Chi tiết tin tức

48 câu vấn đáp về Pháp môn Niệm Phật

05:53:00 - 27/11/2014
(PGNĐ) -   Tịnh độ là thế giới hay cõi nước trong sạch, không có 5 thứ ác trược: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược. Tịnh độ là nơi an trụ của các hành Thánh giả như: A la hán, Duyên giác, Bồ tát và Phật.

Lời nói đầu

Ngài pháp sư Tịnh Không, một cao tăng đương thời có nói: "Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng với mọi thời đại. Từ ba ngàn năm trước, những kinh điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những kinh điển ấy, chúng sinh ngày nay vẫn được thọ dụng y hệt chẳng khác biệt gì. Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nên cần phải có giải thích lại, nghĩa là hiện đại hóa địa phương hóa kinh Phật để thích ứng căn cơ đương thời."

Ngày nay cách Phật nhập diệt đã hơn 2500 năm, tức là đã đi sâu vào thời Mạt pháp[1], ma chướng nặng nề, nên đối với kinh Phật nói chung và pháp môn Tịnh độ[2] nói riêng, chúng sinh ngày càng tin tưởng ít, ngờ vực nhiều. Con tự xét sức học cạn cợt, tâm trí si ám, may nhờ cơ duyên gặp được pháp môn Niệm Phật, được hưởng sự an lạc trong pháp Phật, đội ơn sâu dày của Phật, trong tâm hằng mong được báo đáp chút phần nên cả gan, mạo muội biên soạn lại ít phần nghi vấn trong "Di Đà sớ sao" của Liên Trì đại sư, sách "Tịnh Độ thập nghi luận" của Trí Giả đại sư, "Tây Phương yếu quyết" của Khuy Cơ đại sư.... Nói theo lời ngài Ngẫu Ích, con chẳng dám ganh đua mà giải đáp cho khác các vị song cũng không nhất định phải giống hoàn toàn. Lời dạy của các vị Tổ sư như thuyền lớn độ tận hết thảy chúng sinh, lời lạm bàn thô kệch của con như chạy theo thuyền lớn mà gạt bèo gạt nước; chẳng dám chống trái lời dạy của các ngài mà hy vọng đem chút lời cùng làm sáng tỏ pháp môn Tịnh Độ kỳ diệu nhiệm mầu thì may mắn lắm.

Cúi mong Chư Phật gia hộ, hậu thân Thích Ca Trí Giả đại sư, Tổ sư Liên Trì, Khuy Cơ đại sư gia hộ cho con chẳng đến nỗi biến nước cam lộ giải thoát thành độc dược.

Nam mô A Di Đà Phật!

 

Lạm bàn:

Luận Trí Độ có nói: Biển Phật pháp mênh mông, hễ tin là vào được.

Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy: Tất cả các kinh điển đại thừa đều phải do cửa Tín mà vào, chẳng phải do tự lực cửu giới [3] chúng sinh suy lường mà hiểu được.

Ngẫu Ích đại sư trong tác phẩm Di Đà yếu giải có nói: Các kinh đại thừa đều lấy Thật tướng[4] làm Chánh thể[5]. Thật tướng là cách gọi khác của Tự tánh[6], Tịnh tông gọi là Tự tánh Di Đà.

Kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều lấy Tự tánh Di Đà làm Thể. 48 Đại nguyện độ sanh của Phật Di Đà cũng đều từ Tự tánh thanh tịnh phát khởi ra.

Do đó nương theo Đại nguyện của Phật Di Đà khởi tu tức là trở về với Tự tánh Di Đà, tức là thành Phật. Do nơi Tự tánh chẳng thể nghĩ bàn nên suy lường chẳng thể vào được, phải vào bằng niềm tin thanh tịnh, sáng suốt.

Vậy nên ba món tư lương về cõi Tịnh là Tín, Nguyện Hạnh thì Tín đứng đầu; trong Ngũ căn , Ngũ lực thì Tín cũng đều đứng đầu. Nếu chẳng có Tín đâu thể vào được biển Phật pháp, có chăng chỉ là nghiên cứu chữ nghĩa suông mà thôi.

Có thể hình dung công phu tu hành như trồng cây, gieo nhân ắt hái quả. Một niệm phát tâm tu hành là gieo nhân. Nếu phát tâm tu cầu công danh ắt được công danh, cầu phú quý ắt được phú quý, cầu làm Thanh văn ắt được làm Thanh văn, cầu quả vị Phật ắt được quả vị Phật.

Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Niềm tin là mẹ của tất cả chư Phật, xuất sinh tất cả hạnh lành.

Trong phạm vi nhỏ bé của cuốn sách, con xin được tổng hợp, biên soạn các điều nghi vấn trong pháp môn mà đức Thế Tôn dạy là "khó tin khó hiểu bậc nhất", dẫn lời khai thị vàng ngọc của các Tổ sư, đại đức; mong phần nào giải tỏa chút nghi ngờ cho người tu tập Tịnh nghiệp, được như vậy thật may mắn lắm.

Nam mô A Di Đà Phật.

Chú thích:

[1]:  thời gian sau 2 thời Chánh và Tượng: Tức là thời thứ ba gọi là "Mạt pháp". Phật sử chép: Giáo pháp của đức Thích Ca truyền để ở thế giới này được phân làm ba thời kỳ: Từ ngày Phật nhập diệt về sau, một nghìn năm (1000) là "thời chánh pháp", đó là thời kỳ thứ nhất. Từ đó về sau, một nghìn năm (1000) là "thời tượng pháp", đó là thời kỳ thứ hai. Từ đó về sau một vạn năm là "thời mạt pháp" đó là thời kỳ thứ ba. Hiện nay (2014), sử Phật đã được 2577 năm mà Tổ sư Vân Thê sanh ra đời nhằm trong thời gian từ Gia Tĩnh đến Vạn Lịch (1522-1615) nhà Minh bên Tàu nên Tổ sư than lấy mình sanh nhằm đời mạt pháp, nghĩa: Giáo pháp đã đến thời kỳ chót ngọn rồi! Cũng như nói: sanh sau đẻ muộn thua kém đủ bề!


[2]: Tịnh: Trong sạch, không nhiễm dơ; Độ: Cõi nước, thế giới

Tịnh độ là thế giới hay cõi nước trong sạch, không có 5 thứ ác trược: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược. Tịnh độ là nơi an trụ của các hành Thánh giả như: A la hán, Duyên giác, Bồ tát và Phật.

Tịnh độ cũng được gọi bằng nhiều tên như: Phật địa, Phật giới, Phật quốc, Phật độ, Thanh tịnh độ, tịnh diệu quốc độ,...Trong mười phương thế giới có vô số cõi Tịnh độ cũng như vô số cõi uế độ (cõi ô nhiễm). Như Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà là cõi Tịnh dộ, còn thế giới của ta đang sống tên gọi Ta Bà là cõi uế độ.

Pháp môn Tịnh độ là pháp môn Niệm Phật cầu sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật Di Đà ở phương Tây.

[3]: Cửu giới chúng sinh: Mười phương thế giới được chia thành Thập (mười) pháp giới. Đó là:

- Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, A tu la, Người, Trời (còn gọi là lục đạo luân hồi: 6 đường trong cõi luân hồi chết đi sống lại)

-Bốn pháp giới còn lại của Thánh là: A la hán, Duyên giác, Bồ tát và Phật.

Nói đến cửu giới là nói đến các chúng sinh từ địa ngục đến Bồ tát.

[4]: "Tín, Hạnh, Nguyện": Tín: đức tin. Có Lý và Sự. Lý: Tự tin mình sẵn có tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ. Sự: Thật có đức Phật A Di Đà lập thành nước Cực Lạc bằng 48 nguyên tắc đại nguyện để tiếp chúng sanh niệm Phật về ở đó. Hành là thật hành chấp trì danh hiệu của Phật để niệm cho đến "nhứt tâm bất loạn". Nguyện là nguyện đến khi lâm chung, tập trung tự lực, và thống nhấtt tha lực để được hóa thân Phật đến tiếp về Tịnh Độ, hoa khai kiến Phật, đắc vô sanh nhẫn, rồi trở lại cõi này, cứu độ chúng sanh, đền ơn đức Phật.
Tóm lại, Tín, Hạnh, Nguyện là công nghiệp để thành tựu về sự niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ nên gọi là Tịnh nghiệp.


[5]: "Căn" được hiểu dụ như loài thảo mộc có rễ, có thể sinh trưởng, mang ý nghĩa gìn giữ. Ngũ căn gồm:

-Tín căn: Tin vào chánh đạo và các pháp trợ đạo trong Phật pháp.

-Tinh tấn căn:  có thể thực hành chuyên cần chánh pháp Phật dạy.

-Niệm căn: Tư duy, suy niệm về pháp Phật dạy.

- Định căn: sau khi tư duy nơi pháp, có thể nhiếp tâm vào Phật pháp, chẳng để tâm tán loạn, rong ruổi ra bên ngoài.

-Huệ căn: Từ Định có thể phát sinh Huệ, có thể xâm nhập, thấu hiểu giáo lý nhiệm màu của Phật pháp.

[6]: Ví như loài thảo mộc sinh trưởng thành cây có sức mạnh, cũng vậy "ngũ căn" tăng trưởng sẽ thành "ngũ lực". Tổ Ngẫu Ích có viết:

- Tín căn tăng trưởng, có thể phá nghi hoặc, phá sự mê tín và phiền não thì gọi là Tín lực.

-Tinh tấn căn tăng trưởng, phá các biếng nhác nơi thân, tâm, thành tựu đại sự xuất thế gọi là Tinh tấn lực.

-Niệm căn tăng trưởng, phá các Tà niệm, thành tựu hết thảy các công đức chánh niệm xuất thế, gọi là Niệm lực.

-Định căn tăng trưởng, phá các loạn tưởng, phát khởi được Sự lý Thiền định gọi là Định lực.

-Huệ căn tăng trưởng, có thể ngăn chặn các lậu hoặc chung và riêng, phát khởi vô lậu chân thật thì gọi là Huệ lực.
 

CHƯƠNG Iđiều khó tin trong Di Đà sớ sao

 

Tổ thứ tám của Tịnh độ tông là Liên Trì đại sư, trong tác phẩm Di Đà sớ sao, nói lược ra những điều khó tin ở những điểm sau:

1. Ở cõi Ta bà uế độ này, chúng sinh đã nhẫn chịu đã nhiều đời nhiều kiếp [1] rồi; nay bỗng nghe cõi nước Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh, tất sẽ nghi là không có sự thật ấy. Đó là khó tin thứ nhất.

2. Dù có tạm tin có nước kia (tức Tây Phương Cực Lạc) nhưng lại nghi trong kinh nói cõi ấy cách Ta bà xa đến 10 muôn ức [2] cõi Phật, làm sao mà sanh về cõi đó được. Đó là điều khó tin thứ 2.

3. Dù có tạm tin có thể sanh về nhưng lại nghi ta phàm phu tội chướng sâu nặng [3], làm sao đủ thiện căn phước đức sanh được về đó? Đó là điều khó tin thứ 3.

4. Dù tạm tin có thể sanh về cõi đó, nhưng lại nghi phải tu pháp môn kỳ diệu gì, và nhiều công hạnh mới có thể được; làm sao chỉ có "Tín nguyện trì danh" lại có thể vãng sinh? Đó là điều khó tin thứ 4.

5. Dù tạm tin pháp trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi rằng phải tu trì nhiều năm nhiều kiếp mới được thành tựu, làm sao chỉ niệm từ một đến bảy ngày mà được vãng sinh? Đó là điều khó tin thứ 5.

6. Dù tạm tin trong thời gian ngắn tu pháp Trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi kẻ sơ tâm vào đạo gặp nhiều chướng duyên phải thối lui, làm sao có thể chỉ sinh về cõi đó mà được Bất thối [4], quyết định thành Phật được? Đó là điều khó tin thứ 6.

7. Dù tạm tin như vậy, nhưng lại nghi pháp Trì danh chỉ là quyền biến, chỉ dành cho kẻ tối dốt, chứ bậc thượng trí sáng suốt phải tu diệu pháp tự lực như Thiền, Mật tông hay Duy thức, Pháp hoa... mới đúng lẽ chứ? Đó là điều khó tin thứ 7.

8. Dù tin pháp Trì danh nhiếp thọ mọi căn cơ từ thượng trí tới hạ ngu, nhưng Tịnh độ lấy lâm chung làm kỳ hạn, như vậy làm sao biết chắc mình có được vãng sinh hay không? Nếu chẳng được vãng sinh thì chẳng phải uổng một đời tu không? Trong khi các pháp môn khác nếu dốc sức tu hành đều có thể trong đời hiện tại nhận biết được? Đó là điều khó tin thứ 8.

9. Dù tin pháp Trì danh bậc thượng trí cũng tu hành, nhưng kinh khác khi nói các cõi Phật đều không, khi lại nói Duy tâm Tịnh độ, chẳng phải cầu đâu xa, rồi trong tâm hồ nghi chẳng quyết định. Đó là điều khó tin thứ 9.

Đó là chín điều khó tin, chẳng phải theo hàng ngang mà thành tầng tầng lớp lớp bao phủ người tu Tịnh nghiệp vậy. Thế nên đức Phật mới than rằng:

“Thân người khó được, Phật khó gặp

Trí huệ nghe pháp khó trong khó.”

Vậy nên nói pháp khó tin là vì: chẳng những người ngu mê khó tin mà cả bậc hiền trí còn nghi hoặc; chẳng những kẻ sơ cơ khó tin mà bậc tu lâu còn nghi hoặc, chẳng những bậc phàm phu khó tin mà bậc Thánh giả Nhị thừa còn nghi hoặc, nên nói là pháp tất cả thế gian khó tin vậy.

Hỏi rằng: Nếu đã nói là pháp tất cả thế gian khó tin, vậy đức Phật còn nói ra làm gì?

Đáp: Ấn Quang đại sư có nói:

Cửu giới chúng sinh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả.

Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp chúng sinh.

Vì rằng phải là người đầy đủ phước đức nhân duyên có thể tin nhận. Đó là để hiểu rằng: Nếu như người thấy nghe mà không tin là do người tự bỏ, còn người nào tin là người có duyên. Mặc dù nay không tin, nhưng một phen nghe lọt tai cũng tạo được hạt giống đạo muôn đời.

Đại sư Thiện Đạo đời Đường nói: Sở dĩ Phật Thích Ca xuất hiện ở đời để nói Di Đà hải nguyện.

Cũng lại phải nói rằng vì pháp môn Tịnh độ khó tin, khó nhận nên đời nào cũng có cao tăng, đại đức viết lời giải thích, giải đáp cặn kẽ, lại đưa ra những tấm gương vãng sinh cụ thể, mà saoTín tâm của ta vẫn chẳng được thành tựu. Ấy là do chúng ta dùng cái tâm hời hợt mà đọc tụng, giống như nhìn mây bay trên trời, rốt cuộc chẳng đọng lại chút gì trong tâm. Vì rằng niềm tin chẳng do từ bên ngoài mang tới, cũng như thấy người ăn mình chẳng thể no. Cần phải tự mình suy xét xem mối nghi ngờ của mình của mình là gì, phải chính mình giải tỏa mối nghi của chính mình. Tức là niềm tin chẳng phải tin suông, mê tín, người nói gì cũng nghe mà phải qua trải nghiệm, thử thách để lòng tin được kiên cố vững vàng. Khi ấy mới có thể tăng trưởng Tín tâm chân thật mà phát ra được Đại nguyện vãng sinh.

Nghi vấn thứ 1. Cõi Tây phương Cực lạc có thật không?

 

Xin dẫn lời pháp sư Khoan Tịnh khi Ngài được Bồ tát Quán Thế Âm dẫn đi thăm thế giới Tây phương Cực lạc

Ngài hỏi Bồ Tát Quán Âm:

- Người ở trái đất vãng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông, tại sao thân quyến của họ đều không nhìn thấy vậy? Bồ Tát Quán Âm bảo:

- Người địa cầu phần nhiều còn vọng nghiệp che lấp, rất nhiều cái gần hơn còn chưa nhìn thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng tưởng, tâm như hư không, thì người địa cầu cũng có thể nhìn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc được.

Và còn nhiều vị Tổ Tịnh độ và những người vãng sinh được ghi trong quyển “Mấy điệu sen thanh” của Hòa thượng Thích Thiền Tâm đều xác thực điều này.

Hơn nữa, người học Phật, tin đức Phật thật sự có thật cũng phải tin Bồ tát Quán Thế Âm thật sự có thật. Nhất là đối với người dân Việt Nam, Bồ tát Quán Thế Âm thậm chí còn được biết đến nhiều hơn cả đức Phật Thích Ca. Mà trong kinh Bi Hoa, Phật Bảo Tạng thọ ký cho Bồ tát Quán Thế Âm thành Phật hiệu Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai, tại cõi Cực Lạc sau khi Phật A Di Đà niết bàn. Khi ấy cõi Cực Lạc lại đổi tên là: “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội phần.

Hơn nữa, nếu không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người niệm Phật khi sắp chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực Lạc là hư huyễn, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong lúc hiện tiền bỗng tâm được khai mở, thấy rõ ràng cảnh Tây Phương trang nghiêm thanh tịnh y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm chỗ tựa nương? Cho nên do theo Thánh Ngôn Lượng và Hiện Chứng Lượng (cách suy lường dựa theo lời Phật nói và sự hiện chứng của người tu), ta phải tin rằng những sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật.

Vả chăng, nếu cõi Tây Phương không thật có, là quyền biến, là phương tiện thì vô số tấm gương vãng sinh như Tổ Huệ Viễn, Tổ Ngẫu Ích, Tổ Ấn Quang,.. là dối gạt chúng sinh hay sao? Lời phát nguyện vãng sinh của các Bậc đại sĩ Văn Thù, Phổ Hiền là hư vọng hay sao?

Vì cõi đó quá xa xôi, sợ đời sau sinh lòng nghi mất lợi ích lớn, trong kinh Vô Lượng Thọ, phẩm Từ Thị (tức Bồ tát Di Lặc) thuật chỗ thấy, đức Thế Tôn đã phải bao lần hỏi đi hỏi lại ngài Di Lặc và ngài A Nan rằng các ông có thấy cõi nước đó không, có thấy nhân dân ở đó sinh hoạt thế nào không.. để dứt trừ lòng nghi của người học đời sau.

Được nghe và tin nhận pháp môn này thật không gì khó hơn.

Nghi vấn thứ 2: Làm sao có thể sinh được về cõi Tây Phương xa xôi như vậy?

Trong một lần đàm đạo với ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân, Thiên Hoàng có hỏi:  Vấn đề Phật tiếp dẫn về cõi Cực Lạc nên hiểu như thế nào?

Ngài đáp:" Pháp Nhiên này tuy không phải là loại căn khí, có thể ra mắt Điện Hạ (Thiên Hoàng) nhưng do Điện Hạ triệu vào. Hai lần vào ra mắt không phải là do khả năng của tôi, mà do sức của Thiên Hoàng, huống gì là sức của Đức Phật A Di Đà!

Chuyện Ngài lai nghinh để tiếp dẫn người xưng Danh là Bổn Nguyện của Ngài, điều nầy thật dễ hiểu.

