỉnh giác cao độ để chuyển hóa những lời nói dối gạt, phù phiếm, nặng nề làm cho người nghe cảm thấy khó chịu bất an. Lúc nào cần nói thì nói không thì thôi, lời nói phải sử dụng đúng lúc, đúng nơi, đúng thời, đúng chỗ.

 

Chúng ta vốn có một tài sản vô giá quý báu có thể giúp cho mọi người sống an vui hạnh phúc mà không cần phải tốn tiền bạc hay công sức gì hết, đó là lời nói tế nhị nhẹ nhàng, dễ thương hiền hòa, chất phát nhưng mà có sức thuyết phục lòng người.

 

Con người do lòng tham lam ích kỷ, bởi chấp thân tâm này làm ngã nên mới chiếm hữu, ta không nên có thể dùng những lời nói hoa mỹ trau chuốc để lừa gạt người khác. Cho nên một lời nói tế nhị, nhẹ nhàng êm ái của kẻ hay tâng bốc, nịnh hót, luôn có lưỡi câu phía sau, dễ đưa con người ta vào chỗ đọa lạc khốn cùng.

 

Ngày nay biết bao cô gái trong tuổi còn non dại vì nhẹ dạ cả tin mà bị lời nói làm lay động con tim, nên đã hiến dâng đời mình cho những gã sở khanh. Khi ta dùng lời nói bằng một tâm thanh tịnh trong sáng, thì nó có sức thuyết phục được nhiều người lắng nghe, cảm thấy được bình an và hạnh phúc.

 

Một lời nói nhẹ nhàng chân thành luôn có năng lượng bình yên làm cho chúng ta được an vui hạnh phúc khi ta tiếp xúc với nhau bằng sự yêu thương có cảm thông và tha thứ. Có nhiều người chỉ thích nói sự thật, thấy sao nói vậy chứ không khéo nói để được lòng thiên hạ, họ tôn trọng sự thật nên nói lên sự thật, mà sự thật thường phũ phàng nên dễ gánh lấy hậu quả đau thương.

 

Ai cũng biết lời nói thật lúc nào cũng quý báu, nhưng thuốc đắng dã tật, người thật mất lòng. Ở đời ít ai đủ can đảm nhìn nhận sự thật nên đa số sống trong giả dối phỉnh lừa mà làm tổn hại cho nhau. Nhất là nói sự thật với những người có quyền thế dễ bị mang họa vào thân do sĩ diện bản ngã quá lớn.

 

Nói sự thật là một điều tốt, nhưng ta phải biết khéo léo nếu không dễ làm cho người khác tự ái mà tìm cách trả thù. Vì vậy, nói sự thật chưa hẳn là giải pháp tốt để giúp mọi người thăng hoa trong cuộc sống. Bậc hiền trí khi nghe lời nói thật mà thầm khen ngợi và tán thán người đó, vì dám nói dám làm dám, chịu trách nhiệm lời nói của mình.

 

Một lời nói thiếu suy nghĩ được sánh ví như đổ thêm dầu vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thiêu hủy hết tình nghĩa anh em. Hơn nữa, trong cuộc sống của chúng ta mỗi người mỗi tính nết, mỗi người một kiểu sống, mỗi người đều có cách nói khác nhau nên khó có thể tránh được hết những va chạm, những bực bội, những phiền muộn khổ đau.

 

Nhiều khi chính chúng ta lại là những người gây ra những đau khổ, phiền muộn cho người khác chỉ bằng những lời nói thiếu cân nhắc trước sau. Đôi lúc chúng ta chỉ muốn nói cho sướng cái miệng của mình, nhưng lại không để ý đến nỗi đau của người khác, vì những lời đinh tai điếc óc của ta vừa mới thốt ra.

 

Do đó, nở nụ cười trên môi là điều cần thiết trong cuộc sống, nó luôn đem lại niềm vui cho nhiều người. Dựa vào lời nói cách thức diễn tả của người  khác, ta có thể biết được phần nào tâm tư của họ đang muốn gì. Được yêu mến và kính trọng hay bị khinh bỉ và ghét bỏ, một phần lớn là do cái lưỡi và lời nói của chúng ta.

 

Nói chơi hay còn gọi là nói đùa, nói giỡn. Người thường hay nói chơi đến khi sự việc thực tế xảy ra lúc đó có kêu gọi mọi người thì cũng không ai tin, do đó dễ xảy ra chuyện đau lòng. Nói chơi hay nói đùa quá chớn đôi khi dễ mang họa vào thân.

 

Như có cậu bé kia hay có tật nói chơi một hôm cậu ta cao hứng vừa chạy vừa la làng, nhà con bị cháy rồi bà con ơi ra cứu dùm. Mọi người tưởng thiệt vội vàng co ba chân bốn cẳng phóng nước đại đến nhà cậu bé bất chấp nguy hiểm để chữa cháy. Khi đến nơi mọi người đều chưng hửng lúc ấy cậu bé nói tỉnh bơ, con cao hứng nên nói chơi vậy thôi. Có người phải bỏ việc của mình dỡ dang nên trong lòng tức tối vô cùng, xài xể cậu bé một hồi rồi bỏ về.