Những người tội chướng vô trí, không nên hoài nghi vãng sinh. Nếu mà nghi ngờ là hoàn toàn không biết gì về Phật Nguyện cả. Bổn Nguyện được phát ra là để cứu những người tội chướng vậy. Bởi thế hãy nỗ lực xưng Danh chớ  nghi ngờ. Chỉ sợ không ưa cõi Cực Lạc, không tin Niệm Phật thì sẽ chướng ngại vãng sinh.

Vì vậy gọi là “Tha Lực Nguyện”, là “Siêu Thế Nguyện”".

Tổ Ngẫu Ích cũng nói: "Phải tin tưởng sâu xa rằng mười vạn ức cõi Phật thật sự chẳng ra ngoài một tâm niệm nhỏ nhoi của ta trong hiện tiền, bởi một niệm tâm tánh của chúng ta quả thật chẳng có gì ra ngoài nó được.

Hơn nữa, cậy vào Phật lực từ trong tâm tánh tiếp dẫn, khó gì mà chẳng sanh ngay sang cõi Cực Lạc. Giống như trong gương chiếu mấy chục tầng núi sông, lầu các, tầng nào tầng nấy rành rành, quả thật chẳng có gần hay xa, hễ vừa soi liền trọn đủ, chẳng thấy có trước hay sau. Hãy nên biết rằng từng chữ trong kinh A Di Đà đều là Hải Ấn tam muội, là kinh văn thiêng liêng giảng về Đại viên kính Trí [5]."

Nghĩa là tâm tịnh tức cõi Phật tịnh, cõi Tây Phương vốn ngay trước mặt, chỉ vì con mắt u mê chấp trước chẳng thấy được mà thôi. Vãng sinh Tây Phương vốn là trở về nhà cũ, đâu có khó gì?

Nghi vấn thứ 3: Tôi phàm phu tội chướng sâu nặng, làm sao đủ thiện căn phước đức sanh được về đó?

Bình thường ta hay nhầm lẫn phước đức với thiện căn. Như ta đang sống ở Việt Nam phải tiêu bằng tiền VND, sang Mỹ phải tiêu bằng USD. Cũng vậy phước đức thì ở thế gian dùng, còn muốn vãng sinh lại cần đến thiện căn.

Sao lại có sự khác biệt giữa thiện căn và phước đức như vậy?

Ngài pháp sư Tịnh Không nói rằng: “Đạo Phật không phải là tôn giáo, càng không phải là triết học, mà là sự giáo dục chân chính, là con đường sáng suốt đưa ta trở về bản tánh, tìm lại bộ mặt xưa nay của chính mình.”

Những việc ta làm trên con đường trở về bản tánh ấy tạo nên thiện căn, còn các việc tốt khác trong thế gian tạo ra phước đức.

Cần biết rằng: “Phước đức dễ biết, thiện căn khó thấy”.

Ta ít phước dễ nhân thấy bởi ta nghèo khó, vất vả mưu sinh, nhiều bệnh tật đâm ra tự ti. Còn thiện căn của ta, ta làm sao thấy hết được.

Ta lại thấy rất nhiều người giàu có nhưng không tin Phật pháp, cũng nên biết rằng họ có thể hơn ta phước đức nhưng thiện căn không bằng ta.

Đến đây xin lấy ví dụ rất cụ thể. Mọi người có để ý thấy sao các nước Tây Âu theo Thiên chúa giáo lại giàu có như vậy, mà các nước châu Á theo đạo Phật lại nghèo không? Có gì không ổn ở đây chăng? Hay đạo Phật lại có phần thua sút đạo Thiên chúa chăng?

Thật ra theo ý của tôi các nước Tây Âu theo đạo Thiên chúa tu chú trọng về phước đức, họ làm việc thiện cầu phước, nên có quả báo phước dồi dào để hưởng nên giàu có.

Còn đạo Phật lại khác, ta tu chú trọng phần thiện căn, tích luỹ thiện căn để giải thoát chứ không chú trọng nhiều về phước đức. Vì đạo Phật giác ngộ rằng thế gian vốn vô thường, đau khổ, ngũ dục vốn là nhân của ba đường ác [6] nên không ham hưởng thụ. Đó chính là sự khác nhau căn bản đạo Phật với các đạo khác. Nhận thức được như vậy, mong mọi người đừng nghi mình không được vãng sinh, cũng không nên thấy sự giàu có bên ngoài mà sinh tâm ham muốn mà tự hại chính mình.

Cần biết Đại nguyện thứ nhất trong 48 Đại nguyện của Phật A Di Đà là tiếp nhận tất cả chúng sinh chín cõi, từ Bồ tát Đẳng giác cho đến cõi địa ngục, không bỏ sót. Chúng sinh trong 3 đường ác không có hay rất ít phước, tuy nhiên nếu có đủ thiện căn gặp được pháp môn này tin nhận cũng được vãng sinh.

Trong truyện “Đường mây trên đất Hoa”, ngài Hư Vân kể có một con két biết nói, lúc trước cũng ăn thịt, sau được ngài khai thị, dạy Niệm Phật nó cũng bắt chước niệm Phật theo rồi từ đó không ăn thịt nữa. Một thời gian sau nó bị một con chim ưng bắt đi, nó vẫn liên tục niệm Phật, không kêu gì khác.

Theo ý của tôi, con két ấy chắc chắn vãng sinh. Từ đó có thể thấy dù là súc sinh ít phước, nhưng đủ thiện căn nên gặp được Thánh tăng, lại dạy cho nó pháp môn Niệm Phật vãng sinh. Thiện căn nó thậm chí còn lớn hơn nhiều chúng sinh ở cõi Trời Người.

Lại cần hiểu sâu hơn, thiện căn là gốc, phước đức là ngọn; gốc có thể sinh ngọn chứ ngọn chẳng thể sinh gốc. Thiện căn có thể gìn giữ và phát triển chứ phước đức thì không. Lại nữa, thiện căn có thể liễu thoát sinh tử, chứ đối với sinh tử phước đức chẳng thể cứu.

Như vậy mình có thể phước mỏng nghiệp dày nhưng thiện căn không nhỏ.

Tóm gọn lại, thiện căn của người tu Tịnh nghiệp chính là tin chắc Phật Di Đà tiếp dẫn tất cả chúng sinh chẳng bỏ sót một ai. Muốn biết mình có đầy đủ thiện căn, phước đức để vãng sinh hay không chỉ cần tự mình quán xét mình đã có niềm tin vào pháp môn Trì danh Niệm Phật này hay chưa? Vì có niềm tin chân thật mới có thể khởi nguyện tha thiết vãng sinh. Có khởi được nguyện thiết mới có thể hành trì liên tục không gián đoạn. Có thể hành trì liên tục không gián đoạn mới có thể nhập tâm hay nói cách khác là thâm nhập được vào Tạng bí mật của Như Lai, hưởng được hương vị giải thoát để chứng thực được niềm tin phát khởi ban đầu. Niềm tin ban đầu được chứng thực thì lời nguyện lại càng tha thiết, nguyện càng thiết thì hành trì càng miên mật, hành trì càng miên mật thì trí huệ phát sinh; trí huệ phát sinh thì có thể độ vô lượng chúng sinh cùng đồng sanh cõi Cực Lạc.

Hãy nên biết rằng nếu thiện căn chẳng sâu dày sẽ chẳng thể tin nhận pháp môn Niệm Phật này đượcCon đường vãng sinh xin chớ nghi.

 

Nghi vấn thứ 4 : Dù tin có thể sanh về cõi đó, nhưng lại nghi phải tu pháp môn kỳ diệu gì, và nhiều công hạnh mới có thể được; làm sao chỉ có tín nguyện trì danh lại có thể vãng sinh?

Đại sư Ngẫu Ích, bậc thượng căn đại triệt đại ngộ bên Thiền tông,  sau quay về hoằng dương Tịnh Độ có dạy: "Nguyên vì chư Phật nghĩ thương xót quần mê, tùy theo từng căn cơ mà lập cách hóa độ. Trở về nguồn thì chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa. Trong hết thảy các phương tiện, cầu lấy một phương tiện thẳng chóng nhất, viên đốn nhất thì không gì bằng Niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Lại nữa, trong hết thảy các pháp môn Niệm Phật cầu lấy một pháp đơn giản nhất, dễ dàng nhất ổn thỏa nhất, thích đáng nhất thì không gì bằng "Tín, Nguyện, chuyên trì danh hiệu Phật"".

Thật ra, bản thân tôi ban đầu cũng nghĩ pháp môn Tịnh Độ đơn giản chỉ với 6 chữ hay 4 chữ Hồng danh làm sao có thể giải quyết nổi việc lớn Sinh tử đời người được, vì thế ban đầu tôi đọc sách Thiền là chính. Về sau được đọc Di Đà Yếu giải của Ngẫu Ích đại sư mới thấy pháp môn Niệm Phật này sâu thẳm không thể dò nổi. Di Đà Yếu giải của Ngẫu Ích đại sư giống như tòa lâu đài nguy nga, ngài xây nó trong vòng chín ngày mà một người bình thường tu tập cả đời chưa chắc đã lãnh ngộ hết được ý vị trong đó.

Nên biết một niệm tư duy của bậc đã chứng ngộ không có giới hạn. Chúng ta cần phải biết kiếp trước của Phật A Di Đà là Tỳ kheo Pháp Tạng  cũng đã là bậc Pháp thân đại sĩ, thế mà còn phải mất 5 kiếp tư duy mới phát ra được 48 Đại nguyện độ sanh. Vậy còn có thể nói pháp môn Tịnh độ là nông cạn, đơn giản ư?

 

Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật. đức Từ Tôn dạy rằng:

"Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là phápNIỆM PHẬT.

Diệu-Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh báo [7] của Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất-thối-chuyển. Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập-địa [8], chứng Vô-thượng-giác."

Hơn nữa:

Muốn vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực ... không thể nghĩ bàn".

Chính lời vàng từ kim khẩu của đức Thích ca nói ra như vậy, ai dám nói rằng

Danh hiệu Phật là ít công hạnh.

Nên biết rằng  pháp môn Niệm Phật là Phật thừa. Vì sao? Vì chẳng còn dứt lìa đối đãi, phân biệt nên là Phật thừa. Tại sao nói chẳng còn phân biệt? Ví như ghế gỗ, ghế đá cho đến ngai vàng cũng chỉ là chiếc ghế. Vạn vật tánh Không nhưng chẳng phải rốt ráo Rỗng Không nên còn lại Danh tự. Vì chẳng còn phân biệt nên mọi vật đều quy về Danh tự.

Cũng do lẽ đó nên có thể nói tất cả công đức, phương tiện giáo hoá chúng sinh của mỗi vị Phật đều được nhiếp trọn trong Danh hiệu Phật.

Vậy nên kinh Địa tạng nói nếu có chúng sinh nào thoảng nghe danh hiệu một vị Phật mà còn có phước đức vô lượng trong trăm ngàn kiếp huống là tin tưởng Trì danh đó ư?

Do đó nên biết pháp môn Trì danh quả thật là pháp môn viên đốn [9] đến tột bậc, đơn giản, dễ dàng, ổn thoả thẳng chóng nhất vậy. Vì sao vậy? Vì Danh hiệu Phật dứt hết phân biệt nên chẳng thể nghĩ bàn, lìa mọi sự đo lường so sánh, vượt quá sự đo lường so sánh.

Vậy nên pháp môn Tín Nguyện Trì danh cũng gọi là pháp môn Chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật vậy.

 

Nghi vấn thứ 5: Dù tin pháp trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi rằng phải tu trì nhiều năm nhiều kiếp mới được thành tựu, làm sao chỉ niệm từ một đến bảy ngày mà được vãng sinh?

Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, tiền bối của Ngài Đại Pháp sư Tịnh Không, trong sách Chú giải Phật thuyết Vô Lượng Thọ Bình Đẳng Giác Kinh có viết: Pháp Trì danh đây lấy "Tâm này là Phật, Tâm này làm Phật" khởi tu, lấy Qủa giác vô thượng làm Nhân để phát tâm tu hành nên được thành tựu nhanh chóng. Mà nhận lấy "Tâm này là Phật, Tâm này làm Phật" khởi tu chính là pháp Thiền đốn ngộ trực chỉ Chân tâm của Lục tổ Huệ Năng. Vì thế nên nói pháp Thiền tự thân đã nằm trong pháp Trì danh Niệm Phật; cũng lại vì thế mà pháp Trì danh được các bậc Tổ sư ngợi ca là siêu viên, siêu đốn, chẳng thể nghĩ bàn; khó tin khó hiểu bậc nhất là vậy.

Trước hết, ta hãy xem xét vấn đề sau:

5.1  Niệm mười niệm dễ hay khó?

Ta bảo đứa trẻ lên ba nói mười câu “A Di Đà Phật” nó cũng nói được. Nhưng đến bây giờ tôi mới nghiệm ra niệm được mười niệm thật khó vô cùng, không gì khó hơn. Lên Trời còn dễ hơn rất nhiều!

Xin kể lại truyện xưa:

Xưa khi có ông cụ trong thời Phật tại thế đến tăng đoàn xin xuất gia nhằm lúc Phật đi vắng. Ngài Xá Lợi Phất tiếp ngài, quán xét thấy trong tám vạn kiếp ông cụ không trồng nổi một căn lành nào nên không đồng ý tiếp nhận (Ngài Xá Lợi Phất là đại đệ tử trí tuệ bậc nhất của đức Phật, đã đắc A la hán[10] có túc mạng thông biết rõ các kiếp trước của người khác trong vòng tám vạn kiếp). Ông cụ rất buồn, định đi ra thì gặp Phật về. Đức Phật liền tiếp nhận ngài vào tăng đoàn. Ngài Xá Lợi Phất thắc mắc một người không trồng nổi căn lành nào sao có thể xuất gia, tu hành đắc đạo được?

Phật nói: “A la hán các ông chỉ có thể quán trong tám vạn kiếp. Người này trước kia ngoài tám vạn kiếp từng là người thợ rừng. Một hôm, ông vào rừng gặp một con hổ lớn. Ông ta nhanh chân trèo lên một cái cây. Con hổ đuổi theo, quyết không tha con mồi, lấy móng sắc cào vào thân cây cho đổ. Ông ta sợ quá liền hét to: “Nam mô Phật”. Con hổ giật mình rồi bỏ đi. Ông ta thoát nạn nhưng từ đó đến nay cũng không trồng thêm được căn lành nào. Chỉ duy có nhân này khiến ông ta đời này gặp được ta và được xuất gia tu hành”.

Sau đó không lâu ngài đắc đạo thành bậc A la hán.

Vậy mà chúng ta trôi nổi luân hồi trong vòng sinh tử bao nhiêu kiếp rồi? Không thể tính nổi! Các con số tỷ tỷ, tỷ tỷ tỷ, tỷ tỷ tỷ tỷ,... đều có thể tính, số cát sông Hằng (ở Ấn Độ) có thể tính, duy số kiếp chúng sinh luân hồi không thể tính.

Nếu chỉ một lần trong hàng tỷ tỷ tỷ... kiếp trước ta niệm được một câu Nam mô Phật thì ta đã đắc đạo giải thoát rồi, đâu phải đến bây giờ vẫn trôi nổi thế này? Trong vô lượng kiếp trước chắc chắn nhiều lần ta cũng được sinh lên cõi Trời rồi.     Vậy nên tôi mới nói niệm được mọt câu Nam mô A Di Đà Phật còn khó hơn lên Trời nữa.

Vậy niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật có dễ không?

Vậy sao bây giờ ta có thể niệm dễ dàng hàng ngàn hàng vạn câu như thế?

Tôi tin rằng ta đã tích luỹ thiện căn của rất nhiều kiếp trước nên đời này mới được gặp pháp môn Niệm Phật và tin nhận nó.

 

5.2. Sao lại có chuyện phát nguyện về cõi Tây phương, chí thành niệm mười niệm là có một hoa sen báu mang tên ta nở ra trong ao sen ở cõi Tây phương được?

Trả lời:

Phải biết rằng đại nguyện của Phật A Di Đà là tạo nên một cõi nước trong suốt như gương rộng lớn vô cùng tận chiếu sáng khắp mười phương pháp giới. Ta cứ mải mê quên mất chính mình. Nay chỉ cần quay đầu lại (tức quy y Tam bảo) soi lại chính mình trong gương tức thì bộ mặt thật mà bấy lâu ta quên mất hiện lên, thấy được bản tánh thật sự của mình, tìm lại được đường về nhà.

Cũng thế chỉ cần quy y Tam bảo, phát nguyện vãng sinh, chí thành niệm mười niệm tức thì sen báu mang tên ta nở ra đón ta về nhà. Đó gọi là cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.

Bây giờ với công nghệ hiện đại, người ta còn tạo ra những điện thoại cảm ứng, hay những chiếc máy điều khiển bằng giọng nói, ý nghĩ; huống chi sức diệu xảo của Như Lai.

 

Nghi vấn thứ 6: Dù tin trong thời gian ngắn tu pháp Trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi kẻ sơ tâm vào đạo gặp nhiều chướng duyên phải thối lui, làm sao có thể chỉ sinh về cõi đó mà được Bất thối, quyết định thành Phật được?

 

Đề cập đến nghi vấn nầy, chúng ta nên biết tu các pháp môn khác chỉ hoàn toàn nương nơi tự lực, cho nên phải khó. Riêng đường lối Tịnh Độ có hai năng lực, là tự tâm lực và Phật tiếp dẫn lực, nên sự thành công rất dễ. Ví như một người chân yếu, muốn tự mình lên tận đỉnh núi cao là điều rất khó. Nhưng nếu kẻ ấy được một vị đại lực sĩ khoác cánh tay phăng phăng đưa bước tiến lên, thì kết quả đăng phong nào có khó chi! Về môn Tịnh Độ cũng thế, khi ta chuyên tâm niệm Phật tức là lúc tâm lực phát triển. Niệm đến một lòng không loạn là lúc tâm lực hoàn toàn hiện bày. Đang khi ấy nghiệp lực bị hàng phục không còn làm chướng ngại, lại được thêm Phật lực tiếp dẫn nên tuy nghiệp chưa trừ dứt, mà được vãng sanh. Khi sanh về Tây Phương rồi, sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ [11] kiếp, sự không thối chuyển cho đến khi thành Phật là một điều hiển nhiên dễ hiểu.

Nghi vấn thứ 7: Môn Tịnh độ là pháp cơ sở, chỉ để cho kẻ ngu dốt, căn trí thấp kém hành trì. Những người căn tính cao phải tu thiền hay duy thức mới hợp lý. Vả lại bậc trượng phu phải có chí hùng cường tự lập, nên căn cứ nơi mình mà giải thoát; nếu muốn cầu mong tha lực, chẳng tỏ ra hèn yếu lắm ư?

Với lời hỏi này, trước tiên xin nói về căn cơ, sau sẽ trả lời đến yếu tố tự lực tha lực.