 

Không ngờ vài ngày sau do cậu bé nghịch ngợm chơi trò đốt đèn nên tai họa bắt đầu ập đến, nhà cháy thiệt, cậu ta hoảng hồn la lên! Cháy nhà bà con ơi, cứu dùm con bà con ơi. Lúc này nghe tiếng kêu cứu nhưng mọi người tưởng cậu ta đùa cợt như lần trước nữa, nên không ai thèm chạy đến giúp.

 

Đến khi căn nhà phát cháy lớn mọi người chạy đến thì sự thật quá phũ phàng, không còn kịp nữa rồi chỉ trong thoáng chốc căn nhà đã hoàn toàn bị thiêu rụi.

 

Lời nói chơi rất nguy hại, nếu nói chơi để vui một chút thì không sao nhưng tốt nhất không nên nói chơi thường xuyên, vì khi nói thiệt thì khó ai tin. Như cậu bé trong câu chuyện trên vì hay nói chơi nên khi có việc hoạn nạn xảy ra lúc đó nói thiệt thì cũng không ai tin. Nói chơi hay nói thêm nói bớt là thái độ sống thiếu nhân cách đạo đức dễ làm cho ta và người dễ hiểu lầm nhau.

 

Có người có tật hay nói thêm nói bớt để cho vui, nhưng vô tình làm sức mẻ tình cảm với nhau, họ hay thêm mắm thêm muối làm cho mọi người nghi ngờ lẫn nhau có khi dẫn đến tranh cãi ấu đã chỉ vì lời nói không đúng. Nói thêm nói bớt nói không đúng sự thật để làm người hiểu lầm nhau mà sinh ra oán giận hận thù, đó là lời nói của kẻ thiếu hiểu biết cho nên người trí sẵn sàng cảm thông và tha thứ.

 

Do đó, trước khi muốn nói điều gì ta phải nên cân nhắc kỹ càng xem lời nói đó có tác hại gì cho ai không, xem xét và quán chiếu như thế rồi mới nói và ta chỉ nói những gì cần nói mà thôi, chớ không nên nói thêm nói bớt mà sinh hiểu lầm nhau. Thường thì khi ghét ai ta hay bươi móc chuyện riêng tư của người đó ra để mà nói, nhằm mục đích để hạ nhục người, nhằm mục đích để trả thù người, nhằm mục đích để thỏa mãn cơn giận.

 

Khi ghét ai hay thù ai, ta lúc nào cũng tìm cách dèm pha nói xấu muốn cho người đó khổ đau, muốn cho người đó mất mát. Chúng ta đang sống với nhau mà đói không cho ăn, khát không cho uống, chờ đến lúc người thân qua đời rồi ta mới bày binh bố trận nhưng cũng chỉ để nói khoác lát khoe khoang với mọi người cho vui mà thôi.

Người Phật tử chân chính nguyện không nói dối, chuyện có nói không, chuyện không nói có, hoặc hứa với người mà không giữ lời, hay hứa rồi mà tráo trở, lật lọng. Chúng ta không nói lời ly gián làm hai bên hiểu lầm nhau mà sinh ra thù hận. Việc làm này còn độc hại hơn cả rắn độc vì làm cho người thân chia lìa, gia đình ly tán, bạn bè trở thành kẻ thù, xã hội trở nên loạn lạc, lầm than vì không còn tin tưởng lẫn nhau.

Ta không dùng lời nói thêu dệt, nịnh hót làm xiêu lòng người, hoặc dùng lời nói thô ác như nói nặng, mắng nhiếc, chửi rủa, dùng lời lẽ thô tục để lăng nhục người. Người Phật tử hãy học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm để lắng nghe, nói lời hòa nhã từ ái và luôn đem niềm vui đến với tất cả mọi người.

Nguyên tắc đạo đức thứ tư là xa lìa các hành vi nói dối để hại người, đôi khi ta vẫn phải nói dối để cứu người. Đây là nguyên tắc hay giới thứ tư mà người cư sĩ tại gia phải giữ gìn. “Vị đệ tử áo trắng xa lìa nói dối, chấm dứt sự nói dối, chỉ nói sự thật, tìm niềm vui trong sự nói lên sự thật, an trú nơi sự thật không lúc nào đổi dời, có thể được tin cậy hoàn toàn và không bao giờ dám miệt thị kẻ khác. Vị ấy diệt trừ tận gốc sự nói dối”.

Xa lìa các hành vi nói dối hại người tức là nói sự thật. Kinh điển Phật giáo  thường chia giới này thành bốn phương diện khác nhau. 

Thứ nhất là không được nói dối, nói sai sự thật khiến cho sự thật bị bóp méo, không còn như bản chất của nó nữa. 

Thứ hai không được nói lời thêu dệt, có nghĩa là sử dụng lời nói bóng bẩy, hoa mỹ để cho người khác tin mình mà bị lừa đảo.