Pháp môn Tịnh độ không phải chỉ để cho bậc trung hạ căn, mà còn thâu nhiếp cả bậc thượng thượng căn. Bậc trung, hạ căn niệm Phật sẽ dứt được phiền não nghiệp chướng, phát sinh phước đức trí huệ, lần lần đi đến định cảnh, tùy công phu thấp cao mà vãng sinh về chín phẩm sen nơi Cực Lạc. Bậc thượng căn vừa khởi câu niệm Phật, liền thâm nhập vào cảnh giới định huệ, đi đứng nằm ngồi đều trong niệm Phật tam muội [12], khi lâm chung sinh về thượng thượng phẩm liên bang. Trong hàng tiên đức đã có vị vào cảnh giới này, và trình thuật với câu:

Nắm lấy chuỗi tràng trần niệm dứt,

Nghiễm nhiên thành Phật đã từ lâu.

Cho nên, câu niệm Phật thâu nhiếp hết ba căn, với người cao nó thành cao, với người thấp nó thành thấp.

Trong kinh lại nói: “Chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được tiêu tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử”. Người niệm Phật hằng giữ định tâm, tất sẽ phát huệ đồng như lối tu của các pháp môn khác. Hơn nữa, trên định tâm mà xưng danh hiệu Phật A Di Đà, thì tự tiêu nghiệp chướng, sinh phước huệ càng cao thắng chóng mau. Vì thế, Liên Trì Đại Sư đã khen pháp niệm Phật là: Đại thiền định, đại trí huệ, đại phước đức, đại thánh hiền. Theo Quán kinh: Người tạo tội ngũ nghịch thập ác [13] khi lâm chung tướng địa ngục hiện, nếu chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà cho đến mười niệm, thì ngài liền hiện thân tiếp dẫn sinh về Cực Lạc. Từ một kẻ cực ác, chỉ dùng mười niệm mà được vãng sinh, lên ngay ngôi bất thoái chuyển thật là điều rất hy hữu. Ấn Quang Đại sư đã khen: “Pháp niệm Phật bậc cao niệm đến một lòng không loạn, chứng vào tam muội, kẻ cực thấp chỉ đúng mười niệm thành công, là điểm đặc sắc mà chưa pháp môn nào có”.

Về vấn đề tự tha lực, nếu như hiểu môn Tịnh độ chỉ hoàn toàn nương nơi tha lực là sai lầm lớn. Người niệm Phật phải đem hết sức tự lực nhằm tăng trưởng Tín Nguyện, dứt trừ nghi hối, trì niệm cho đến cảnh giới tâm mình và tâm Phật tương ưng. Từ cảnh giới đó hiện đời hành giả được Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sinh. Sự tiếp dẫn mới là yếu tố chính của tha lực, vì thế giới Cực Lạc cách xa cõi Ta bà này đến mười muôn ức Phật độ, không phải sức thần thông đạo lực tầm thường có thể đến được, huống nữa là phàm phu! Vì thế cần phải nhờ tha lực tức thần lực của Phật hoặc chư thánh tiếp dẫn. Ví như một học sinh, tự mình biết gắng hết sức chuyên học, dĩ nhiên là điều đáng quý. Nếu trên sự học ấy, lại được vị giáo sư giỏi kèm theo chỉ dạy, tất mức học vấn càng cao thâm, kết quả thi đỗ sẽ là phần đảm bảo. Trên tự lực của hành giả, thêm tha lực của Phật gia trì tiếp dẫn cũng lại như thế. Vậy sự kiện chính mình đã gắng hết sức để tu, lại cầu thêm tha lực cho kết quả mau chóng có phải là một điều hèn yếu lỗi lầm chăng? Sự cao diệu của môn Tịnh độ chính các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, cho đến nhiều đấng tôn túc ở các tông, đều khuyến nguyện vãng sinh. Chê niệm Phật là thấp kém chỉ để cho bậc hạ căn tu hành tức là chê chư Bồ Tát, Tổ sư và các vị cao đức đã nói trên. Bảo niệm Phật là hèn yếu, chỉ nương nơi tha lực, tức là chưa hiểu biết về môn Tịnh độ.

Có câu chuyện đệ tử Nhất Hiền Chân hỏi ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân: Thưa Thầy! Để mau chóng lìa khỏi sinh tử, thì Chân Ngôn (Mật Tông), Chỉ Quán (Thiên Thai), Hoa Nghiêm, Phật Tâm (Thiền Tông) phải thâm diệu hơn Tịnh Độ chứ?

Ngài đáp: Pháp môn thì vô lượng nhưng luận về chỗ cấp yếu, thì tối thượng là Tịnh Độ. Các giáo pháp tuy nhiều nhưng xét đến chỗ cương yếu, thì Tha Lực Đốn Giáo thù thắng hơn cả. Vì dễ tu mà công cao, dễ hành mà lý thâm. Bởi thế Tổ Huệ Viễn nói rằng: “Các môn Tam Muội tuy nhiều nhưng công cao mà dễ tu thì Niệm Phật là hơn cả”.nguoiphattu.com

Ngài Nguyên Chiếu nói rằng: “Niệm Phật Tam Muội là pháp để hạng phàm phu lè tè sát đất trong sát na [14] siêu việt thành Phật. Cho thấy rằng Tịnh Độ Giáo Pháp, Niệm Phật Tam Muội là Đại Thừa, Chí Cực, Tốc Tật, Giải Thoát”.

Trong Di Đà Yếu giải, Ngẫu ích đại sư cũng nói:

"Bậc thượng căn chẳng thể vượt ngoài cửa ải này, mà kẻ hạ hạ căn cũng có thể đạt cảnh giới ấy, do công phu tu tập của mỗi người mà đỗi với mỗi tầng công phu cảm được đức Phật Di Đà và cõi Tây Phương càng thù thắng hơn, cũng chẳng phải nhất loạt giống nhau".

Nghi vấn thứ 8Dù tin pháp Trì danh nhiếp thọ mọi căn cơ từ thượng trí tới hạ ngu, nhưng Tịnh độ lấy lâm chung làm kỳ hạn, như vậy làm sao biết chắc mình có được vãng sinh hay không? Nếu chẳng được vãng sinh thì chẳng phải uổng một đời tu không? Trong khi các pháp môn khác nếu dốc sức tu hành đều có thể trong đời hiện tại nhận biết được?

Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Lục Tổ Huệ Năng có nói: Một niệm giác là Phật, một niệm mê là chúng sinh. Thật ra nếu dũng mãnh tu Tịnh độ, quyết định vãng sinh thì ta hoàn toàn có thể xoay chiếu lại bản tâm để biết mình đã chắn chắn vãng sinh hay chưa. Nếu tự mình vượt qua tất cả mối nghi, thì khi ấy Tín tâm đã qua trải nghiệm, thử thách, vững chắc như vàng đã đúc thành khối thì sự vãng sinh đã chắc chắn ngay lúc này.

Cho nên khi xưa ông Vương Trọng Hồi hỏi một vị thiện trí thức: "Làm sao quyết chắc được sanh về Cực Lạc?" Vị ấy đáp: "Chỉ tin nhận sâu, là chắc chắn được vãng sanh." Ông ghi nhận và ngộ giải lời nói ấy, quả nhiên về sau được toại thành như ý nguyện.

Trong Ẩn tu ngẫu vịnh của thầy Thích Thiền Tâm cũng có nêu cảm nhận:

Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi

Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ

Duy niệm Hồng-danh cầu Tịnh-độ

Hiện đời giải thoát rất ly-kỳ.

 

Vậy thì đâu phải chỉ lúc lâm chung mới biết mình có được vãng sinh hay không?

Điểm căn yếu của pháp môn Niệm Phật là: Tín, Nguyện, Hạnh. Ba điều này tương quan với nhau như cái kiềng có ba chân, thiếu một tất phải sụp đổ. Trong đây Tín lại là nền tảng, nếu thiếu nhu yếu này, thì không thể khởi sanh Nguyện và phát động Hạnh tu trì cho thiết thật. Riêng về điểm Tín, đại khái có ba điều: Trước tiên, phải tin lời đức Thế Tôn nói, nhận chắc cõi Cực Lạc từ nhân vật đến cảnh giới đều có thật. Kế đó, phải tin đức A Di Đà không có lời nguyện dối, chúng sanh dù nghiệp nặng, nếu niệm đến danh hiệu Ngài, quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh. Thứ ba, phải tin ta niệm Phật, nguyện về cõi Phật, quyết sẽ được thấy Phật được vãng sanh, nhân nào quả ấy không thể sai lạc. Ba điều này chỉ là khái yếu, nếu suy diễn ra rộng, trong ấy gồm có sáu phần: tin mình, tin Phật, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý. Điều thứ nhất bao gồm tin lời Phật và tin sự, lý Tịnh Độ đều có thật. Điều thứ hai bao gồm tin đại nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài. Điều thứ ba bao gồm tin tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, đều là Phật sẽ thành, lấy tín tâm đó mà niệm Phật cùng với nguyện lực mình, và nhân cùng quả của công hạnh niệm Phật. Nhận chắc ba điều vừa nói, mới gọi là tin sâu. Lại tin sâu không phải thuộc lời nói bên ngoài hay ý nghĩa phân biệt mà là sự thể nhận, là tâm trong sạch không còn một điểm nghi ngờ.

Ngay đó hoa sen trong ao báu cõi Tây Phương đã ghi danh chờ sẵn rồi, chẳng chút mảy may sai lầm.

Nghi vấn thứ 9: Kinh Kim Cang nói: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, bọt". Thế thì cảnh Ta Bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn cầu về cảnh huyễn làm chi?

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục tổ bảo: “Người Phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sinh Tây Phương, Người Tây Phương tạo tội, niệm Phật cầu sinh về cõi nào?Như thế thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật cầu vãng sinh?

Trong quyển Niệm Phật thập yếu, thầy Thích Thiền Tâm có viết: "Thật ra các cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương đều dường mộng huyễn; nhưng khi nào chứng được Như Huyễn Tam Muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được như thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn còn biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi là Huyễn? Nên biết môn Tịnh Độ là phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân tâm thường tịch.

Lấy một thí dụ như tại cõi Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi non thanh vắng dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là điều xa vời trái với thật tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem con mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ và có hại.

Khi xưa cũng có một Thiền giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ đại sư nghe lời này, liền bảo: "Không phải thế đâu! Từ bậc Thất Địa Bồ Tát trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến như đối với mộng lớn vô minh, thì bậc Đẳng Giác vẫn còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại Giác, là những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự thân đã ở trong mộng, thì sự vui khổ vẫn uyển nhiên, vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình là người tỉnh mơ, cảnh là huyễn mộng? Thế thì thay vì ở trong cảnh mộng khổ của Ta Bà, sao bằng về cảnh mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi luân hồi sống chết chìm mê. Còn cảnh mộng ở Cực Lạc là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ thức tỉnh hoàn toàn chứng lên quả Phật. Cho nên mộng huyễn vẫn đồng, mà duyên cảnh mộng ở hai nơi thật chẳng đồng vậy. Thế thì sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết lắm ư!""

Đức Lục Tổ và các vị cao đức bên Thiền tông đứng trên cương vị truyền bá tông chỉ duy tâm, nên mỗi lời nói phải căn cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tính, và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: Nếu tâm được thanh tịnh, thì tuy ở Ta bà cũng được tự tại giải thoát, tâm không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não luân hồi. Thật ra người tu Tịnh độ hiểu đạo lý, lời nói của Tổ chỉ có tác dụng khuyến tấn, bảo phải niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp chướng, chớ không phải bác niệm Phật cầu vãng sinh. Đức Thế Tôn, chư Phật khắp mười phương, chư đại Bồ tát và chư Tổ sư đều khuyên niệm Phật vãng sinh Tây Phương. Hai vị Tổ bên Thiền tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ đã chứng sơ hoan hỷ địa, vãng sinh về Cực Lạc. Nếu đức Lục Tổ có ý bài bác sự niệm Phật, thì chẳng hóa ra bài bác Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Chư Bồ tát, các vị Tổ sư và cả hai vị tiền bối trong tâm của mình là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên nếu hiểu lầm rồi đem lời này chê bai niệm Phật chính là bài xích và gieo mối oan cho đức Lục Tổ vậy.

Lại hành môn nào cũng có lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài ra còn có sự tướng của đường tu, cần phải nghĩ đến. Ta thử đặt câu hỏi “Người ở ngoài đời tạo tội, vào chùa am xuống tóc ăn chay giữ giới, tìm nơi thanh vắng tu hành. Người ở chùa am mà tạo tội tìm nơi nào để tu?” Nếu chỉ y theo lý mà bác sự như vậy, thì việc xuất gia đến chùa am, phải ăn chay giữ giới cho đến tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tham thiền đều là lỗi lầm hết sao? Pháp tu Tịnh độ cũng thế, thật ra chẳng phải người ở Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu sinh Tây Phương, mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là muốn mượn cảnh thắng duyên tu hành, để mau chứng lên quả vô sinh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi tâm sám hối niệm Phật cầu vãng sinh, cũng là vì muốn sớm thoát sinh tử, vẫn không ngoài mục đích này. Còn người ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã về cõi ấy, trên có Phật Bồ tát, dưới có các bậc thượng thiện nhân, xung quanh mình tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc giỏi kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề ăn mặc ở và các sự đau bệnh tai nạn oán thù, đường đạo chỉ thêm tiến lên, đâu còn có duyên gì để tạo tội.

Kết lại, câu nói của đức Lục Tổ nên hiểu chỉ lời khai thị về lý tính thanh tịnh để khuyến tấn mà thôi không nên nghĩ lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe lời này, càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm "Không dính mắc" mới hợp với ý của Tổ.

Chú thích chương I.

[1]: Kiếp có 3 hạng:

1. Tiểu kiếp: là 16 triệu năm (16.000.000 năm).

2. Trung kiếp: bằng 20 tiểu kiếp, là 3 trăm hai chục triệu năm (320.000.000 năm).

3. Đại kiếp: bằng 4 trung kiếp, là một nghìn 2 trăm 80 triệu năm.
 

[2]: Số ức, dịch từ chữ "Na do tha" có ba hạng:

1. Một ức bằng 10,000. 2. Một ức bằng 100,000. 3. Một ức bằng 1,000,000.

Na Do Tha, tiếng Phạm Nayuta. 

[3]: Hay còn gọi là cụ phược phàm phu: Phiền não nó trói người đời, đem buộc trong lao ngục sinh tử, gọi là phược; người mà đủ có phiền não, gọi là cụ phược, tức là tất cả phàm phu. Kinh Anh Lạc chép: "Chúng cụ phược phàm phu chưa biết ngôi Tam bảo". Tức như hiện nay những người mà không biết Phật, Pháp, Tăng, cứ mê sa trong vũng bùn ngũ dục chính là cụ phược phàm phu vậy.

[4]: Nói đủ là Bất thối chuyển, phiên âm tiếng Phạn là A bệ bạt trí; là một địa vị tu tập đi thẳng đến địa vị Phật, chẳng còn bị lui sụt xuống phàm phu hay Nhị thừa..nguoiphattu.com

[5]: Trí gương tròn lớn. Chỉ cho trí tuệ của Phật. Trí Phật biết hết thảy các pháp một cách như thực, giống như tấm gương tròn lớn có khả năng ánh hiện tất cả hình tượng. Mật giáo gọi là trí Kim cương. Theo tông Duy thức, sau khi thành Phật, phiền não chuyển thành trí tuệ được chia làm bốn loại, loại thứ 4 (tức là thức A lại da) chuyển biến thành trí thanh tịnh, đó là trí Đại viên kính. Mật giáo đem Pháp giới thể tính trí thêm vào bốn trí của Duy thức thành năm trí.

[6]: là ba con đường: Địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.

[7]: "Y báo chánh báo". Y: là y báo, tức là tất cả sự vật gia quốc giữa thế gian, gọi là y báo vì là: cảnh (sở y) của thân tâm. Chánh báo: tức là (thân ngũ ấm) vì do nơi sức tạo nghiệp của đời trước mà cảm chịu lấy cái thân tâm đời nay nên gọi chánh báo. Đã có cái thân năng y, tất có cái cõi sở y nên với quốc độ cũng là nghĩa quả báo. Phẩm Hạnh Nguyện lời Sớ Sao nói: "Y là quốc độ sở y của phàm thánh, như thân của người, trời, tại gia nam, tại gia nữ, ngoại đạo, chư thần quỉ, Bồ Tát và Phật. Đều có y báo và chánh báo cả, nhưng mỗi mỗi đều khác nhau; y là "cảnh", chánh là "tâm". Song tâm Phật và cảnh của Phật thì khác hẳn không phải như tâm và cảnh của Bồ Tát; tâm và cảnh của Bồ Tát khác hẳn không phải như tâm và cảnh của chúng sanh v.v...


[8]: tính từ quả vị thứ 41 đến 50 trong 52 quả vị (gồm Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác) tu hành của vị Bồ Tát. Thập Địa là 10 quả vị được thuyết trong Phẩm Thập Địa của Kinh Hoa Nghiêm, gồm có Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Cực Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ Địa và Pháp Vân Địa, và được gọi là Hoa Nghiêm Thập Địa.

[9]: "Viên Đốn Giáo": Viên nghĩa là viên dung, viên mãn; Đốn nghĩa là đốn cực, cực nhanh, lập tức. Các pháp vốn viên dung nên một pháp cũng viên dung tất cả pháp. Dùng nghĩa rằng: chỉ một niệm mở tỏ tự tánh, hoàn toàn quả Phật bằng cách lập tức, gọi là Viên Đốn giáo, là Thật giáo chí cực của Đại Thừa.  Đời Hậu Ngụy, ngài Quang Thống Luật Sư đề xướng lập ra cái danh Viên Đốn giáo.

[10]: A la hán: âm dịch là Ứng Cúng, Phước Điền, Sát Tặc, Vô Học, là người đã đoạn tận hết tất cả phiền não, đã hoàn thành tất cả những việc mình nên làm. Là một vị thánh giả tối cao của đệ tử Phật (Thanh Văn), vị này chứng quả A La Hán thứ 8 của tứ hướng và tứ quả (quả vị được phân loại thành 8 giai đoạn theo cảnh giới mà vị ấy đạt được). Bên cạnh đó đây còn là một trong mười danh hiệu của một đấng Như Lai. Cho nên A La Hán còn được dùng chỉ cho tự thân của đức Phật, trong trường hợp này từ ứng cúng được dùng nhiều hơn. Nguyên gốc của từ này có nghĩa là “người có tư cách”, vì vậy người này xứng đáng để thọ nhận sự cúng dường về y thực, v.v., của hàng tín đồ. Cho nên được gọi là ứng cúng. Hơn nữa, nhờ có sự cúng dường của hàng tín đồ mà có công đức to lớn, người này được ví dụ như là mảnh ruộng ban phước cho tín đồ, nên được gọi là phước điền. Lại nữa, người này đã giết hết loại giặc phiền não nên cũng được gọi là sát tặc. Vị này đã đoạn sạch hết tất cả phiền não không còn gì để học nữa nên được gọi là vô học. Trong quyển I của Kinh Tạp A Hàm giải thích người đã chứng quả A La Hán là “Ngã sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, tự tri bất thọ hậu hữu ( nghĩa là: mạng sống của ta đã hết, phạm hạnh đã thành lập, những điều nên làm đã làm, tự biết không còn thọ sanh về sau nữa),” và gọi người ấy là người đã đạt được tận trí, vô sanh trí. Sau này trong A Tỳ Đạt Ma, tùy theo trí tuệ và căn cơ của vị A La Hán, người ta phân ra làm sáu loại gồm: Thối Pháp, Tư Pháp, Hộ Pháp, An Trú Pháp, Kham Đạt Pháp và Bất Động Pháp.
[11]: A tăng kỳ: còn gọi là Vô lượng, vô số kể ; có 47 con số “không” theo sau số “một” làm thành một A Tăng Kỳ.