Thứ ba không được ác khẩu, tức không được sử dụng những lời có tính cách miệt thị, thô lỗ, nguyền rủa, chửi mắng gây bất mãn, khổ đau cho người khác. 

Thứ tư là không được nói lời đòn xóc hai đầu, tức là lời nói gây chia rẽ, ly gián dẫn đến thù ghét nhau.

Ở đây, chúng ta có thể thấy bốn phương diện trên giúp cho người cư sĩ tại gia sống có ý thức, trách nhiệm với lời nói của mình. Không để cho lời nói gây ra khổ đau cho mình và người khác.

NGUYỆN GIỮ THÂN TÂM TRONG SÁNG LÀNH MẠNH

Đạo đức thứ năm: Đệ tử áo trắng quyết tâm xa lìa rượu và ma túy, các chất gây say; chấm dứt thói quen hưởng thụ độc tố; không tham gia  sản xuất, buôn bán các độc tố này. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng giữ gìn sức khỏe và sống hạnh phúc với người thân thương. 

Xã hội ngày nay đang trên đà tiến bộ của nhân loại làm con người ngày càng sa đọa bởi những thói quen hưởng thụ không lành mạnh như hút thuốc, uống rượu và dùng các chất kích thích độc hại như xì ke ma túy. Một khi đã nghiện rượu và ma túy con nghiện sẽ làm bất cứ điều gì khi cơn ghiền đến như nói dối, lường gạt, ăn trộm, ăn cướp, hiếp dâm và ngay cả giết người.

Rượu chè, ma túy, xì ke

Say sưa, nghiện ngập khiến người ngu si.

Túng cùng chẳng biết làm sao

Lường gạt, trộm cướp, giết người như chơi.

Rượu là chỉ chung cho những chất gây say, gây nghiện làm con người mất hết lý trí, mất bình tĩnh khi đã quá đà. Rượu làm thân tâm nóng nãy dẫn đến tranh chấp, cãi vã, nói nặng lời với nhau khiến tự ái phát sinh rồi giận dỗi đưa đến xô xát gây thương tích và có thể giết người. Tai nạn giao thông chiếm 60% bởi do uống rượu lái xe. Trộm cướp, hiếp dâm, giết người do uống rượu chiếm 10%. Bạo hành gia đình chiếm 20%, gây mất trật tự an toàn lối xóm chiếm 10% cũng do uống rượu.

Rượu còn là nguyên nhân gây bạo hành gia đình làm khổ lụy vợ con, là nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh nguy hiểm, làm hao tài tốn của và mau chết sớm.

Rượu tàn phá thân thể, tâm hồn, làm tan vỡ gia đình và gây thương tích trong lòng những người trẻ sinh ra và lớn lên trong những gia đình có người nghiện ngập.

Trong thời đại văn minh vật chất chúng ta còn có nhiều thứ ma túy khác mà khả năng phá hoại cũng rất lớn lao. Ta phải phát tâm diệt trừ tận gốc thói quen sử dụng ma túy. Rượu và các chất ma túy đã làm tan nát rất nhiều gia đình, gây ra xáo trộn trong tâm hồn nhiều thế hệ và tạo ra sự bất an, loạn lạc bởi tệ nạn xã hội lan tràn làm ảnh hưởng đến nhiều người khác.

Khi thực tập giới này, người cư sĩ tại gia tự bảo vệ cho mình, cho gia đình người thân và đóng góp tích cực vào xã hội để giúp những kẻ khác vượt khỏi vòng si mê nghiện ngập. Hiện thời, thanh niên vướng vào vòng ma túy rất đông đảo, và quốc gia nào cũng đang cố gắng chận đứng sự lưu hành của các chất ma túy.

Nguyên nhân chính của sự đam mê nghiện ngập là ở tâm con người, do lòng tham muốn hưởng thụ quá mức. Khi con người sống không lý tưởng, không có mục đích chân chính, bị gia đình ruồng bỏ, sẽ dễ rơi vào vòng tệ nạn xã hội mà nghiện ngập ma túy.

Ma túy làm hao tiền tốn của, hủy diệt con người không còn lý trí, lương tâm và là tệ nạn nguy hiểm số một của nhân loại, tác hại của nó còn gấp trăm ngàn lần rượu. Vì lòng tham của con người và vì lợi nhuận quá cao nên việc mua bán ma túy là một hiểm họa diệt vong của loài người trong tương lai, nếu không có biện pháp ngăn chặn thích đáng.

Bản chất của chúng sinh là ái dục và đam mê hưởng thụ. Chỉ có các bậc hiền thánh và các vị Bồ-tát mới biết ngăn ngừa từ nhân vì biết rõ sự tác hại của nó.

Ma túy hủy diệt mầm sống con người nhanh nhất trong hiện tại và mai sau, làm tổn thất tài sản lớn nhất hiện nay và làm cho con người mất hết phẩm chất đạo đức, nhân cách sống bình thường. Người mua bán ma túy vì lợi nhuận quá cao nên bất chấp luân thường đạo lý đem thứ chết người gieo giắc trong thiên hạ.

Người đã nghiện ma túy sẽ trở thành tội phạm đến 95%, họ có thể trộm cướp, lường gạt và giết người một cách vô tội vạ. Đã dính vào vòng này muôn người chỉ có một hai người mới thoát ra được.

Rượu tác hại một, ma túy tác hại gấp trăm ngàn lần. Chính vì vậy, chúng ta hãy ý thức được những khổ đau do uống rượu say sưa, nghiện ngập và sử dụng các chất ma túy độc hại gây ra làm cho con người mất hết lý trí, lương tâm, tự hủy diệt chính mình và làm hại nhiều người khác.

Người Phật tử chân chính nguyện sẽ không dùng những chất độc hại đó để tâm trí được sáng suốt, lắng trong mà có cơ hội hoàn thiện chính mình, giúp ích cho gia đình và xã hội.

PHÉP QUÁN NIỆM VỀ PHẬT

Tâm cao thượng một: Đệ tử áo trắng quán niệm Như Lai là bậc Giác ngộ không còn dính mắc, bậc Minh Hạnh Túc, là bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, là Thiên Nhân Sư, là Phật, Thế Tôn. Nhờ quán niệm này, vọng tâm, dục niệm thảy đều tiêu diệt; không còn yếu tố bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ, lo âu ảnh hưởng, chi phối. Nhờ quán tưởng Phật, tâm được lắng trong, đạt an vui lớn.       

Bốn tâm cao thượng còn được gọi là bốn tăng thượng tâm. Tăng thượng  nghĩa là có khả năng phát triển và đi lên. Bốn tăng thượng tâm hoặc bốn tâm cao đẹp này là bốn pháp quán niệm về Phật, quán niệm về Pháp, quán niệm về Tăng và quán niệm về Giới. Những phép quán niệm này giúp cho người tại gia có thêm niềm tin vững chắc đối vơi Tam bảo, khiến mình và người hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.   

Nhờ tưởng niệm tới Như lai mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niềm vui, và người ấy đạt tới tâm cao thượng thứ nhất, an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì.

Phật là tiếng gọi tắt của chữ Phật-đà trong tiếng Phạn ý chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni và chư vị đại Bồ-tát đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Phật là người đã hoàn thiện chính mình, không còn bị trói buộc bởi tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, mặc đẹp và ngủ kỹ mà đa số người thế gian khó bề vượt qua nổi.

Phật là một con người giống như tất cả mọi người, Ngài là một hoàng thái tử dám từ bỏ quyền uy thế lực, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, từ bỏ tất cả những gì chúng ta hằng mong muốn, để đi tìm chân lý sống cho con người.

Như lai là một trong những danh hiệu của Phật. Như lai là bậc giác ngộ chân chính, không còn dính mắc hay bị ràng buộc các pháp của thế gian về phải quấy, tốt xấu, đúng sai, ta, người, chúng sinh….. Giác ngộ có nghĩa là tỉnh thức và hiểu biết đúng như thật.

Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật mà Ngài thường dùng trong các bản Kinh, chúng tôi tạm gọi là “không từ đâu đến và cũng không đi về đâu”. Nó là một thực tại nhiệm mầu không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, Như Lai là Bậc giác ngộ, Bậc tỉnh thức và thấy biết đúng như thật.

Như Lai là người giác ngộ hoàn toàn, không còn bị ràng buộc và dính mắc các pháp thế gian như tham lam, sân giận, si mê, mạn nghi và ác kiến.

Như Lai là Bậc Ứng Cúng xứng đáng được trời người tôn trọng và cung kính cúng dường, là Bậc đã phá trừ các phiền não khổ đau.

Như Lai là Bậc Chánh Biến Tri, là người đã giác ngộ rộng lớn, thấy biết chân chính và không còn dính mắc các Pháp trần tục ở đời như si mê, tham ái, giận dữ, ghen ghét, hận thù, cống cao ngã mạn và các sự trói buộc khác. Ngài tự do an lạc, thảnh thơi và sống có hiểu biết, thương yêu chân thành mà không phân biệt người thân hay thù.

Như Lai là bậc Minh Hạnh Túc, có nghĩa là cái thấy đầy đủ về nhận thức, hành động đạt đến mức sáng suốt tột cùng. Cái thấy về vô số kiếp về trước làm gì, ở đâu, cái thấy tất cả chúng sinh luân hồi sinh tử, tái sinh trong ba cõi sáu đường đều do mình tạo ra và cái thấy biết cách làm cho con người không còn bị sinh-già-bệnh-chết chi phối.

Như Lai là Bậc Thiện Thệ, là người đã khéo vượt qua sống chết, đã hoàn toàn được giải thoát một cách viên mãn. Có nghĩa là khéo vượt qua mọi thứ dính mắc, trói buộc của cuộc đời. Nói cách khác, cuộc đời vốn nhiều khổ đau, và đức Phật đã khéo léo vượt qua mọi thứ khổ đau, trói buộc của cuộc đời, sống tỉnh thức, an lạc, và giải thoát trong từng phút giây hiện tại bằng con đường đúng đắn.