Cũng gọi Tam đại a tăng kì kiếp, Tam kiếp a tăng xí da, Tam a tăng kì, Tam kì, Tam vô số đại kiếp, Tam vô số kiếp, Tam kiếp. Ba kiếp a tăng kì, tức là khoảng thời gian mà vị Bồ tát phải trải qua kể từ khi phát tâm tu hành đến khi đạt thành quả Phật viên mãn. A tăng kì (Phạm: Asaôkhya) nghĩa là vô lượng số; Kiếp là đơn vị thời gian rất lâu xa, có đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp khác nhau. Trong 3 kiếp a tăng kì, đức Thích ca đã được gặp vô số Phật. Theo luận Đại tì bà sa quyển 178, trong kiếp thứ nhất, Ngài phụng sự 7 vạn 5 nghìn đức Phật; trong kiếp thứ 2, Ngài phụng sự 7 vạn 6 nghìn đức Phật và trong kiếp thứ 3, Ngài phụng sự 7 vạn 7 nghìn đức Phật. Về việc phối hợp 3 kiếp với các giai vị tu hành,trong kinh luận có nhiều thuyết khác nhau. Trong Tứ giáo nghĩa quyển 4, Đại sư Trí khải tông Thiên thai, phối hợp 3 kiếp với các giai vị của Thanh văn như sau:1. Kiếp a tăng kì thứ nhất: Phối với vị Ngoại phàm, tức chứng được các giai vị Biệt tướng niệm xứ và Tổng tướng niệm xứ trong Ngũ đình tâm. 2. Kiếp a tăng kì thứ hai: Phối với Noãn vị của Nội phàm, tức giai vị dùng trí tuệ của pháp Noãn tu tập 6 độ. 3. Kiếp a tăng kì thứ ba: Phối với Đính vị, tức giai vị siêng tu 6 độ, quán xét và hiểu rõ Tứ đế.Theo thuyết của Nhiếp đại thừa luận bản quyển hạ thì: 1. Kiếp a tăng kì thứ nhất: Phối với các giai vị Bồ tát Địa tiền, tức 40 giai vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng. 2. Kiếp a tăng kì thứ hai: Phối với các giai vị từ Sơ địa đến Thất địa. 3. Kiếp a tăng kì thứ ba: Phối với các giai vị từ Bát địa đến Thập địa.

Phẩm Tu tam thập nhị tướng nghiệp trong kinh Ưu bà tắc giới quyển 1 (Đại 24, 1039 thượng) ghi: Đại Bồ tát tu xong nghiệp này rồi thì gọi là Mãn tam a tăng kì kiếp, sẽ lần lượt được Vô thượng chính đẳng chánh giác. Thiện nam tử! Thủa xưa, ở nơi đức Phật Bảo đính ta đã đầy đủ kiếp a tăng kì thứ nhất;nơi đức Phật Nhiên đăng ta đã đầy đủ kiếp a tăng kì thứ hai và ở nơi đức Phật Ca diếp ta đã đầy đủ kiếp a tăng kì thứ ba. [X. luận Đại trí độ Q.4; luận Du già sư địa Q.48; luận Câu xá Q.18; Thiên thai tứ giáo nghi tập chú Q.trung; Hoa nghiêm ngũ giáo chương Q.2, 3; Câu xá luận quang kí Q.18].

[12]: Theo Đại Sư Huệ Viễn trong Liên Tông Thập Tam Tổ, niệm Phật Tam Muội là nhớ chuyên và tưởng lặng.

1) Nhớ Chuyên: Tâm trí lúc nào cũng chuyên nghĩ nhớ đến Đức Phật A Di Đà, chớ không bị chia chẻ nhiều lối, do đó mà được vào trong cảnh “chí một, tâm đồng.”

a) Chí một: Đây là tâm chỉ có duy nhất một chí quyết, ấy là “cầu vãng sanh Cực Lạc.”

b) Tâm Đồng: Tâm giống y hệt như tâm của chư Phật, tức là tâm hoàn toàn lặng lẽ, thanh tịnh.

2) Tưởng Lặng: Tất cả các tư tưởng phù phiếm của chúng sanh đều bị lặng chìm hết cả. Làm được như vậy là được vào trong cảnh “khí thanh, thần sáng.” Hai điều nầy tự nhiên thầm hợp, nương về mà phát sanh ra diệu dụng.

a) Khí Thanh: Khi khí thanh thì trí huệ phát sanh. Trí nầy có khả năng soi ngộ đến tất cả các đạo lý nhiệm mầu.

b) Thần Sáng: Thần sáng có nghĩa là tinh thần chiếu suốt các nơi tăm tối, không chỗ tối tăm nào mà chẳng được soi tới.

[13]: Tội ngũ nghịch: Chỉ cho 5 cái tội cực ác trái với đạo lí. Cứ theo thuyết của Tiểu thừa thì 5 tội nghịch là: 1. Hại mẹ, cũng gọi giết mẹ. 2. Hại cha, cũng gọi giết cha. 3. Hại A la hán, cũng gọi giết A la hán. 4. Ác tâm làm thân Phật ra máu, cũng gọi làm thân Phật ra máu. 5. Phá tăng, cũng gọi Phá hòa hợp tăng, Đấu loạn chúng tăng. Trong 5 tội trên đây, 2 tội trước là bỏ ruộng ân nghĩa, 3 tội sau là hủy hoại ruộng đức, vì thế gọi là Năm tội nghịch, Năm tội nặng. Vì hành vi của 5 tội là nguyên nhân làm cho người vi phạm phải rơi vào địa ngục Vô gián nên cũng gọi là Năm nghiệp Vô gián, gọi tắt là Năm vô gián hoặc 5 tội không cứu được. Ba tội trước là tội cố ý giết hại cha, mẹ và A la hán. Còn tội Phá hòa hợp tăng thì chia làm 2: a) Phá yết ma tăng: Li khai giáo đoàn mà mình vốn là 1 thành viên để thành lập giáo đoàn mới thực hành các việc bố tát, yết ma riêng rẽ. b) Phá pháp luân tăng: Tôn thờ thầy khác, lập học thuyết khác, tổ chức giáo đoàn riêng.

Tội thập ác: còn gọi là Thập Ác Nghiệp Đạo, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo, Thập Bất Thiện Căn Bổn Nghiệp Đạo, Thập Hắc Nghiệp Đạo; là 10 hành vi ác, không tốt của ba nghiệp thân, miệng và ý; gồm: 
(1) Sát sanh; 
(2) Trộm cắp; 
(3) Tà dâm; 
(4) Nói dối; 
(5) Nói hai lưỡi, tức nói lời ly gián; 
(6) Nói thô ác, tức mắng nhiếc thậm tệ, nói lời ác độc; 
(7) Nói lời thêu dệt; 
(8) Tham dục; 
(9) Sân si; 
(10) Tà kiến. 
Tu tập Thập Thiện Nghiệp để chuyển hóa 10 nghiệp ác kể trên. Theo Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 35, Phẩm Thập Địa, có nêu lên quả báo của 10 nghiệp ác như sau: 
(1) Quả báo sát sanh, ở trong loài người thì bị đoản mạng, nhiều bệnh. 
(2) Quả báo trộm cắp, ở trong loài người thường bị bần cùng, tài của không có. 
(3) Quả báo tà dâm, ở trong loài người thường bị vợ không trinh tiết, không có quyến thuộc tùy ý. 
(4) Quả báo nói dối, ở trong loài người thường bị mọi người phỉ báng, khinh khi. 
(5) Quả báo nói lời hai lưỡi, ở trong loài người thường bị quyến thuộc xa lìa, thân tộc tệ ác. 
(6) Quả báo nói lời thô ác, ở trong loài người thường nghe tiếng ác, nói lên thường bị tranh cãi, kiện tụng. 
(7) Quả báo nói lời thêu dệt, ở trong loài người thường nói ra không ai tin, nói không rõ ràng. 
(8) Quả báo tham dục, ở trong loài người thường tâm không biết đủ, tham nhiều không bỏ. 
(9) Quả báo sân si, ở trong loài người thường bị người khác gây tổn hại. 
(10) Quả báo tà kiến, ở trong loài người thường sanh vào nhà tà kiến, tâm khúc mắc, không ngay thẳng.

[14]:  âm dịch là xoa nô, ý dịch là niệm, niệm khoảnh (khoảnh khắc của niệm). Ở Ấn Độ, nó được dùng như là đơn vị biểu thị thời gian ngắn nhất. Thông thường người ta cho rằng đối với một người có sức mạnh thì trong một khoảng khảy móng tay đã trải qua 65 sát na. Theo Câu Xá Luận, 120 sát na là 1 Đát Sát Na, 60 Đát Sát Na là 1 Lạp Phược, 30 Lạp Phược là 1 Mâu Hô Lật Na, 30 Mâu Hô Lật Na là một ngày đêm. Theo đó, ta thấy rằng 1 Sát Na là 1/75 giây, thể hiện thời gian rất ngắn đến nỗi không thể có cảm giác biết được.

 

 

CHƯƠNG II: TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN

Ngài Trí Giả đại sư, hậu thân Phật Thích Ca, là tổ tông Thiên Thai bên Trung Hoa, đã trước tác tác phẩm "Tịnh Độ thập nghi luận" giải quyết nghi vấn của người thời bấy giờ đối với pháp môn Tịnh độ sâu mầu, để tỏ rõ chí nguyện độ sanh của chư Phật đối với tất cả chúng sinh.

Nghi vấn 10: Chư Phật Bồ Tát lấy đại bi làm sự nghiệp. Vậy người đã phát tâm Bồ Đề, nếu muốn cứu độ chúng sanh, chỉ nên nguyện sanh trong ba cõi, ở nơi đời ngũ trược, vào ba đường ác mà cứu khổ cho các hữu tình. Tại sao chúng ta đã học theo Phật, lại xa rời chúng sanh, tự sống riêng một cuộc đời yên ổn? Đó có phải là thiếu lòng từ bi, chuyên lo tự lợi và trái với đạo Bồ Đề chăng?

Lạm bàn:   Xin được nhắc lại vể việc phát Bồ Đề tâm!

Thế nào là phát Bồ Đề tâm? Bồ Đề là phiên âm tiếng Phạn, ta dịch là giác ngộ. Như vậy chúng ta phát Bồ Đề tâm là phát tâm giác ngộ, mà giác ngộ cái gì?

Giác ngộ có hai bậc: Tiểu giác ngộ và Đại giác ngộ.

Tiểu giác ngộ là giác ngộ thế gian này là Khổ, Không, Vô thường Vô ngã.

Đại giác ngộ là giác ngộ tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, tất cả chúng sinh bốn loại sáu đường [1] đều là con của Phật, đều là Phật sẽ thành. Tất cả chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh nhưng  chẳng thể tự thấy biết, phải nhờ vào lực tiếp dẫn hộ niệm [2] của chư Phật thì Phật tánh mới được hiển lộ. Lực tiếp dẫn này bình đẳng khắp cửu giới chúng sinh, trên là Đẳng giác Bồ tát, dưới là chúng sinh ngũ nghịch thập ác ở Vô gián địa ngục, chỉ cần phát khởi Tín Nguyện đều được lực tiếp dẫn này nhiếp thọ về thế giới Tây Phương Cực Lạc, một đời thành Phật.

Nhưng muốn phát khởi được Đại giác ngộ này cũng cần phải nhờ đến Tiểu giác ngộ. Cũng như muốn học Đại học phải học Tiểu học trước tiên.

Phải do phát khởi Tiểu giác ngộ, quán Tứ niệm xứ [3] mới tin nhận được tất cả lời Phật dạy mà phát khởi Đại giác ngộ. Phải biết rời bỏ thế gian, chán lìa sinh tử, mới hay ta có thể dự phần trong Hải hội Bồ tát cõi Cực Lạc, nhận ra Chân tâm Phật tánh bị lãng quên vô thỉ kiếp.

Pháp Thiền đốn ngộ bên Trung Hoa phác họa pháp thiền qua 10 bức tranh chăn trâu, theo thứ tự từ thấp đến cao như sau:

1: Tầm ngưu (Tìm trâu). 2: Kiến tích (Thấy dấu). 3: Kiến ngưu (Thấy trâu). 4: Đắc ngưu (Được trâu). 5: Mục ngưu (Chăn trâu). 6: Kỵ ngưu qui gia (Cỡi trâu về nhà). 7: Vong ngưu tồn nhân (Quên trâu còn người). 8: Nhân ngưu câu vong (Người trâu đều quên), với bức tranh vòng tròn. 9: Phản bổn hoàn nguyên (Trở về nguồn cội). 10: Nhập triền thùy thủ (Thõng tay vào chợ).

Sau khi trở về nguồn cội mới tự tại vào chốn uế độ chẳng dính mắc. Cùng một ý nghĩa với người tu Tịnh độ cầu vãng sinh, sau đó quay về Ta bà độ hết thảy người thân kẻ oán. Đâu phải là thiếu lòng từ đâu?

Vậy nên Trí giả đại sư dạy:

Bồ Tát có hai hạng. Thứ nhất, bậc tu Bồ Tát Đạo đã lâu, chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn [4]. Với những vị nầy, đem lời đó trách thì đúng. Thứ nhì, bậc chưa chứng Vô Sanh và hàng phàm phu mới phát tâm Bồ Tát. Những vị sau nầy cần phải thường không rời Phật, mới thành tựu được nhẫn lực và có thể ở trong ba cõi, vào nơi đời ác để cứu độ chúng sanh. Cho nên Luận Trí Độ nói: 'Hạng phàm phu còn đủ mọi sự ràng buộc, dù có lòng đại bi, nhưng vội muốn sanh trong đời ác để cứu chúng hữu tình khổ não, đó là điều không hợp lý.' Tại sao thế? Vì trong cõi đời ác trược, nghiệp phiền não mạnh mẽ lẫy lừng. Khi ấy, mình đã không có nhẫn lực, tất tâm sẽ tùy cảnh mà chuyển, rồi bị sắc, thanh danh, lợi trói buộc, sanh ra đủ nghiệp tham, sân, si. Chừng đó tự cứu đã không rồi, nói chi là cứu chúng sanh? Giả sử được sanh trong cõi người thì cảnh xấu ác kẻ tà ngoại dẫy đầy, người chánh chơn khó gặp, cho nên Phật Pháp không dễ gì nghe, Thánh Đạo không dễ gì chứng.

Nếu người nhân bố thí, trì giới, tu phước được làm bậc quyền quý, mấy ai không mê đắm cảnh giàu sang, buông lung trong trường dục lạc?

Lúc đó dù có bậc Thiện Tri Thức khuyên bảo, họ cũng không chịu tin làm theo, lại vì muốn thỏa mãn lòng tham dục của mình, nương quyền thế sẵn có, gây ra nhiều tội nghiệp. Đến khi chết rồi, bị đọa vào tam đồ trải qua vô lượng kiếp, khi khỏi tam đồ, sanh được làm người, phải thọ thân bần tiện; nếu không gặp Thiện Tri Thức lại mê lầm gây tội ác, rồi bị đọa nữa. Từ trước đến nay chúng sanh luân hồi đều ở trong tình trạng ấy. Đây gọi là Nan Hành Đạo vậy. Kinh Duy Ma cũng nói: 'Chính bịnh của mình còn không tự cứu được, đâu có thể cứu được bịnh cho kẻ khác.'

Luận Trí Độ cũng nói: 'Ví như hai người, mỗi kẻ đều có thân nhân bị nước lôi cuốn; một người tánh gấp nhảy ngay xuống nước để cứu vớt, nhưng vì thiếu phương tiện nên cả hai đều bị đắm chìm. Một người sáng tỉnh hơn vội chạy đến lấy thuyền bơi ra cứu vớt, nên cả hai đều không bị nạn trầm nịch.' Bậc Bồ Tát mới phát tâm vì chưa đủ nhẫn lực nên không thể cứu chúng sanh, cũng như người trước. Những vị Bồ Tát thường gần gũi Phật chứng được Vô Sanh Nhẫn, mới có thể nhập thế và cứu độ vô lượng chúng sanh cũng như người sau. Như trẻ thơ không nên rời mẹ, nếu rời mẹ thì hoặc rơi vào hầm giếng, té xuống sông đầm, hoặc đói khát mà chết. Lại như chim non chưa đủ lông cánh, chỉ có thể nhảy chuyền theo cành cây; đợi chừng nào lông cánh đầy đủ, mới có thể bay xa, thong thả vô ngại. Phàm phu không nhẫn lực, chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà cho được nhất tâm, đợi khi tịnh nghiệp thành tựu, lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh, quyết định không nghi. Khi thấy Đức A Di Đà chứng quả Vô Sanh rồi, chừng ấy sẽ cỡi thuyền Pháp Nhẫn vào biển luân hồi cứu vớt chúng sanh, mặc ý làm vô biên Phật sự.

Cho nên bậc bi tâm hành giả, như muốn giáo hóa nơi địa ngục, vào biển trầm luân, nên chú ý đến nhân duyên cầu sanh Tịnh Độ. Điều nầy Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gọi là Dị Hành Đạo.

 

Nghi vấn thứ 11: Thể của Pháp là không, xưa nay vẫn vô sanh và bình đẳng vắng lặng. Nếu bỏ Ta Bà cầu về Cực Lạc, há chẳng là trái lý ư? Lại trong Kinh nói: 'Muốn cầu về Tịnh Độ, trước phải tịnh tâm mình; tâm mình thanh tịnh, cõi Phật mới thanh tịnh.' Người cầu sanh Tịnh Độ, cũng chẳng là trái lý này?

 

 

Lạm bàn:  Pháp môn Tịnh độ này dùng hữu niệm mà đạt lý Vô niệm, lấy sự cầu sanh mà được quả Vô sanh. Thế nào là Vô niệm? Tức niệm và vô niệm chẳng hai. Thế nào là Vô sanh? Tức sanh và vô sanh chẳng hai.

Đạt quả Vô sanh chẳng ngại gì sự thọ sanh, được lý Vô niệm cũng chẳng chấp có niệm. Thế nên Tổ Long Thọ chứng được bậc Sơ địa, thấy được lý Vô sanh mà lòng nguyện sanh chưa từng ngừng nghỉ, đạt được lý Vô niệm mà miệng niệm tâm niệm thánh hiệu Di Đà chẳng hề gián đoạn.

Như kinh Niết Bàn, đức Từ Phụ có dạy: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh nhưng chẳng thể tự thấy, phải do nhân duyên nên mới được thấy.

Cũng vậy, Bản lai diện mục của mỗi chúng sinh vốn Vô sanh nhưng mỗi chúng sinh chẳng thọ dụng được, cần phải do Đại nhân duyên cầu sanh Tịnh độ mới thấy được. Như vậy đâu có gì là trái lý?

Nếu cho rằng Vô sanh là không phải sanh nơi đâu là sai lầm lớn. Ngay đến chư Phật an định cõi Thường Tịch Quang [5] vẫn luôn dùng vô số sanh thân hóa độ khắp mười phương thế giới đó thôi.