Như Lai là Bậc Thế Gian Giải, là người đã thấu hiểu được tâm tư, tình cảm, bản chất của mọi chúng sinh, cũng như tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này.

Như Lai là Bậc Vô Thượng Sĩ, là người đạt tới nhân cách, phẩm chất cao thượng nhất.

Như Lai là Bậc Điều Ngự Trượng Phu, là người có khả năng chinh phục, chế ngự, điều động, rèn luyện, giúp cho con người vượt qua cạm bẫy cuộc đời, kể cả những người khó điều phục.

Như Lai là Bậc Thiên Nhân Sư, là thầy của trời người. Loài trời ở đây chúng ta thường gọi là chư thiên, là loài có phước báu hơn con người.

Như Lai là Phật, nói cho đủ là Phật Đà, là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người thấy biết đúng như thật.

Như Lai là Bậc Thế Tôn, là người tôn quý trong thế gian. Sở dĩ được tôn quý vì nhân cách, phẩm chất sống của Người luôn từ bi và trí tuệ, hiểu biết và yêu thương, dấn thân và phục vụ, bao dung và tha thứ, sẻ chia và thông cảm vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Người cư sĩ tại gia, thường xuyên quán niệm như thế về Phật thì tâm tư càng ngày càng có sức định tĩnh, lắng trong, nhờ vậy mà chúng ta luôn có được niềm an vui hạnh phúc, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Niệm Phật là một pháp môn hành trì đem lại nhiều an vui, lợi lạc. Nhờ niệm Phật mà ta có niềm tin vững vàng hơn nơi Phật và chính ta, tại vì trong ta đã có sẵn tính biết sáng suốt, nghĩa là khả năng giác ngộ.

Khi quán niệm về Phật ta có sự an ổn, vì nhân cách sống đạo đức và các đức tính cao quý của Ngài, được thể hiện qua tâm từ bi hỷ xả. Khi niệm Phật ta cảm thấy được an ổn nhẹ nhàng, nhờ biết quay lại chính mình. Niệm Phật đúng pháp sẽ giúp cho an vui, hạnh phúc và hóa giải được những nỗi khổ niềm đau.

Khi chúng ta thuần chất niệm Phật, giúp ta có công năng khai mở nguồn tuệ giác sâu kín mà chúng quen gọi Tịnh độ là lòng trong sạch. Trong truyền thống hiện nay còn có nhiều cách thức như trì danh niệm Phật và quán tưởng niệm Phật. Trì danh là trì niệm danh hiệu của Phật, ví dụ như "Nam mô Phật Thích Ca Mâu Ni". Quán tưởng niệm Phật là chúng ta hình dung Phật với những hình tướng trang nghiêm, đang thuyết pháp độ sinh đem lại lợi lạc cho nhiều người.

Nhưng dù trì danh hay quán tưởng niệm Phật, ta cũng phải nhớ rằng tỉnh giác trong từng phút giây mới là Phật của chính mình, ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Phật là nơi nương tựa của ta nên hàng ngày ta đọc: “Con xin nương tựa Phật, nguồn tuệ giác từ bi, người đưa đường chỉ lối cho con giác ngộ phát tâm lành.

PHÉP QUÁN NIỆM VỀ PHÁP

Tâm cao thượng hai: Đệ tử áo trắng quán niệm chánh pháp được Phật giảng dạy tài tình dễ hiểu, có khả năng lớn đưa đến giải thoát mọi sự khổ đau và các phiền não; tâm được thư thái, không bị nóng bức, an vui lâu dài.        

Pháp là những lời Phật dạy trong tam tạng Kinh điển, là những phương pháp để chúng ta thực tập nhằm đạt được giác ngộ, giải thoát bằng sự tỉnh giác trong từng phút giây. Khi chúng ta đã có tín tâm với Phật rồi thì ta phải tin những lời dạy của Ngài có khả năng giúp cho ta vượt qua biển khổ sông mà lên bờ giác ngộ.

Ta phải thường xuyên quán niệm về Pháp như sau: Giáo pháp được đức Thế tôn giảng dạy đem nhiều an vui lợi lạc cho tất cả mọi người. Giáo lý mà đức Phật dạy có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Niệm Pháp rất quan trọng để cho chúng ta hiểu đúng lời Phật dạy mà biết cách áp dụng hành trì. Hàng ngày ta hết lòng học hỏi và đọc tụng Kinh điển, với chủ đích tu tập thì đó là ta đã biết cách vận dụng giáo pháp vào trong đời sống hằng ngày. Trong khi ta đang học hỏi thì những hạt giống tốt về lời dạy chân chính của Phật, sẽ giúp ta thay đổi theo chiều hướng tốt mà biết cách dứt ác làm lành, nhờ vậy những tâm niệm xấu sẽ từ từ được chuyển hóa.

Khi ta biết quán niệm về pháp thường xuyên thì những dục vọng xấu xa đều được tiêu diệt, trong tâm người quán niệm không còn những ưu phiền, lo âu, sầu khổ.

Đạo Phật ra đời là tùy bệnh cho thuốc, tùy theo sở thích của mọi người mà lập ra nhiều pháp môn để chúng ta ưu tiên chọn lựa. Ðó là phương tiện thiện xảo của đức Phật trên đường hoằng hóa độ sinh. Mục đích cuối cùng của đạo Phật là muốn mọi người đều được thành Phật viên mãn.

Lời Phật dạy đúng chân lý nên gọi là hợp lý, song những lời dạy ấy cũng phải hợp với căn cơ, trình độ của người hiện tại thì họ mới ứng dụng và thực hành được. Hợp lý, hợp cơ là hai điều kiện cần thiết mà người hướng dẫn cần phải thông suốt chỗ này.

Nếu chúng ta chỉ hướng dẫn theo sự ham thích của mọi người thì sẽ đánh mất nền tảng nhân quả, vô tình chúng ta làm cho mọi người càng thêm mê tín và làm trở ngại trên đường tu. Người truyền bá đạo Phật phải có sự trải nghiệm trong lúc tu học, nhờ vậy thân tâm được thanh tịnh, sáng suốt thì mới có thể hướng dẫn mọi người thực hành đúng lời Phật dạy.

Bất cứ trong thời đại nào chúng ta cũng có thể vận dụng Phật pháp để giúp mọi người thoát khỏi biển khổ sông mê, đó là hợp thời. Lời Phật dạy là ngọn đuốc sáng đưa con người ra khỏi si mê, tối tăm, mờ mịt. Người Phật tử có sẵn trong tay ngọn đuốc sáng chắc chắn sẽ thoát khỏi rừng u mê, tối tăm.

Chúng ta phải làm sao cho ngọn đèn Chánh pháp được nối tiếp mãi trên cõi đời này. Ơn Phật tổ là ơn khó đền, muốn đền ơn chúng ta phải dấn thân vào đời để cứu độ chúng sinh. Sự cứu độ thiết thực nhất là cùng nhau chia vui sớt khổ với những người đang có mặt trong hiện tại, để họ vươn lên vượt qua số phận tối tăm mà làm mới lại chính mình. Phật giáo chân chính sẽ cùng đồng hành với tất cả mọi người, trong vạn nẻo đường bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Pháp là những lời dạy chân chính, thiết thực của đức Phật giúp cho chúng ta tu tập, hành trì vượt qua nỗi khổ, niềm đau để được an vui, hạnh phúc. Pháp bảo là những lời Phật dạy trong suốt 49 năm hoằng pháp lợi sanh nhằm chỉ cho mọi người tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành, tu hạnh giác ngộ giải thoát và giúp đỡ mọi người không biết mệt mỏi, nhàm chán với tấm lòng vô ngã vị tha.

Lời dạy chân chính do đức Phật truyền đạt rất đơn giản, thực tế giúp cho mọi người chuyển mê thành ngộ, chuyển xấu thành tốt, chuyển đời phàm phu trở thành thánh nhân và giác ngộ giải thoát. Pháp của Phật dạy đơn giản, thiết thực, chân lý, dù trải qua bao thời đại những lời dạy ấy vẫn rất quý báu vì giúp mọi người thoát khỏi khổ đau sinh tử.

Những kẻ đang lầm đường lạc lối gặp được ngọn đuốc soi đường, người học đạo gặp được Chánh pháp cũng lại như thế. Nhân loại đang bị chìm đắm trong biển khổ sông mê do không tin nhân quả, nay gặp được những lời dạy chân chính của đức Phật, giúp cho chúng ta soi sáng lại chính mình mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

PHÁP QUÁN NIỆM VỀ TĂNG

Tâm cao thượng ba: Đệ tử áo trắng quán niệm Tăng đoàn của đức Như Lai, đi trên nẻo thiện, thánh đạo chân chánh, hướng theo giáo pháp, thực tập giáo pháp, sống đúng giáo pháp. Có vị đã chứng quả A-la-hán, quả A-na-hàm, quả Tư-đà-hàm, quả Tu-đà-hoàn, hoặc đang trên đường đạt các quả ấy. Tăng đoàn gồm đủ bốn đôi, tám bậc, thành tựu đạo đức, thiền định, trí tuệ, giải thoát cũng như tri kiến giải thoát. Thánh chúng như thế đáng được tôn kính, phụng sự, cúng dường, là ruộng phước tốt cho đời gieo trồng.      

Tăng là những người tu hành theo đạo Phật có nhiệm vụ truyền bá những lời Phật dạy, gìn giữ chùa chiền, kinh tạng, tạo điều kiện cho mọi người thân cận Tam Bảo, học tập, hành trì những lời Phật dạy để có được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Tăng bảo là những người kế thừa và tiếp tục sự nghiệp của đức Phật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn lại cho tất cả mọi người.