Vả chăng muốn cầu sanh về được cõi Tây Phương chí ít phải đạt được một niệm Nhất tâm thanh tịnh, nhập vào được Di Đà Hải nguyện, tâm tương ưng với tâm Phật mới được vãng sinh; đó đâu không phải là trước tịnh tâm mình, sau nương biển nguyện về với cõi Tịnh, trái lý nơi nào?

 

Trí Giả đại sư dạy :- Vấn đề ấy có hai nghĩa. Xin phân làm tổng đáp và biệt đáp.

Về phần tổng đáp, nếu ông cho rằng cầu về Tịnh Độ tức là bỏ đây tìm kia, không hợp với lý bình đẳng như như. Còn ông chấp Ta Bà không cầu về Cực Lạc, há lại không bị lỗi bỏ kia chấp đây sao? Nếu ông bảo: 'Tôi không cầu kia cũng không chấp đây' thì lại mắc lỗi đoạn diệt. Cho nên Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: 'Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng nói phát tâm Vô Thượng Bồ Đề là đoạn diệt hết tướng của các pháp. Tại sao thế? Vì phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt.'

Về phần biệt đáp, như ông đã gạn về lý Vô Sanh và tâm tịnh, tôi xin giải thích. Vô Sanh cũng chính là lý bất sanh bất diệt. Bất sanh là các pháp giả hợp của sanh duyên không tự tánh, nên không thật có sanh thể và thời gian sanh. Xét ra không phải thật từ đâu mà đến, nên gọi là bất sanh. Bất diệt là khi các pháp hoại diệt cũng không tự tánh, nó không bảo rằng mình hoại diệt. Vì nó không thật có chỗ đi về nên gọi là bất diệt. Cho nên lý Vô Sanh hay bất sanh diệt không phải ngoài các pháp sanh diệt mà có. Vì thế chẳng phải không cầu sanh Tịnh Độ mà gọi là Vô Sanh. Trung Quán Luận nói: 'Các pháp nhân duyên sanh, ta nói chính là không, đó gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung Đạo.' Lại nói: 'Các pháp không tự sanh, không từ nơi cái khác mà sanh, không phải cộng sanh, cũng không phải vô nhân, nên gọi là Vô Sanh.' Kinh Duy Ma nói: 'Tuy biết các cõi Phật, cùng với hữu tình không, mà thường tu Tịnh Độ để giáo hóa quần sanh.' Lại nói: 'Ví như có người tạo lập cung thất, nếu cất ở chỗ đất trống thì tùy ý không ngại. Nếu muốn xây giữa hư không, tất không thể thành. Chư Phật thuyết pháp thường nương theo Nhị Đế, không phải hoại giả danh mà nói Thật Tướng của các pháp.' Cho nên người trí tuy siêng cần cầu sanh Tịnh Độ, mà rõ sanh thể không thật có. Đây mới là chân Vô Sanh và cũng là nghĩa tâm tịnh cõi Phật thanh tịnh. Trái lại kẻ ngu bị cái sanh ràng buộc, nghe sanh liền nghĩ là sanh, nghe nói Vô Sanh lại chấp là không có sanh về nơi nào cả, đâu biết rằng sanh chính là Vô Sanh, Vô Sanh há lại ngại vì sanh? Vì không hiểu lẽ ấy, họ sanh lòng tranh chấp thị phi, khinh chê người cầu sanh Tịnh Độ, thật rất sai lầm! Đây chính là kẻ tội nhơn báng Pháp, hạng tà kiến ngoại đạo vậy. 

 

Nghi vấn thứ 12: Tất cả cõi Tịnh Độ của chư Phật ở mười phương công đức đều bình đẳng, pháp tánh cũng như vậy. Người tu nên nhớ nghĩ khắp tất cả công đức của chư Phật, cầu về các cõi tịnh ở mười phương mới phải, sao nay lại riêng cầu Tịnh Độ của một đức Phật? Như thế chẳng là trái với lý bình đẳng cầu sanh ư?

 

Lạm bàn: Tuy đức Trí Giả đại sư dạy rằng tất cả các cõi Phật đều bình đẳng nhưng sự bình đẳng đó chỉ ở trên Lý thể, còn Sự thì không. Vì sao? Kinh Quán Vô Lượng Thọ, khi đức Thế Tôn diễn bày cảnh giới Tịnh Độ của chư Phật mười phương thì phu nhân Vi Đề Hy chỉ riêng chọn cõi Tây Phương Cực Lạc. Đó là điều không bình đẳng trên mặt sự thứ nhất.

Kinh Pháp Hoa đức Phật thọ ký các cõi Tịnh độ cho các đệ tử cũng có sai biệt, và điều chính yếu là thọ mạng của đức Phật và các thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp đều hữu hạn chứ chẳng được vô cùng tận như cõi Tây Phương. Đó là điều không bình đẳng trên mặt sự thứ hai.

Điều không bình đẳng trên mặt sự thứ ba và quan trọng nhất là Nhân duyên được sanh về cõi Tịnh Độ ấy. Xét thấy Phật A Di Đà đặc biệt có nhân duyên với chúng sinh cõi này. Bất kể Phật tử theo tông giáo nào đều chào nhau bằng Thánh hiệu A Di Đà Phật, khóa tụng hàng ngày của Tông giáo Đại thừa đều có kinh A Di Đà. Đó chẳng phải là do Phật Di Đà có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh cõi này đó ư? Hơn nữa điều thù thắng tối diệu nữa mà chẳng có cõi Tịnh Độ nào có được đó chính là Bản nguyện Độ sanh vĩ đại của Phật Di Đà.

Nay nói lược vài điều như vậy để chứng tỏ cõi Tây Phương thù thắng bậc nhất so với các cõi Tịnh Độ mười phương.

Hơn nữa, nếu nói về bình đẳng thì một vốn là tất cả, tất cả đều quy về một, nhớ nghĩ về công đức của Phật Di Đà chẳng phải là nhớ nghĩ về công đức tất cả chư Phật đó ư? Nên ngài Ngẫu Ích có dạy: Sanh về cõi Tây Phương chính là sanh về mười phương cõi Tịnh vậy.

 

Trí Giả đại sư dạy: Tất cả cõi tịnh của chư Phật thật ra đều bình đẳng. Nhưng vì chúng sanh ở cõi này phần nhiều là kẻ độn căn trược loạn, nếu không buộc tâm chuyên vào một cảnh thì Tam Muội khó thành. Chuyên niệm Phật A Di Đà, tức là Nhất Tướng Tam Muội, vì tâm chuyên nhất nên được sanh về cõi kia. Như trong Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh, Phổ Quảng Bồ Tát hỏi Phật: 'Bạch Đức Thế Tôn! Mười phương đều có Tịnh Độ, tại sao Thế Tôn lại riêng khen ngợi cõi Tây Phương Cực Lạc và khuyên chúng sanh nên chuyên niệm Phật A Di Đà để cầu về cõi ấy?' Phật bảo ngài Phổ Quảng: 'Chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề phần nhiều tâm trược loạn, vì thế ta chỉ tán thán một Tịnh Độ ở Tây Phương khiến các hữu tình chuyên tâm vào một cảnh để cho sự vãng sanh được dễ thành tựu. Nếu nhớ niệm tất cả chư Phật, vì niệm cảnh quá rộng, nên tâm mênh mang tán lạc, Tam Muội khó thành, không được vãng sanh. Lại sự cầu công đức của một vị Phật cùng sự cầu công đức của tất cả Phật không khác nhau, vì chư Phật đồng một pháp tánh. Cho nên niệm Phật A Di Đà tức là niệm tất cả Phật, sanh Tây Phương Tịnh Độ, tức là sanh tất cả Tịnh Độ. Vì thế Kinh Hoa Nghiêm nói: 'Thân tất cả chư Phật là thân một Đức Phật, một tâm một trí huệ, lực vô úy cũng thế.' Lại nói: 'Ví như trăng tròn sáng, in bóng khắp sông hồ, ảnh tượng tuy vô cùng, mặt trăng chỉ là một, như đấng Vô Ngại Trí, thành bậc Đẳng Chánh Giác, ứng hiện tất cả cõi, thân Phật không có hai.'

Tóm lại, người có trí huệ nương nơi thí dụ trên sẽ hiểu được lý một tức tất cả, tất cả là một. Khi hiểu được lý nầy, thì niệm một Đức Phật, chính là niệm tất cả chư Phật vậy. 

 

Nghi vấn thứ 13: Mười phương đều có chư Phật và Tịnh Độ. Nếu vì lẽ chúng sanh ở cõi nầy tâm tánh trược loạn, niệm nhiều vị Phật e Tam Muội khó thành, tại sao người tu không tùy ý niệm một đức Phật, tùy nguyện cầu sanh về một Tịnh Độ nào khác, hà tất phải riêng niệm Đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc? 

Lạm bàn: Kinh Huyền ký, Đức Bổn sư dạy:  Trong đời Mạt pháp, ức ức người tu hành, hiếm có một ai đắc đạo, chỉ có nương vào pháp Niệm Phật mới có thể được  độ thoát.

Đấng Từ Phụ trong 49 năm thuyết pháp, tuy thỉnh thoảng có tán thán qua một số cõi Tịnh độ: Như cõi Phật Dược sư Lưu Ly, Phật A Súc, cung trời Đâu Suất của Bồ tát Di Lặc... nhưng cũng chỉ là tán dương công đức các đức Phật giáo chủ nơi đó chứ cũng chưa từng ân cần khuyên tất cả chúng sinh phát nguyện vãng sinh về đó. Vì sao? Vì do Nhân duyên và sự vãng sinh khó dễ khác nhau.

 

Đại sư Ngẫu Ích có nói: “Vì sao lại niệm A Di Đà Phật? Đó là vì nhằm làm cho hàng sơ cơ dễ biết chỗ để chú tâm, do A Di Đà Phật có bổn nguyện thù thắng, do Phật đặc biệt có duyên với chúng sinh cõi này, có thể làm cho chúng sinh vui vẻ tin tưởng, chứng nhập, có thể dấy động chủng tử Phật [6] từ trong quá khứ, có thể làm cho ma khó có thể gây chướng ngại, ngăn trở, làm cho thể tánh dễ khai phát”.

Lại nữa, trong kinh Lăng Nghiêm, đức Bổn sư dạy: "Nếu có chúng sinh nào sống thuần về  tư tưởng thì khi lâm chung sẽ bay lên hóa sinh nơi các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng đó lại gồm cả phước huệ Tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực sẽ được sinh về các cõi Tịnh độ."

Như vậy nếu chỉ do tự lực chúng sinh tu hành mà được sinh về các cõi Tịnh độ là khó vô cùng.

Đời mạt pháp, chúng sinh phần nhiều nặng về tình nhẹ về tưởng, tình và tưởng; cân bằng còn khó chứ chưa nói đến tu được đến độ thuần tưởng, sánh ngang các Thánh.

Nên kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Thế Tôn dạy:" Này Diệu Nguyệt cư sĩ, hãy một lòng tin nhận lời dạy của Như Lai, hãy ghi nhớ kỹ lời dạy của Như Lai. Hãy thực hành theo lời dạy của Như Lai và hãy chứng đắc pháp mầu tối tôn tối diệu đệ nhất này mà Như Lai đã ban cho. Vì sao vậy? Vì pháp của Như Lai là vắng lặng, không dính mắc vô cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sinh mà vẫn giúp chúng sinh thành tựu địa vị Phật-đà."

Chỉ có thể do tự bản thân phát khởi Tín Nguyện chân thật, hành trì dũng mãnh, lại nương theo Bản nguyện độ sanh của Phật Di Đà mới có thể "muôn người tu, muôn người đắc" như kinh đã dạy được.

 

Trí Giả đại sư dạy:- Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng nên tự chuyên, vì thế xưa nay những người tu Tịnh Độ đều chuyên niệm Phật A Di Đà. Theo lời Phật dạy là thế nào? Đức Thích Ca Thế Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Như trong các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... có đến mấy mươi bộ, Phật đều ân cần khuyên sanh về Tây Phương. Chẳng những riêng các kinh, mà trong các luận, chư Bồ Tát, Tổ Sư đều bảo nên cầu sanh về Cực Lạc.

Lại nữa, đức Phật A Di Đà có bốn mươi tám điều đại bi nguyện lực để tiếp độ chúng sanh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Phật A Di Đà có tám mươi bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, mỗi vẻ đẹp phóng ra tám mươi bốn ngàn tia sáng soi khắp pháp giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không rời bỏ. Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu ngài, thì cơ cảm tương ưng, quyết định sẽ được vãng sanh.' Các kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Vương Đà La Ni đều nói: 'Khi Đức Thích Ca thuyết kinh, hằng hà sa chư Phật ở mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi đại thiên để chứng thật rằng nếu chúng sanh nào niệm Phật A Di Đà, tất sẽ nương nhờ đại bi nguyện lực của ngài, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.'

Nên biết Phật A Di Đà đối với cõi nầy có nhân duyên lớn. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: 'Trong thời mạt, khi các kinh khác đã diệt hết, chỉ còn kinh nầy lưu trú ở đời một trăm năm để tiếp độ loài hữu tình vãng sanh về cõi kia.' Đây là điểm chứng minh Phật A Di Đà đối với chúng sanh ở cõi trược nầy có đại nhân duyên.

Về các Tịnh Độ khác, tuy một, hai bộ kinh có lược khuyên vãng sanh, song chẳng bằng cõi Cực Lạc là tiêu điểm mà các kinh, luận đều ân cần khuyến hướng. 

 

Nghi vấn thứ 14: Hàng cụ phược phàm phu nghiệp ác sâu dày, đầy đủ tất cả phiền não, dù có chút ít công đức tu hành, hoặc chướng vẫn chưa vơi được trong muôn một. Cõi Cực Lạc rất thanh tịnh trang nghiêm, còn siêu việt hơn tam giới. Thế thì hạng phàm phu ấy làm sao vãng sanh?

 

Lạm bàn: Nghi vấn này tương tự điều nghi thứ 6 trong chương I, xin tham khảo thêm.

Trí Giả đại sư dạy:- Có hai duyên: tự lực và tha lực. Về tự lực, hàng cụ phược phàm phu ở thế giới nầy tuy có đôi chút tu hành, thật ra chưa có thể sanh về Tịnh Độ và xứng đáng được ở Tịnh Độ. Kinh Anh Lạc nói: 'Từ địa vị cụ phược phàm phu chưa biết Tam Bảo và nhân quả thiện ác, trước tiên mới phát tâm Bồ Đề phải lấy tín làm gốc, đến khi vào Đạo Phật lại lấy giới làm nền tảng. Hạng phàm phu nầy khi mới thọ giới Bồ Tát, nếu mỗi đời cứ tiếp tục giữ giới như thế không cho khuyết phạm, trải qua ba kiếp mới đến địa vị Sơ Phát Tâm Trụ. Lại cứ như thế mà tu Thập Tín, Thập Ba La Mật cùng vô lượng hạnh nguyện, nối nhau không gián đoạn, mãn một vạn kiếp, mới đến ngôi đệ lục Chánh Tâm Trụ. Khi tiến lên đệ thất Bất Thối Trụ tức là đã vào Chủng Tánh Vị, nhưng địa vị nầy cũng chưa được sanh về Tịnh Độ. Đây là ước về tự lực.

Về tha lực, nếu kẻ nào tin nơi nguyện lực đại bi nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật của Đức A Di Đà, rồi phát lòng Bồ Đề tu môn Niệm Phật Tam Muội, chán thân hữu lậu trong ba cõi, thực hành bố thí, trì giới cùng các phước nghiệp, mỗi hạnh đều hồi hướng nguyện sanh Tây Phương thì cơ cảm hợp nhau, nương nhờ Phật lực liền được vãng sanh. Cho nên Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận nói: 'Có hai lối tu: Nan Hành Đạo và Dị Hành Đạo. Nan Hành Đạo là chúng sanh ở cõi ngũ trược trải qua vô lượng đời chư Phật, cầu ngôi A Bệ Bạt Trí, thật rất khó được. Nỗi khó nầy nhiều vô số như cát bụi, nói không thể xiết. Nay chỉ kể sơ lược năm điều:

a. Ngoại đạo dẫy đầy, làm loạn Bồ Tát Pháp.

b. Bị người ác, kẻ vô lại phá hư thắng đức của mình.

c. Dễ bị phước báo làm điên đảo, có thể khiến hoại mất phạm hạnh.

d. Dễ bị lạc vào lối tự lợi của Thanh Văn, làm chướng ngại lòng đại từ.

e. Bởi duy có tự lực không tha lực hộ trì, nên sự tu hành rất khó khăn, ví như người què yếu đi bộ một mình tuy rất khó nhọc, một ngày chẳng qua chỉ được vài dặm.

Dị Hành Đạo là chúng sanh ở cõi nầy nếu tin lời Phật, tu môn Niệm Phật nguyện về Tịnh Độ, tất sẽ nhờ nguyện lực của Phật nhiếp trì, quyết định được vãng sanh không còn nghi. Ví như người nương nhờ sức thuyền xuôi theo dòng nước, tuy đường xa ngàn dặm cũng đến nơi không mấy chốc. Lại ví như người tầm thường nương theo luân bảo của Thánh Vương, trong một ngày đêm có thể du hành khắp bốn châu thiên hạ. Đây không phải do sức mình, mà chính là nhờ thế lực của Chuyển Luân Vương [7].'

Cũng có kẻ suy theo lý mà cho rằng hạng phàm phu hữu lậu [8] không thể sanh về Tịnh Độ và không thể thấy thân Phật. Nhưng công đức niệm Phật thuộc về vô lậu thiện căn, hạng hữu lậu phàm phu do phát tâm Bồ Đề cầu sanh Tịnh Độ và thường niệm Phật, nên có thể phục diệt phiền não, được vãng sanh, và tùy phần thấy thô tướng của Phật. Còn bậc Bồ Tát thì cố nhiên được vãng sanh, lại thấy tướng vi diệu của Phật, điều ấy không còn nghi ngờ chi nữa. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói:

'Tất cả các cõi Phật,

Đều bình đẳng nghiêm tịnh,

Chúng sanh hạnh nghiệp khác,

Chỗ thấy chẳng đồng nhau.'

Đây là chỉ cho ý nghĩa trên vậy. 

 

Nghi vấn thứ 15: Hàng cụ phược phàm phu được sanh về cõi Cực Lạc, giả sử phiền não ác kiến thường nổi lên thì làm sao được gọi là: 'Vượt hơn ba cõi, lên ngôi Bất Thối?'

 

Lạm bàn: Do ta sống trong cõi Ta Bà uế trược nên bị tâm uế trược tham sân si làm chủ, bản tâm thanh tịnh bị che mờ, ẩn khuất; như viên minh châu bỏ vào chỗ tối tăm nên phiền não ác kiến thường nổi lên. Nay được thiện tri thức chỉ rõ đường đi phá mê khai ngộ, một lòng chán ghét sinh tử quyết một lòng cầu sanh Tịnh độ, khi lâm chung được Phật lực tiếp dẫn hóa sanh trong sen báu, khôi phục được bản tâm thanh tịnh mới hay đó chính là bộ mặt chân thật của mình, còn tâm uế trược sân si chỉ là huyễn hóa dối gạt ta bao kiếp, như sương giá trước mặt trời chói lọi phải bị tiêu tan. Do đó đã sinh về cõi Tây Phương không thể có chuyện phiền não ác kiến nổi lên mà gây nhân thối chuyển được.

 

Trí Giả đại sư dạy:- Người được sanh về Tây Phương dù là hàng cụ phược phàm phu, cũng không khi nào khởi phiền não ác kiến và không được lên ngôi Bất Thối; bởi có năm nhân duyên:

a. Do nguyện lực đại bi của Phật nhiếp trì.

b. Ánh sáng của Phật thường soi đến thân, nên lòng Bồ Đề của chư thiên nhơn luôn luôn tăng tiến.

c. Chim, nước, rừng, cây gió, âm nhạc thường phát ra tiếng pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã; hành giả nghe rồi sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

d. Chúng sanh được sanh về Cực Lạc thì bạn lành toàn là bậc Bồ Tát thượng thiện, tuyệt tất cả chướng nạn, ác duyên, lại không ngoại đạo tà ma, nên tâm thường an tịnh.

e. Đã được sanh về cõi ấy thì thọ lượng vô cùng, đồng với Phật và Bồ Tát, an nhiên tu tập trải qua vô biên a tăng kỳ kiếp.

Do năm nhân duyên trên nên chúng sanh sanh về Cực Lạc tất được bất thối chuyển và không khi nào khởi phiền não ác kiến. Còn chúng hữu tình ở cõi ác trược nầy, thọ số ngắn ngủi, ác duyên chướng nạn dẫy đầy, nên rất khó được bất thối chuyển, lý ấy đã hiển nhiên, không còn chi phải nghi ngờ.  

 

Nghi vấn thứ 16: Di Lặc Bồ Tát là bậc Nhứt Sanh Bổ Xứ [9], hiện ở cung trời Đâu Suất [10]; ngài sẽ kế vị đức Thích Ca mà thành Phật trong tương lai. Thiết tưởng chúng ta nên tu thượng phẩm thập thiện cầu sanh về nơi đó để được diện kiến Ngài. Đợi đến khi Bồ Tát giáng thế thành Phật, ta cũng theo Ngài mà hạ sanh, trong ba hội Long Hoa tất sẽ được chứng thánh quả. Thế thì cần chi phải cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ?

 

Trí Giả đại sư dạy:- Cầu về Đâu Suất cũng có thể gọi là nghe đạo, thấy Phật, gần giống như cầu về Tây Phương. Nhưng nếu xét kỹ lại trong ấy có sự hơn kém rất xa. Xin kể ra hai việc để luận:

1. Dù chúng ta có tu Thập Thiện, chưa chắc đã được sanh về Đâu Suất. Vì Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: 'Hành giả phải tu các môn Tam Muội đi sâu vào chánh định, mới được sanh lên Nội Viện thiên cung'. Xét qua phương diện ấy, ta thấy Di Lặc Bồ Tát không có phương tiện tiếp dẫn, đâu bằng sức bản nguyện cùng sức quang minh của Đức A Di Đà có năng lực nhiếp thủ và tế độ những chúng sanh niệm Phật. Lại khi Đức Thích Ca nói về nghĩa phương tiện tiếp dẫn trong cửu phẩm giáo môn, Ngài đã ân cần khuyên chúng sanh nên về Cực Lạc. Phương tiện nầy rất giản dị, hành giả chỉ cần niệm Phật A Di Đà, cơ cảm hợp nhau, liền được vãng sanh. Như ở thế gian chiêu mộ người, nếu kẻ nào muốn gia nhập thì cơ hội hợp nhau, liền thành sự việc.

2. Đâu Suất thiên cung dù sao cũng ở trong Dục giới, nên kẻ thối vị rất nhiều. Nơi ấy chim, nước, rừng cây gió, âm nhạc không phát ra tiếng pháp, có thể khiến chúng sanh phục diệt phiền não nhớ nghĩ Tam Bảo, phát lòng Bồ Đề. Trái lại còn có nữ nhơn gây tăng thượng duyên cho tâm trước nhiễm ngũ dục của hành giả. Mà vẻ xinh đẹp của các thiên nữ ấy lại vi diệu tuyệt vời, làm cho chư thiên đắm mê, ít có vị nào tránh khỏi. Sao bằng cõi Cực Lạc cây chim tuyên Diệu Pháp, gió nhạc diễn Bồ Đề, chúng sanh nghe rồi phiền não tiêu tan, đạo tâm tăng tiến? Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà không có người nữ và kẻ phát tâm Nhị Thừa, chỉ thuần là những pháp lữ Đại Thừa thanh tịnh, phiền não ác nghiệp không thể phát khởi; như thế làm sao hành giả không mau chứng quả vị Vô Sanh? Chỉ so sánh qua vài điều mà sự hơn kém đã hiển nhiên, còn chi phải nghi ngờ do dự?

Đến như sự gặp Phật Di Lặc được chứng thánh quả, cũng đã vị tất! Như khi Đức Thích Ca còn tại thế có biết bao nhiêu chúng sanh thấy Phật, mà vẫn không được chứng thánh quả? Lúc Đức Di Lặc ra đời cũng vậy, có vô số chúng sanh thấy Phật nghe pháp, song không được chứng thánh quả. Riêng về Tịnh Độ của Phật A Di Đà, chỉ được sanh về, quyết sẽ chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, không một kẻ nào thối đọa trở lại tam giới, bị nghiệp sanh tử buộc ràng.

Lại nghe Tây Vức Truyện nói: -Có ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác thâm tu thiền định, quyết chí đồng sanh về Đâu Suất. Ba vị đó cùng ước hẹn, nếu ai sanh lên Nội Viện được thấy đức Di Lặc trước, phải trở về báo tin cho huynh đệ biết. Ngài Sư Tử Giác quy tịch trước, trải qua thời gian khá lâu, không trở lại báo tin. Kế đó ngài Thế Thân vô thường; khi lâm chung, Vô Trước Bồ Tát dặn rằng: 'Sau khi em bái kiến đức Di Lặc, phải trở xuống cho anh biết ngay.' Thế Thân Bồ Tát tịch rồi ba năm sau mới trở lại báo tin. Ngài Vô Trước hỏi: 'Tại sao em thông báo trễ như thế?' Thế Thân đáp: 'Sau khi lễ kiến đức Di Lặc, vừa nghe ngài thuyết pháp chỉ dạy xong, em cung kính đi vi nhiễu ba vòng rồi trở xuống đây báo tin liền. Vì một ngày đêm ở Đâu Suất bằng 400 năm nơi hạ giới, nên mới trễ đến ba năm.' Vô Trước lại hỏi: 'Còn Sư Tử Giác hiện ở đâu?' Thế Thân đáp: 'Sư Tử Giác bị lạc vào Đâu Suất ngoại viện, đang say đắm cảnh ngũ dục, từ khi sanh lên đến nay, chưa được thấy đức Di Lặc.'

Xem thế thì biết các bậc tiểu Bồ Tát sanh về Đâu Suất còn bị mê lạc, huống nữa là phàm phu. Cho nên người tu muốn chắc chắn được bất thối chuyển, nên cầu về Cực Lạc, chớ nguyện sanh lên Đâu Suất. 
 

Nghi vấn thứ 17: Chúng sanh từ vô thỉ đến giờ tạo vô lượng tội; đời nay lúc bé đến già, do không gặp thiện tri thức, lại gây thêm nhiều nghiệp ác. Như thế làm sao lại bảo: 'Khi lâm chung mười niệm thành tựu liền được vãng sanh?' Và cái lý 'vượt qua kiết nghiệp ba cõi' làm sao giải thích cho thông?

 

Lạm bàn: Chỉ vì chúng sinh muôn kiếp chấp tướng mà chẳng hiểu đạo mầu nên mới khởi nghi này. Kinh Niết Bàn đức Phật dạy: "Chúng sinh tạo ác nghiệp ví như bông, tu Phật pháp giống như vàng ròng. Một tạ bông chẳng thể so sánh một lạng vàng ròng."

Đó cũng là lý Nhân ít quả nhiều của đạo Phật vậy.

Do vì đa số người tu hành chưa hiểu hết được giá trị chân chính của Phật pháp nên hay mặc cảm tự ti khởi ra nhiều nghi ngờ.

Tuy nhiên, cũng phải nhắc lại, đối với những người hiểu được giá trị thực sự của Phật pháp, thấy rõ được sự đáng sợ của dòng lũ sinh tử thì lâm chung mười niệm không khó khăn gì. Nhưng đối với những người mang tâm thái hời hợt tu hành, chẳng thấy sự đáng sợ của sinh tử thì như Ngẫu Ích đại sư nói chẳng nhất định được vãng sinh, bởi lẽ điều lành hờ hững khó chống lại tội lỗi tích tập từ vô thỉ.

Trong quyển Mấy điệu sen thanh của thầy Thích Thiền Tâm có câu chuyện:

Có một vị quan Hữu tư tham quân tên Vương Trọng Hồi, từng theo ông Dương Kiệt thọ học pháp môn Niệm Phật, có hỏi rằng: "Làm thế nào để được không gián đoạn?". Ngài Dương Kiệt đáp: "Sau khi đã tin chắc chẳng còn nghi, tức là không gián đoạn!". Trọng Hồi nghe nói lãnh ngộ, vui mừng khấp khởi, từ tạ ra về. Năm sau, Thứ Công làm quan ở Đơn Dương, một đêm mơ thấy Trọng Hồi đến thưa rằng:"Trước kia nhờ ngài chỉ dạy về Tịnh độ, nay tôi đã được vãng sanh, nên đến đây tạ ân!".

 

Có được niềm tin vào pháp môn Tịnh độ tuy quý nhưng tin suông cũng chẳng có nhều lợi ích. Xưa tạo bao ác nghiệp, ví như kẻ khốn cùng, nay được thiện tri thức chỉ cho pháp Tịnh độ lìa khổ được vui, có thể cắt đứt được dòng sinh tử, ví như có quặng vàng mà chẳng biết luyện thành vàng ròng để dùng thì cũng uổng công. Do đó niềm tin phải được qua trải nghiệm, thử thách, mới trở thành niềm tin kiên cố không lay động; tin rồi phải dũng mãnh hành trì để chứng ngộ được niềm tin ấy thì niềm tin ấy mới là Chánh Tín. Từ Chánh Tín phát ra Chánh nguyện, từ Chánh nguyện dẫn khởi Chánh Hạnh chuyên trì Danh hiệu Phật, lâm chung mười niệm nhất định vãng sinh Tịnh Độ chẳng chút hư dối.

 

Còn lý "vượt qua kiết nghiệp ba cõi" có thể giải thích bằng hai ý:

Thứ nhất, cõi Tây Phương vốn là Ly cấu Diệu cực Pháp thân Phật [11], vốn chẳng ở trong ba cõi tam thiên [12]. Vãng sinh Tịnh độ tất nhiên là vượt thoát tam giới theo chiều ngang, thân được hóa sinh trong hoa sen chẳng còn cấu nhiễm, nên gọi là "vượt qua kiết nghiệp ba cõi".

Thứ hai, vãng sinh Tây Phương là đới nghiệp vãng sinh. Vì suy cho cùng kiết nghiệp cũng là nhân duyên thiện ác trong ba cõi, vãng sinh Tây Phương tận mắt gặp Phật Di Đà, chứng ngộ Vô sanh pháp nhẫn, lại trở về Ta Bà, do các kiết nghiệp nhân duyên xưa mà độ thoát cha mẹ nhiều đời, kẻ oán người thân, chẳng phải là lòng Đại bi sao?

 

Trí Giả đại sư dạy:- Những nghiệp chủng lành dữ của chúng sanh từ kiếp vô thỉ đến nay, hoặc ít hoặc nhiều, hoặc yếu hoặc mạnh thật ra vẫn khó biết. Nhưng nếu người nào khi lâm chung gặp thiện tri thức và thành tựu mười niệm, tất kẻ ấy đã có túc thiện nghiệp. Nếu chẳng thế thì thiện tri thức còn không được gặp, huống chi là thành tựu mười niệm? Như ông cho rằng ác nghiệp từ vô thỉ là nặng, mười niệm khi lâm chung là nhẹ; tôi xin đem ba đạo lý để giải thích sự vãng sanh ấy không thuộc về trường hợp khinh trọng, không phải tại công hạnh nhiều ít hay thời gian lâu mau. Ba đạo ấy là: Do bởi tâm, do bởi duyên, và do bởi quyết định.

Do bởi tâm là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi vọng niệm điên đảo mà sanh, còn lúc niệm Phật lại từ nơi nghe danh hiệu công đức chân thật của Phật A Di Đà mà khởi; một bên hư, một bên thật đâu thể sánh nhau! Ví như một gian thạch thất đóng kín để tối muôn năm, nếu được người mở ra cho ánh sáng mặt trời soi vào, sự tối ấy liền mất; đâu phải vì do tối tăm đã lâu mà không được sáng ư? Người tạo ra tội nhiều kiếp, khi lâm chung thành tựu mười niệm được vãng sanh cũng lại như vậy.

Do bởi duyên là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi vọng niệm tối tăm điên đảo, duyên theo cảnh giới hư huyễn mà sanh; lúc niệm Phật lại từ nơi nghe danh hiệu công đức chân thật thanh tịnh của Phật Di Đà duyên theo Bồ Đề tâm mà khởi. Như thế, một bên chân, một bên ngụy, đâu thể sánh nhau! Ví như có người bị trúng tên độc, tên ghim sâu, sức độc mạnh, xương thịt nhiễm trọng thương, nếu được nghe được tiếng trống thần dược thì tên tự bắn ra, độc tiêu tan hết; đâu phải vì do tên sâu độc nặng mà không được an lành ư? Người tạo tội nhiều kiếp, khi lâm chung thành tựu mười niệm mà được vãng sanh cũng lại như vậy.

Do bởi quyết định, là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi gián tâm hoặc hậu tâm; lúc lâm chung niệm Phật lại không có hai tâm đó, mà từ nơi một niệm mãnh liệt trì danh rồi xả mạng, nên được siêu thoát. Ví như sợi dây cực to, cả ngàn người bứt không đứt, nếu có đứa bé cầm gươm Thái A mà chém, dây liền đứt đoạn. Lại như đống củi rất lớn chứa góp từ cả ngàn năm, nếu có người dùng một đốm lửa mà đốt, củi liền cháy hết. Và như có người trọn đời tu mười nghiệp lành ưng được sanh về cõi trời, nhưng khi lâm chung kẻ ấy khởi một niệm tà kiến mạnh mẽ, liền bị đọa vào A Tỳ địa ngục. Nghiệp ác vẫn hư vọng, mà do bởi tâm niệm quyết liệt, còn có thể lấn lướt nghiệp lành một đời, khiến cho chúng sanh bị đọa vào ác đạo; huống chi sự niệm Phật là nghiệp lành chân thật, có người khi lâm chung dùng tâm mãnh liệt trì danh, lại không thể lấn áp ác nghiệp từ vô thỉ ư? Cho nên người tạo tội nhiều kiếp, khi lâm chung dùng tâm mãnh liệt thành tựu mười niệm mà không được vãng sanh, quyết không có lý đó!

Kinh nói: 'Chí tâm niệm một câu A Di Đà, sẽ tiêu diệt được tội nặng nơi đường sanh tử trong tám mươi ức kiếp.' Sở dĩ có sự kiện đó, vì hành giả niệm Phật dùng tâm mãnh liệt nên mới phục diệt được ác nghiệp; nếu khi lâm chung dùng tâm ấy niệm Phật, quyết định sẽ vãng sanh, không còn nghi ngờ chi nữa! Cổ truyền phán định mười niệm khi lâm chung hoàn toàn thuộc về biệt thời ý ( ý nói túc nhân). Lý ấy không đúng. Tại sao thế? -Vì trong Nhiếp Luận nói: 'Nếu chỉ là biệt thời thì duy phát nguyện, toàn không có hạnh.' Tạp Tập Luận nói: 'Nếu nguyện vãng sanh về Cực Lạc liền được vãng sanh, nếu nghe danh hiệu Phật Vô Cấu liền chứng được quả Vô Thượng Chánh Giác, đó mới là biệt thời nhân.' Riêng về người khi lâm chung thành tựu mười niệm là do duyên lành nên được gặp thiện tri thức dạy bảo, lại cũng do tự mình chí tâm thật hành pháp niệm Phật mới có kết quả; nếu chỉ định cho hoàn toàn thuộc về túc nhân, thật đã sai lầm! Nguyện các hành giả nghĩ sâu lý nầy tự sanh lòng kiên cố đừng tin theo dị kiến ma để lạc lối mê. 
 

Nghi vấn thứ 18: Thế giới Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi Phật, hạng phàm phu yếu kém làm sao có thể đi đến? Lại, trong luận Vãng Sanh nói: 'Người nữ, kẻ căn thiếu. Nhị thừa chủng không sanh.' Đã có lời ấy thì người nữ và kẻ sáu căn không toàn vẹn chắc là không được vãng sanh?

 

Lạm bàn: Điều nghi này tương tự điều nghi thứ 2 trong chương I. Xin tham khảo thêm.

Trí Giả đại sư dạy:- Thế giới Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi Phật là đối với tâm lượng của hạng nhục nhãn phàm phu ở trong nẻo luân hồi mà nói vậy thôi. Nếu đối với chúng sanh tịnh nghiệp thành tựu thì tâm ở trong định khi lâm chung chính là tâm thọ sanh về Tịnh Độ, vừa động niệm liền được vãng sanh. Vì thế trong Quán Kinh nói: 'Cõi nước của Phật A Di Đà cách đây không xa!' Lại nghiệp lực không thể nghĩ bàn, trong một niệm liền được sanh về cõi Phật, không cần phải lo đường lối xa xôi. Ví như người nằm mơ, thân tuy ở nơi giường, mà tâm đi khắp các nơi xa lạ như lúc còn thức. Sự sanh về Tịnh Độ đại để cũng như vậy.

Còn câu: 'Người nữ, kẻ căn thiếu. Nhị thừa chủng không sanh' là ý nói người nữ khi sanh về Cực Lạc sẽ chuyển thành nam, kẻ căn thiếu lúc về đó các căn sẽ đầy đủ, và tất cả đều được ba mươi hai tướng tốt; chớ không phải bảo người nữ cùng kẻ căn thiếu, không được vãng sanh. Nếu quả như thế thì bà Vi Đề Hy và năm trăm thị nữ đâu được Phật thọ ký cho sanh về Cực Lạc? Thế nên, người nữ cùng kẻ đui điếc câm ngọng ở cõi nầy, nếu niệm Phật A Di Đà, tất đều được vãng sanh. Đến như hàng nhị thừa, nếu chịu hướng về Đại Thừa tin môn Tịnh Độ, nguyện về Cực Lạc, niệm Phật A Di Đà, quyết định đều được vãng sanh, và khi đã về cõi ấy không còn chấp theo tâm lượng hẹp hòi của nhị thừa nữa. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Pháp Tạng Tỳ Khưu, tiền thân của Phật A Di Đà đã phát nguyện rằng: 'Như tôi đắc quả Vô Thượng Giác, tất cả người nữ trong mười phương thế giới nhàm chán thân nữ, xưng danh hiệu tôi, nguyện kiếp sau không còn thọ nữ nhân, quyết đều sẽ được toại ý. Nếu chẳng như thế, tôi thề không thành Phật.' Người nữ chỉ vì muốn chuyển nữ thành nam, niệm Phật A Di Đà, còn được toại nguyện, huống chi những vị đã sanh về Cực Lạc? Cho đến kẻ căn thiếu cũng lại như thế.

Tóm lại, hai câu trên đại ý chỉ luận ở cõi Cực Lạc không có người nữ, kẻ căn thiếu, cùng hạng chủng tử nhị thừa mà thôi. 

 

Nghi vấn thứ 19:- Nay tôi quyết định cầu sanh Tây Phương, nhưng chưa biết phải làm những nghiệp gì, và lấy chi làm chủng tử để được sanh về Cực Lạc? Lại hạng phàm phu ở thế tục đều có gia đình, chưa biết không đoạn dâm dục có được sanh về cõi kia chăng?

 

Trí Giả đại sư dạy:- Muốn quyết định được sanh về Tây Phương phải có đủ hai hạnh: yểm ly và hân nguyện.

Nói yểm ly là hàng phàm phu từ vô thỉ đến nay bị ngũ dục buộc ràng nên luân hồi trong sáu đạo, chịu không biết bao nhiêu nỗi khổ! Trong vòng lẩn quẩn ấy, nếu không chán lìa ngũ dục thì làm sao có thể thoát ly? Cho nên người tu Tịnh Độ phải thường xét thân nầy là một khối thịt xương máu mủ, chứa đựng đàm dãi, đại tiểu tiện và các thứ nhơ nhớp hôi tanh. Kinh Niết Bàn nói: 'Vòng thành thân kiến như thế, duy loài La Sát ngu si mới chịu ở trong đó; nếu người có trí ai lại đắm nhiễm thân nầy!” Lại trong Kinh cũng nói: 'Thân nầy là nơi tập hợp của các thứ khổ, là cảnh tù ngục, là một khối ung sanh tất cả đều bất tịnh. Nên xét cho cùng, nó không có nghĩa lý lợi ích chi khi ta chấp lấy nó, dù là thân của chư thiên.' Vì thế, hành giả ở trong các oai nghi hoặc khi nằm nghỉ, lúc thức giấc, nên thường quán sát thân nầy chỉ có khổ không chi vui, mà thâm tâm sanh niệm chán lìa. Như thế, dù cho không dứt liền được việc nam nữ, cũng có thể lần lần khởi tâm nhàm chán.

Lại hành giả cũng cần nên quán bảy pháp bất tịnh. Bảy pháp ấy là:

a. Chủng tử bất tịnh: Thân nầy do nơi nghiệp dâm dục, từ hạt giống tham ái mà sanh.

b. Thọ sanh bất tịnh: Mầm sanh khởi của bản thân lại do một điểm tinh huyết cha mẹ hòa hợp trong khi gần gũi.

c. Trụ xứ bất tịnh: Thai thân ở trong tử cung nhơ nhớp, nằm dưới ruột non, trên là ruột già.

d. Thực đạm bất tịnh: Khi còn ở trong thai, huyễn thân lại thọ dụng huyết phần của người mẹ.

e. Sơ sanh bất tịnh: Khi đã đủ tháng ngày, thai thân đầu hướng về sản môn, ra khỏi mình người mẹ cùng một lúc với máu mủ, sự hôi nhơ dẫy đầy.

f. Cử thể bất tịnh: Trong lớp da ngoài che đậy, thân nầy là tất cả sự hôi nhơ của các chất: thịt, xương máu, đàm, đạI, tiểu.

g. Cứu cánh bất tịnh: Đến khi chết rồi, thân nầy là một đống thịt sình thúi rã rời, mặc cho giòi tửa bò lan hoặc quạ diều tha mổ.

Thân của mình đã thế, thân người khác cũng như vậy. Nếu thường quán sát bảy điều ấy, đối với các thân nam nữ mà người đời cho rằng xinh đẹp, cũng sanh niệm yểm ly và lửa ái dục cũng lần lần tiêu giảm. Như thật hành được môn cửu tưởng quán, càng thêm tốt:

- Tưởng thân mới chết.

- Tưởng thây chết đổi sắc bầm xanh tím.

- Tưởng thây chết sình lên dẫy đầy máu mủ và sắp rã.

- Tưởng thây sình bấy nứt rã, nước hôi chảy ra.

- Tưởng thây sình rã, giòi tửa bò lúc nhúc.

- Tưởng thây sình thịt tiêu hết chỉ còn gân và xương.

- Tưởng gân cũng tiêu hoại chỉ còn xương nằm ngổn ngang.

- Tưởng thây bị thiêu chỉ còn bộ xương co rút, hay thây rã chỉ còn những khúc xương thúi.

- Tưởng nắng chan mưa gội, xương hóa thành khô trắng.

Lại nên phát nguyện cầu cho mình vĩnh viễn thoát ly thân nam nữ mê nhiễm, tạp thực, không sạch của ba cõi, mà được thân pháp tánh Tịnh Độ. Trên đây là đại lược về Yểm Ly môn.

Về hạnh hân nguyện, đại khái có hai điều kiện.

1. Phải nhận rõ mục đích cầu sanh: Sở dĩ chúng ta cầu về Tịnh Độ là vì muốn thoát sự khổ cho mình và tất cả chúng sanh. Hành giả phải nghĩ rằng: Sức mình yếu kém, còn bị nghiệp ràng buộc, mà ở cõi đời ác trược nầy cảnh duyên não phiền quá mạnh. Ta cùng chúng sanh bị chìm đắm nơi dòng mê, xoay vần trong sáu nẻo, trải qua trần kiếp từ vô thỉ đến nay, cũng vì lẽ ấy. Bánh xe sống chết quay mãi không ngừng, ta làm thế nào để tìm con đường độ mình độ người một cách yên ổn chắc chắn? Muốn được như thế, duy có cầu sanh Tịnh Độ, gần gũi Phật, Bồ Tát, nhờ cảnh duyên thắng diệu bên cõi ấy tu hành chứng Vô Sanh Nhẫn, mới có thể vào nơi đời ác cứu khổ cho hữu tình. Luận Vãng Sanh đã nói: 'Phát tâm Bồ Đề chính là phát tâm cầu thành Phật, tâm cầu thành Phật là tâm độ chúng sanh, tâm độ chúng sanh là tâm nhiếp chúng sanh sanh về cõi Phật.'

Lại muốn sanh về Tịnh Độ, phải có đủ hai phương diện: xa lìa ba pháp chướng Bồ Đề và y theo ba pháp thuận Bồ Đề. Ba pháp chướng Bồ Đề là thế nào?

Một là tâm cầu sự an vui riêng cho mình, chấp ngã và tham trước bản thân. Hành giả phải y theo trí huệ môn mà xa lìa tâm niệm ấy.

Hai là tâm rời bỏ không chịu cứu vớt chúng sanh khổ. Hành giả phải y theo từ bi môn mà xa lìa tâm niệm ấy.

Ba là tâm chỉ cầu sự cung kính cúng dường, không tìm phương pháp làm cho chúng sanh được lợi ích an vui. Hành giả phải y theo phương tiện môn mà xa lìa tâm niệm ấy. Nếu lìa ba pháp chướng Bồ Đề, thì sẽ được ba pháp thuận Bồ Đề. Xin kể rõ ra đây ba pháp tùy thuận ấy:

Một là Vô Nhiễm Thanh Tịnh tâm, không vì tự thân mà cầu các sự vui. Bởi Bồ Đề là thể trong sạch lìa nhiễm trước, nếu cầu sự vui riêng cho mình tức thân tâm có nhiễm, làm chướng Bồ Đề môn; nên tâm thanh tịnh không nhiễm gọi là tùy thuận Bồ Đề.

Hai là An Thanh Tịnh tâm, vì cứu độ tất cả khổ cho chúng sanh. Bởi Bồ Đề là tâm trong sạch làm cho chúng sanh được an ổn, nếu không cứu độ loài hữu tình khiến họ được lìa sự khổ sanh tử, tức là trái với Bồ Đề môn; nên tâm cứu khổ đem lại an ổn cho chúng sanh gọi là tùy thuận Bồ Đề.

Ba là Lạc Thanh Tịnh tâm, muốn khiến cho chúng sanh được Đại Niết Bàn. Bởi Đại Niết Bàn là chỗ cứu cánh thường vui, nếu không khiến cho loài hữu tình được niềm vui cứu cánh tức là ngăn che Bồ Đề môn; nên tâm muốn cho chúng sanh được hưởng cảnh thường lạc gọi là tùy thuận Bồ Đề.

Làm thế nào để thành tựu sự xa lìa và tùy thuận trên đây? Ấy là phải cầu sanh Tịnh Độ để được thường gần Phật, tu hành cho đến khi chứng Vô Sanh Nhẫn. Chừng đó mặc ý cỡi thuyền đại nguyện vào biển luân hồi, vận tâm bi trí cứu vớt chúng sanh, tùy duyên mà bất biến, không còn chi trở ngại nữa. Tất cả mấy điểm trên đây là thuyết minh về mục đích cầu sanh.

2. Nên quán tưởng y chánh cõi Cực Lạc: Hành giả nên quán tưởng báo thân của Phật A Di Đà sắc vàng rực rỡ, có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có tám muôn bốn ngàn tia sáng, soi khắp pháp giới, nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật. Lại nên quán cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm như các kinh Tịnh Độ đã nói. Ngoài ra, người niệm Phật khi bố thí, trì giới, cùng làm tất cả hạnh lành, đều phải hồi hướng cầu cho mình và chúng sanh đồng sanh Cực Lạc.

Nếu thật hành hai điều trên, hành giả sẽ phát tâm khát ngưỡng Tây Phương, quyết định sẽ được vãng sanh. Và đây là Hân Nguyện Môn.

 

Chú thích chương II.

 

[1]: Bốn loại sáu đường gồm:

Bốn loại hữu tình do bốn sự sinh khác nhau: hóa sịnh thai sinh, noãn sinh và thấp sinh. Sáu đường chỉ lục đạo luân hồi.

 

[2]: Gồm có các nghĩa:

1) Bảo hộ ức niệm (khiến cái ác bên ngoài không xâm phạm thì gọi là hộ, khiến điều thiện ở bên trong được nẩy nở thì gọi là niệm)

2) Hộ niệm là phương thức tụng niệm của những người tu theo Tịnh Độ, giúp cho người quá vãng được vãng sanh Tịnh Độ. Thành viên trong gia đình người sắp chết cũng như bà con phải luôn bình tĩnh, buồn nhưng không khóc, từ lúc người ấy trở bịnh nặng cho đến lúc lâm chung. Chúng ta phải luôn nhớ rằng đây là giai đoạn của thân trung ấm, giai đoạn chuyển tiếp quan trọng nhứt trong kiếp chúng sanh. Đây là giai đoạn mà người lâm chung đang đứng trước ngã rẽ giữa quỷ, người, phàm Thánh. Trong giai đoạn nầy điều quan trọng nhất nên làm là cùng nhau hộ niệm. Dù cho người ấy đã có ý hướng sanh về cõi nào, có thể là cõi thiện; tuy nhiên, sự than khóc của người thân làm khơi dậy niệm luyến ái trong người ấy, do vậy người ấy có thể rơi trở về vòng sanh tử, uổng phí một đời tu.

 

[3]:  từ gọi tắt của Tứ Niệm Xứ Quán, còn được gọi là Tứ Niệm Chỉ, Tứ Niệm Trú, Tứ Ý Chỉ, là bốn loại đầu tiên trong 37 phẩm trợ đạo mà Phật Giáo Tiểu Thừa có đề cập đến. Đây là bốn loại phương pháp nhằm để tập trung tâm vào một điểm, đề phòng tạp niệm vọng tưởng và đạt được chân lý. Tứ Niệm Xứ gồm có:
(1) Thân Niệm Xứ: quán thân thể là bất tịnh.
(2). Thọ Niệm Xứ: quán sự thích ghét của các tác dụng thọ cảm, hết thảy đều là khổ.
(3). Tâm Niệm Xứ: quán tâm là sinh diệt, vô thường.
(4). Pháp Niệm Xứ: quán hết thảy các pháp là vô ngã

 

[4]: Nhẫn đạt được qua hiểu biết rằng tất cả mọi hiện tượng đều không sanh. Sự hiểu biết về tánh không và vô sanh của chư Bồ Tát, những vị đã đạt được Bát Địa hay Bất Thối Địa.

"Vô sanh nhẫn": Lòng đã an trụ nơi lý vô sanh vô diệt, tâm yên tịnh không diêu động với nghịch cảnh, từ sơ địa Bồ Tát cho đến bậc Phật, đều chẳng còn sanh ác tâm mà sơ địa mới chứng cái danh vô sanh nhẫn, Bát địa chứng ngộ thể vô sanh nhẫn. Tỏ được cái Chơn Như Thật Tướng, gọi là đắc pháp vô sanh. Tỏ được cái chơn trí vô lậu, gọi là nhẫn, vì khi đã đắc được cái trí ấy, tâm mới nhẫn khả được tất cả hoàn cảnh mà được tự tại vô ngại, nên gọi là vô sanh nhẫn..nguoiphattu.com


[5]: từ gọi tắt của Thường Tịch Quang Độ, là cõi Tịnh Độ nơi pháp thân của chư Phật Như Lai an trú, một trong 4 quốc độ của giáo thuyết Thiên Thai Tông, còn gọi là Tịch Quang Tịnh Độ, Tịch Quang Quốc, Tịch Quang Độ, Tịch Quang.

Thế giới an trú của chư Phật là bản tánh chân như, không biến hóa, sanh diệt (tức thường), không bị phiền não nhiễu loạn (tức tịch) và có ánh sáng trí tuệ (tức quang), cho nên có tên gọi là Thường Tịch Quang Độ. Đây là quốc độ chư Phật tự chứng bí tạng tối cùng cực, lấy pháp thân, giải thoát và bát nhã làm thể, đầy đủ 4 đức Thường, Lạc, Ngã và Tịnh. Trong Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh có đoạn rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật danh Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ, kỳ Phật trú xứ danh Thường Tịch Quang, Thường Ba La Mật sở nhiếp thành xứ, Ngã Ba La Mật sở an lập xứ, Tịch Ba La Mật diệt hữu tướng xứ, Lạc Ba La Mật bất trú thân tâm tướng xứ (nghĩa là: đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật có tên là Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ [Tỳ Lô Giá Na Biến Hết Thảy Các Nơi], trú xứ của Phật ấy tên là Thường Tịch Quang, nghĩa là nơi được nhiếp thành của Thường Ba La Mật, nơi được an lập của Ngã Ba La Mật, nơi diệt hết các tướng có của Tịch Ba La Mật và nơi không trú vào tướng thân tâm của Lạc Ba La Mật)”. Hơn nữa, quốc độ này được phân thành Phần Chứng và Cứu Cánh với 3 phẩm thượng, trung, hạ. Theo lời dạy trong quyển 1 của Duy Ma Kinh Lược Sớ cho biết rằng cõi của Diệu Giác Pháp Thân  cư trú là Thượng Phẩm Tịch Quang Độ, cõi của Nhất Sanh Đẳng Giác  là Trung Phẩm Tịch Quang Độ, cõi của Viên Giáo từ sơ trú trở lên là Hạ Phẩm Tịch Quang Độ.

Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải của Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) nhà Thanh có đoạn rằng: “Lại nữa, chỉ lấy nguyện này trang nghiêm một tiếng niệm A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược thành Hải Hội Thanh Tịnh, chuyển Kiến Trược thành Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hoa sen hóa sanh, chuyển Mạng Trược thành Vô Lượng Thọ; cho nên một tiếng niệm A Di Đà Phật là pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề do đức Bổn Sư Thích Ca chứng đắc ở đời ác có Năm Trược).” Hay như trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận quyển 6, phần Cảnh Tâm Cư Sĩ Trì Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Kiêm Khuyến Nhân Tự  có câu: “Nhất niệm mê Thường Tịch Quang Độ tiện thành A Tỳ Địa Ngục, nhất niệm ngộ A Tỳ Địa Ngục tiện thị Thường Tịch Quang Độ ( một niệm mê bèn thành Địa Ngục A Tỳ, một niệm ngộ tức là Thường Tịch Quang Độ).”


[6]: Chủng tử Phật hay Bồ Tát, được ví như hạt giống nếu đem gieo vào tâm thức con người, sẽ nẩy mầm Phật hay giác ngộ.

[7]: vị vua có phước đức và sức mạnh khuất phục được tất cả các vua khác, cũng gọi là Chuyển luân thánh vương, vì khi vị vua này ra đời thì tự nhiên xuất hiện các báu vật để vua sử dụng, giúp vua chinh phạt mọi nơi trong thiên hạ.

[8]: Hữu lậu: đối nghĩa với Vô Lậu.

Lậu nghĩa là chảy mất, rỉ rỏ ra, là tên gọi khác của phiền não.

Con người do vì sai lầm, khổ quả vốn sanh ra từ phiền não, khiến cho họ cử trôi lăn mãi trong thế giới mê lầm, không bao giờ dừng nghỉ, khó có thể thoát ra biển sanh tử; nên goi là Hữu Lậu. Nếu đạt đến cảnh giới đoạn diệt phiền não, được gọi là Vô Lậu. Trong Tứ Thánh Đế , Khổ Đế và Tập Đế thuộc về nhân và quả của mê lầm, là pháp Hữu Lậu; Diệt Đế và Đạo Đế là nhân và quả của giác ngộ, thuộc về pháp Vô Lậu. Các pháp Hữu Lậu cũng như Vô Lậu vốn ở trong nhân, quả tu hành, có vị trí vô cùng quan trọng.

Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh có đoạn: “Khi tư duy về Thất Giác Chi, tâm Hữu Lậu diệt tận, bèn được giải thoát, sau chứng được đạo vô thượng chánh chân).” Hay trong Du Già Sư Địa Luận Thích lại có đoạn: “Khởi các phiền não, sinh nghiệp Hữu Lậu, luân hồi Năm Đường, chịu ba khổ lớn.”

[9]: Nhất sanh bổ xứ: Là vị chỉ còn sanh một lần nữa là được lên ngôi Phật, thường chỉ áp dụng cho Bồ Tát. Tất cả các vị vãng sanh Tịnh Độ, người nào cũng quyết thực là nhất sanh bổ xứ, trong số đó có vô số “Thượng Thiện Nhân”.

[10]:  Đâu suất, Phạm: Tuṣita, Pàli: Tusita, Tạng: Dgaḥ-ldan. Cũng gọi Đô suất thiên, Đâu thuật thiên, Đâu suất đà thiên, Đâu suất đa thiên, Đâu sư đà thiên, Đổ sử đa thiên, Đâu sử đa thiên. Hán dịch: Tri túc thiên, Diệu túc thiên, Hỉ túc thiên, Hỉ lạc thiên. Hợp chung với Dạ ma thiên gọi là Đâu dạ.

Là cõi trời thứ 4 trong sáu tầng trời cõi Dục, rộng 8 vạn do tuần, nằm ở khoảng giữa trời Dạ ma và trời Lạc biến hóa, cách trời Dạ ma 16 vạn do tuần. Về tên gọi của cõi trời này, cứ theo luận Lập thế a tì đàm quyển 6, thì chư Thiên ở cõi trời này rất vui sướng, đầy đủ mọi nhu cầu, tinh tiến tu tập Bát chính đạo, nên gọi là Đâu suất đà thiên. Thập địa kinh luận quyển 5 thì nói, hậu thân của Bồ tát giáo hóa cõi trời này, phần đông tu Hỉ túc, cho nên gọi là Hỉ túc thiên (cõi trời đầy đủ sự vui sướng). Cõi trời này có hai viện: 1. Đâu suất nội viện: Nơi ở của Bồ tát sắp thành Phật (Bồ tát Bổ xứ), nay là Tịnh độ của bồ tát Di lặc. Ngài Di lặc hiện là Bồ tát Bổ xứ, đang thuyết pháp ở cõi trời này, khi đủ 4 nghìn năm sẽ sinh xuống cõi người và thành Phật dưới gốc cây Long hoa. Đức Phật Thích ca trước khi giáng sinh xuốngnhân gian, cũng là một vị Bồ tát ở cõi trời này. Truyền thuyết phổ thông cho rằng Nội viện có 49 viện. Truyền thuyết này có lẽ đã căn cứ vào đoạn văn trong kinh Di lặc thướng sinh (Đại 14, 419 thượng): ... Ánh sáng của ngọc Ma ni này xoay tròn trong hư không hóa làm 49 lớp cung điện vi diệu mà ra. 2. Đâu suất ngoại viện: Viện này thuộc cõi Dục, là chỗ ở của Thiên chúng, hưởng thụ nhiều dục lạc. Chư thiên ở cõi trời này sống lâu khoảng 4nghìn năm, một ngày một đêm ở đây bằng 400 năm ở nhân gian. Ngoài ra, chúng sinh ở cõi trời này, khi dục tình phát động thì chỉ cần nắm tay nhau là có thai, trẻ sơ sinh ở cõi trời này bằng đứa bé 8 tuổi ở nhân gian, 7 ngày thành người, thân cao bốn do tuần, nặng một lạng rưỡi. Ngoài ra, trong Mật giáo, vị Đâu suất thiên này được đặt ở phía tây bắc của viện Kim cương bộ ngoài trên Hiện đồ mạn đồ la Thai tạng giới. Hình tượng vị này thân mầu trắng, tay phải co lại để ở dưới ngực, 3 ngón giữa co lại, ngón út duỗi thẳng, cầm hoa sen búp; tay trái nắm lại (bắt Quyền ấn) chống vào cạnh sườn. Hai bên có thị nữ, thân cũng mầu trắng, tay phải đều cầm hoa sen búp. Chủng tử là (taô), hình tam muội da là hoa sen búp trên lá sen. [X. kinh Phổ diệu Q.1; Tuệ uyển âm nghĩa Q.thượng].

[11]: Pháp thân Phật: tên gọi một trong 3 thân của Phật, gồm Pháp Thân, Báo Thân  và Ứng Thân. Với ý nghĩa là thân thể của chân lý (pháp), Pháp Thân là đương thể chân lý vĩnh viễn bất biến, là đức Phật lý tánh không sắc không hình, đem lại ý nghĩa mang tính nhân cách cho lý thể của chân như, còn được gọi là Pháp Thân Phật, Pháp Tánh Thân, Tự Tánh Thân, Như Như Phật, Như Như Thân, Đệ Nhất Thân, v.v. Đây là nhân cách hóa Phật tánh, tượng trưng cho Phật pháp tuyệt đối, chân lý không nơi đâu mà không hiện hữu, bao hàm khắp tất cả mọi nơi. Đức Phật là đấng giác ngộ, nên Pháp Thân là Giác Tánh (tánh giác ngộ), Báo Thân là Giác Tướng (tướng giác ngộ) và Ứng Thân là Giác Dụng (sự diệu dụng của giác ngộ).

Trong sách Di Dà yếu giải, đại sư Ngẫu Ích có viết: "Pháp Thân kép gồm Tự tánh Thanh tịnh Pháp Thân và Ly Cấu Diệu cực Pháp thân."

Như vậy có thể hiểu Tự tánh Thanh tịnh Pháp Thân là Tự tánh Di Đà và Ly Cấu Diệu cực Pháp thân là cõi Tây Phương Cực lạc. Vì Pháp thân kép chẳng lìa nhau nên Tự tánh Di Đà cũng chẳng lìa cõi Tây Phương Tịnh độ. Nên cũng chẳng thể có chuyện người tu chỉ cần nhận lấy Tự tánh Di Đà mà chẳng cầu sanh Tịnh Độ được.

 

Hơn nữa, Cưu Ma La Thập ( 344-413) có lập ra Tam Pháp Thân ( ba loại Pháp Thân), gồm Pháp Hóa Sanh Thân, Ngũ Phần Pháp Thân và Thật Tướng Pháp Thân. Pháp Hóa Sanh Thân là hóa thân Phật do pháp tánh hóa hiện; Ngũ Phần Pháp Thân là thân thể có 5 phần công đức như Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến. Thật Tướng Pháp Thân là thật tướng của các pháp vốn có tánh Không. Bên cạnh đó, cũng có Tam Pháp Thân do Thiên Thai Tông lập ra, gồm Không Pháp Thân ( Pháp Thân của Tiểu Thừa), Tức Giả Pháp Thân ( Pháp Thân của Đại Thừa Biệt Giáo) và Tức Trung Pháp Thân ( Pháp Thân của Đại Thừa Viên Giáo). Như trong Niệm Phật Khởi Duyên Di Đà Quán Kệ Trực Giải có giải thích về Pháp Thân rằng: “ Pháp Thân tức là thể của Như Lai Tạng Đại Niết Bàn, tâm sanh diệt mà diệt, thì tâm chơn như hiển hiện, tức gọi là Pháp Thân; thân này không quốc độ nào có thể đến, không quốc độ nào có thể đi, vốn là thân của Pháp Giới, biến khắp tất cả.”

[12]: Ba cõi tam thiên gồm 2 ý:

-Ba cõi: tức là cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

-Tam thiên: Một cõi đại thiên thế giới do một vị Phật xuất thế giáo hóa. Cứ một ngàn thế giới (có thuyết cho rằng một thế giới là một Thái Dương hệ) hợp thành một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới hợp thành một trung thiên thế giới, lại một ngàn trung thiên thế giới hợp thành một đại thiên thế giới. Vì tính lên đến ba lần một ngàn nên người ta quen gọi là tam thiên, nhưng thực ra về số lượng thì chỉ là một đại thiên thế giới, gồm 1.000.000.000 thế giới. Cách dịch cũ trước đây là “ba ngàn đại thiên thế giới” xem ra không được chính xác lắm.

Trong kinh Phật, một thế giới bao gồm có núi Tu Di ở chính giữa, bốn phía Đông Tây Nam Bắc mỗi phía đều có một châu tên gọi: Nam Thiệm Bộ Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Câu Lô Châu; cùng được một mặt trời, mặt trăng chiếu và rặng núi Thiết Vi bao quanh.

Như vậy ở đây Mặt Trời không phải là trung tâm, nên có thuyết cho rằng núi Tu Di là một "Lỗ đen", tuy nói là lỗ nhưng ở đó vật chất tích tụ dầy đặc khoa học chưa khám phá đến được.

 

Chương 3. Tây Phương yếu quyết của Khuy Cơ Đại sư.
 

Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả. Người đích thân gặp được Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ Ba thừa[1], còn kẻ nhân sơ phước bạc thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn Tịnh độ ấy là chuyên niệm A-Di-Đà, đồng thời đem tất cả thiện căn hồi hướng nguyện sinh. Bởi vì bản nguyện của đức A-Di-Đà là thệ độ cõi Sa-bà, nên hoặc niệm suốt cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sinh Tịnh Độ.

Người học ngày nay, thường mang nhiều nghi vấn, vì văn từ trong kinh luận mâu thuẫn nhau. Nếu không dung thông thì mối nghi ấy không bao giờ dứt. Nay tôi (Khuy Cơ Đại sư) lược nêu ra mười bốn trường hợp để giải quyết những mối nghi ấy. Mong rằng những bậc tài cao học rộng tham cứu nơi đây mà hiểu được!

Phần I

Kinh ghi: “Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh cầu ta thì người đó hành theo tà đạo, không thể thấy Đức Như Lai”.

Nghi vấn thứ 20: Kinh Kim Cang nói dùng hình sắc và âm thanh cầu Phật là tà đạo. Vậy, các kinh A-Di-Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v…chỉ dạy quán thân tướng Phật và niệm danh hiệu Phật. Như thế, không lìa âm thanh và sắc tướng mà cầu Phật, tại sao không rơi vào tà đạo? Nếu quay về đường chánh thì Tịnh Độ là nơi đáng nương tựa nhất mà kinh lại cho là tà đạo, dẫu có muốn thực hành cũng sợ rơi vào cảnh giới ma. Hai đường chánh - tà khó quyết, đúng sai xin được giải bày?

Đáp: Đức Đại Sư thuyết giáo có rất nhiều môn, mỗi môn đều xứng hợp với thời và cơ, nhưng bình đẳng không sai khác. Những điều được dạy trong kinh Kim Cang Bát-Nhã riêng thành một môn, những nghĩa trong kinh A-Di-Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v…lại là một lý. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều có ba thân. Pháp Thân vốn không hình thể, chẳng phải âm thanh, sắc tướng. Nếu dùng âm thanh và sắc tướng để nắm bắt thì đó là tà đạo. Vì rằng, hàng Nhị Thừa và tiểu Bồ-tát nghe nói ba thân không khác, liền cho là đều có âm thanh và sắc tướng. Chỉ thấy sắc tướng của Hóa Thân bèn chấp Pháp Thân cũng như vậy, nên mới ở nơi tướng Hóa Thân mà cầu thấy Pháp Thân. Bởi vì lý vi diệu mầu nhiệm, vĩnh viễn bặt dứt âm thanh và sắc tướng, lại dùng âm thanh và sắc tướng để cầu thấy, cho nên nói tà đạo.

Các kinh A-Di-Đà và Quán Vô Lượng Thọ v.v…khuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo[2]cầu sinh về Tịnh Độ, chỉ vì phàm phu nghiệp chướng nặng nề mà Pháp Thân sâu kín, Pháp thể khó duyên. Hơn nữa, dạy môn Niệm Phật, quán tướng, lễ tán là để đoạn trừ nghiệp chướng, phát sinh phước thiện, nguyện hạnh giúp cho nhau, cầu sinh Tịnh Độ, mong gặp Hóa Phật để làm duyên lành bất thoái. Cho nên, những bậc tiền bối thông đạt đều nương vào giáo môn này, quán tướng hảo, niệm danh hiệu cầu thấy Hóa Thân Phật, mong rằng đến khi lâm chung được đích thân Ngài đến tiếp dẫn, cảm đến đức hóa chủ A-Di-Đà, rủ lòng thương đến đón rước, nghiệp báo dứt sạch, ngồi trên hoa sen, liền sinh về nước ấy. Kinh trước nói về tâm, kinh sau nói cảnh, lý khế hợp không trái nhau. Vậy niệm danh hiệu, quán thân tướng đều không phải tà đạo. Lẽ nào cứ chấp chặt một pháp, không thấu tỏ ý Phật, tạo ra dị thuyết rối ren, khiến người khác phải nghi ngờ. Xét rõ ngọn nguồn ấy thì đủ phân biệt được đúng - sai, không còn do dự. Hãy chuyên tâm nơi Tịnh nghiệp, chớ sinh loạn tưởng, lại đọa ba đường, khổ đau hành hạ, ăn năn làm sao kịp nữa!

Lạm bàn: Kinh Lăng Ngiêm, đức Thế Tôn dạy: Không phát Bồ đề tâm, dẫu tu các hạnh lành vẫn là ma nghiệp.

Vậy nên, nếu chẳng phát Bồ đề tâm mà dùng âm thanh. sắc tướng cầu Như Lại thì quả thật đó là Ma nghiệp.

Ngay đến như trong hội Thủ Lăng Nghiêm, Ngài Đại Thế Chí Bồ tát tu phép Niệm Phật tam muội, viên thông Kiến đại, nhiếp thu cả sáu căn về Diệu chân như tính, tịnh niệm nối tiếp, nhớ Phật tưởng Phật như con nhớ mẹ thì nhất định thấy Phật cách Phật không xa, không cần phương tiện gì mà tâm được viên thông.

Ngài Văn thù Sư Lợi chỉ ra nhược điểm như sau:

“Tất cả các hành đều vô thường

Tưởng niệm vốn trong vòng sinh diệt

Nhân và quả khác nhau như thế

Thì làm sao được tính viên thông?”

Vì sao? Vì nhân là dùng sắc tướng cầu Phật mà muốn đạt quả là Qủa vô thượng Bồ đề, vô tướng vô sắc nên chẳng được dung thông.

Đó là vì pháp môn Niệm Phật nhiếp trọn 6 căn, tịnh niệm tương tục của đức Đại Thế Chí thuộc về phép Quán tưởng Niệm Phật vậy, lại còn chẳng có Tha lực là Đại nguyện của Phật A Di Đà; chẳng phải là pháp Trì danh ngày nay.

Tại sao nói như vậy? Vì ngài Đại Thế Chí tu pháp này hằng sa số kiếp về trước nơi đức Phật Vô Lượng Quang, chuyên niệm tưởng Phật như con nhớ mẹ, khắc sâu vào tâm niệm như hình với bóng mãi chẳng quên. Đó thuộc về phép Quán tưởng. Do vậy, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm thì phép tu Niệm Phật của Bồ tát Đại Thế Chí thuộc về viên thông Kiến Đại.

Hơn nữa, đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay mới được mười đại kiếp hình thành nên thế giới Tây Phương Cực Lạc, khi đó pháp Trì danh đới nghiệp vãng sinh mới được hoàn thành trọn vẹn vậy.

Cho nên nếu câu nghi vấn này được nêu ra trước khi cõi Tây Phương của Đức Đại đạo sư A Di Đà Phật được hình thành thì đúng; nhưng khi cõi Tây Phương đã được đức Từ Tôn lập nên bởi 48 đại nguyện cách đây 10 kiếp thì không còn đúng nữa. Vì sao vậy?

Vì do đức Từ Tôn Di Đà lập nguyện trải thân Phật thành cõi nước, khi đó chẳng những ba thân Phật không sai khác mà cõi nước Tây Phương cũng lại chính là Ly cấu Diệu Cực Pháp thân Phật Di Đà. Nên chính nguyện vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc để thấy Hóa thân mà thành ra lại nhập được vào Pháp Thân Phật.

Vì thế Tổ Ngẫu Ích cũng dạy rất hay: Phát nguyện vãng sinh cũng chính là Phát Vô thượng Bồ Đề tâm vậy. Xin chẳng nên nghi ngờ.

 

Phần 2

Kinh Phật Tạng ghi: “Nếu Tỳ-kheo nào thấy có Phật, Pháp, Tăng và Giới để thọ trì thì người đó là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của ta, ta cũng không phải thầy và cũng không tiếp nhận người đó”.

Nghi vấn thứ 21: Theo kinh Phật Tạng, ngoài tâm thấy Phật đều cho là ma, Phật không phải thầy họ và nói họ chẳng phải đệ tử của Phật. Như thế, pháp môn Tịnh Độ dạy người chuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo Phật, cầu sinh Phật quốc, vậy người ấy chẳng phải đệ tử Phật, Phật không phải thầy của người ấy, làm sao được Phật hộ niệm để sinh về cõi Tịnh? Xét hai pháp môn ấy đều là lời Phật dạy, nhưng lại khác nhau, vậy nên định đoạt thế nào?

Lạm bàn: Trong phần trên, ở nghi vấn thứ 20, đã có nói do cõi Tây Phương thù thắng, ba thân Phật: Hóa thân, Báo Thân, Pháp thân chẳng sai khác; Pháp thân như mặt trăng, Báo thân là ánh trăng còn Hóa thân là ánh trăng in bóng nước; ba thứ chẳng mảy may tách rời. Chẳng thể có bóng trăng đáy sông mà không có mặt trăng trên trời cao; cũng chẳng thể nào có trăng trên cao mà ánh sáng dịu dàng không lan tỏa mặt đất... Vì thế danh hiệu Phật, tướng hảo Phật, kể cả Phật quốc Tây Phương không đâu chẳng phải là Pháp Thân Phật, cũng chẳng ở ngoài tâm.

Nếu ngoài tâm thấy Phật thì tự do người đó thấy như vậy thôi, chẳng do lỗi ở Phật vậy, chẳng phải do lỗi của pháp môn Tịnh độ nhiệm mầu này. Xin hãy bình tâm xét kỹ.

Đáp: Giáo môn có muôn ngàn sai biệt, nhưng cùng trở về một thể chân thật, tùy theo căn cơ mà lập nghĩa, nên ngôn giáo có sai biệt. Nghiên cứu kỹ hai kinh, văn tuy khác nhau, nhưng lý cùng một thể. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng và Giới có ba ý nghĩa:

- Chân đế.

- Biệt tướng.

- Trụ trì.

1. Chân Đế: Thể chân như thanh tịnh, bặt dứt phiền não chướng và sở tri chướng[3], Bản Giác sáng ngời đó là Chân Phật. Giữ gìn thể tánh không biến đổi, chư Phật từ đây mà thành tựu, bậc Đại sĩ đồng nương gá, muôn hạnh nhân đây mà hiển bày, đó chính là Chân Pháp. Thầm thể hội muôn pháp, dứt bặt ngôn từ, hý luận, đó chính là Chân Tăng. Tánh thanh tịnh trang nghiêm, thể tinh khiết vô cấu đó chính là Chân Giới. Căn cứ vào những nghĩa thù thắng này, cho nên nói là Chân Đế, đó cũng là điều mà kinh Niết-Bàn ghi: “Quán Tam Bảo thường trụ đồng với Chân Đế, chính là thệ nguyện tối thượng của chư Phật”.

2. Biệt tướng: Phật có ba thân: Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân [4]. Pháp có bốn loại là Giáo, Lý, Hạnh và Quả. Tăng có hai loại là hữu vi và vô vi. Giới là tất cả các giới phẩm Chỉ Trì và Tác Trì[5] mà người xuất gia và tại gia phải thực hành. Nhưng tu Biệt tướng là để cầu chứng ChânĐế, hàng Khởi Hạnh[6] vừa biết Biệt tướng lại cho là cứu cánh nên không ngộ được nguồn chân. Còn hàng Học Giới[7] thì cho tất cả đều là trợ đạo. Danh tướng Phật ứng hiện chẳng phải chân thật, nhưng để tiếp độ hàng phàm phu mà phương tiện lập ra hóa thành[8]. Kẻ thấp kém không hiểu được mới chấp là chân thật, nên bị Đức Phật quở trách, cho là quyến thuộc của ma. Là Phật tử cần phải đạt được Hai Không[9], xa thì hợp chân như, gần thì đúng với bổn nguyện, nếu cứ chấp chặt mãi danh tướng mà không ngộ được chân không thì lại rơi vào chốn ma, xa Phật trái Pháp. Muốn vượt Ấm