Tăng là đoàn thể sống an vui, thực tập theo lời dạy của Phật mà cùng nhau sống hòa hợp với tinh thần lục hòa kính. Tất cả những ai đang tham dự vào sinh hoạt của tăng đoàn để tu học, gồm bốn chúng Tăng, Ni và nam nữ Phật tử.

Tăng là chỉ cho một nhóm tu sĩ học theo Phật sống chung với nhau theo tinh thần Lục hòa, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người. Người thế gian thường sống trong tranh đua, giành giật, hơn thua nên không bao giờ họ sống vui vẻ, hòa hợp, thuận thảo với nhau được.

Lục hòa là: thân hòa cùng chung ở, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui vẻ, giới luật hòa cùng giữ, hiểu biết cùng chia sẻ, lợi hòa cùng chia đồng. Sáu điều này là tinh thần sống hòa hợp của chư Tăng. Chính vì thế, tu sĩ sống theo tinh thần Lục hòa thật là một điều quí báu trên thế gian này, bởi lẽ ấy nên gọi những người tu hành chân chính là Tăng bảo.

Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chính xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.

Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

Khi quán niệm về Phật, để chúng ta thấy biết và tin sâu, vì Ngài là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Khi quán niệm về Pháp, ta sẽ biết đó là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Khi quán niệm về Tăng, ta sẽ biết Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.

Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Thánh chúng đáng được tôn kính, đáng được quý trọng, đáng được cúng dường và đó ruộng phước tốt đẹp cho nhân loại. Chúng ta tôn kính, quý trọng, phụng sự và hổ trợ cho những đoàn thể có tu, có học như thế, sẽ giúp ta vượt qua nỗi khổ niềm đau.

Tăng đoàn những người xuất gia được xem như đám ruộng tốt, trên đó ta có thể gieo những hạt giống quý báu nhất của ta. Ruộng phước ở đây là thứ ruộng phước tốt đẹp nhất, có nghĩa là không có thứ ruộng phước nào so sánh kịp. Vì hay giúp người vượt qua biển khổ sông mê, làm mới lại chính mình và sống tốt hơn về mọi mặt.

Chúng ta tu học mà thiếu Tăng đoàn thì khó thành tựu viên mãn, bởi có những lúc ta cũng chán nản và mệt mỏi. Người xưa thường nói:"Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại." Câu này có nghĩa là tu học mà xa lìa Tăng chúng thì cũng như con cọp bỏ núi xuống đồng bằng. Cọp mà bỏ núi xuống đồng bằng thì trước sau gì cũng bị con người bắt giết. Người tu học không nương tựa Tăng chúng, thì sẽ dễ dàng bỏ cuộc.

Nhờ quán niệm về Phật, Pháp và Tăng, ta mới thấy Tam bảo là nơi xứng đáng để cho ta nương tựa. Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.

Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.  

PHÁP QUÁN NIỆM VỀ GIỚI

Tâm cao thượng bốn: Đệ tử áo trắng quán niệm giới luật được Phật giảng dạy không có khuyết điểm, không bị tỳ vết, không bị nhơ uế, có khả năng lớn bảo hộ đạo đức, giúp người giữ giới an trú vững chãi trong cảnh giới Phật. Giới này thanh cao vốn được hiền trí khen ngợi, tiếp nhận, thực tập, truyền bá.    

 “Giới là phương thuốc nhiệm mầu,

 Chữa lành các bệnh khổ đau ở đời”.

Quán niệm về giới pháp chân chính do Phật nói ra, ta sẽ thấy Giới như ngọn đèn sáng hay phá tan tối tăm, mờ mịt. Giới như sức mạnh hay dựng đứng những gì đã ngã. Giới như ánh sáng trí tuệ hay chuyển hóa các phiền muộn, khổ đau. Giới là con đường sáng hay dập tắt tối tăm, si mê, mờ mịt, là thành trì vững chắc để chúng ta thăng tiến trên con đường giác ngộ và thành Phật.

Giới là nghệ thuật sống đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người. Giới đưa đường chỉ lối cho ta đi đến con đường chân thiện mỹ. Giới giúp ta ngăn ngừa tội lỗi, không rơi vào tà kiến si mê, không bị sa đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

Giới bảo vệ hạnh phúc gia đình, là nhân tố nền tảng của xã hội. Chính vì vậy người giữ giới, thực tập giới sẽ sống an lạc hạnh phúc, nhờ biết tỉnh giác trong từng phút giây. Nhờ học hỏi và hành trì giới pháp, mà ta càng ngày sống có hiểu biết sâu sắc về giới.

Cuối cùng là quán niệm Giới. Chúng ta có thể hiểu giới ở nghĩa sâu rộng hơn, tức bao gồm cả giới luật là nền tảng chân chính, quán niệm giới luật là nương tựa, an trú trên nền tảng vững chắc đó. Nhờ đó mà người cư sĩ tại gia thành tựu được an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại này.  

Đối với người cư sĩ tại gia, quán niệm giới luật chính là quán niệm, thực tập năm phẩm chất đạo đức mà họ đã phát nguyện thọ trì. Nhờ thực tập quán niệm tới Giới mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niềm vui, và người ấy đạt tới tâm cao thượng thứ tư, an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì.”

HẠNH PHÚC TRONG HIỆN TẠI

Này các đệ tử, nên ghi nhớ rằng đệ tử áo trắng khi thực tập được bốn tâm cao thượng một cách trọn vẹn là đã chấm dứt các nẻo xấu ác, không còn đọa lạc địa ngục, ngạ quỷ và loài súc sanh, hướng đến chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, ngay trong hiện tại. Người đệ tử ấy đi về nẻo giác, chuyển hóa phiền não, thanh tịnh thân tâm; qua lại tối đa bảy lần sinh tử trong cõi trời người là có thể đạt giác ngộ, giải thoát, không còn khổ đau.

Người Phật tử chân chính gìn giữ năm giới pháp trọn vẹn, thì ta có khoảng trời tự do bao la rộng lớn, thân tâm ta được an ổn nhẹ nhàng, thân thể  mạnh khỏe, tinh thần sáng suốt và được an vui hạnh phúc, ngay trong giờ phút hiện tại.

Giữ năm giới thì ta sẽ có hạnh phúc ngay lập tức. Ai đã thọ năm giới thì biết giờ phút mà ta quỳ xuống nhận năm giới là ta có hạnh phúc liền, vì ta biết, ta sẽ không còn bị đọa lạc vào si mê, tà kiến nữa. Ta thấy mình đang đi theo con đường sáng suốt và nhờ vậy ta sẽ được bảo hộ vững chắc và không còn bị ràng buộc, bởi những thói quen nghiện ngập làm tổn hại thân tâm mình. Phật dạy người cư sĩ tại gia phải thọ trì năm giới thì mới được an vui hạnh phúc trong lâu dài.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là người xuất gia không cần năm giới. Người xuất gia thọ trì 250 giới, nhưng 250 giới đó rốt cuộc vẫn nằm trong năm giới được chia chẽ tỉ mỉ ra nhiều chi tiết. Khi quyết tâm thực tập theo năm giới thì ta chắn chắc sẽ được tự do, và hạnh phúc trong giờ phút hiện tại. 

Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới để tâm ta được an lạc hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, ta không cần phải niệm Thiên để được sinh lên các cõi trời. Ta đang có hạnh phúc trong giây phút hiện tại tức là ta đã có nhân an lành, mà nếu ta có hạnh phúc ở chính mình thì cõi này đã là cõi trời. Người ta muốn sinh Thiên hay sinh về cõi Tịnh độ, nhưng nếu ta đã có an lạc, hạnh phúc tại đây rồi thì cõi Cực lạc hiện tiền, vì nhân quả công bằng.

Người xuất gia, nếu muốn đem Phật pháp chia sẻ với người cư sĩ thì ta phải nhớ làm thế nào để họ được sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, đó là sự mong muốn và hoài bão của đức Phật.

Sơ quả Tu-đà-hoàn còn gọi là Nhập lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh. Đây là Thánh vị đầu tiên sau khi đệ tử Phật phá được ba kiết sử thân kiếngiới cấm thủ, và nghi.

Hầu hết những vị chứng Thánh quả đều có nguyên nhân từ kiếp xa xưa đã từng hết lòng tôn kính một vị Thánh giác ngộ nào đó. Điều này giống như Thánh nối tiếp Thánh thành một dòng bất tận.

Còn đối với Thánh quả thì có bảo chứng cho sự giải thoát hoàn toàn ở vị lai theo từng quả vị khác nhau. Ở Sơ quả Tu-đà-hoàn, Phật ấn chứng rằng vị này chắc chắn sẽ giải thoát, chỉ qua lại cõi nhân gian bảy đời nhưng không đưa ra thời gian cụ thể. Vị đó vẫn sống như người bình thường, tuy rằng sẽ không bao giờ bị đọa vào ba đường ác đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc, rồi sẽ tu hành để chứng A-la-hán.

Phật dạy người cư sĩ tại gia giữ trọn vẹn năm giới và bốn tâm cao thượng thì sẽ chứng được quả Thánh đầu tiên trong tứ quả Thanh văn, tức là vào vòng Thánh. Vào dòng có nghĩa là không còn bị lui sụt nữa. Đã vào dòng rồi, thì chắc chắn sẽ tiến lên mãi mãi, ta không còn lo sợ nữa, vì con đường ta đang đi sẽ chắc chắn đến đích, ta không cần quan tâm đến thời gian nữa. Ta vừa học, vừa tu, vừa làm phước giúp đỡ mọi người cho đến khi nào nào thành Phật viên mãn.

                           Nguyên đem công đức này

                           Hướng về khắp tất cả

                           Đệ tử và chúng sinh

                           Đều trọn thành Phật đạo.

 

 

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin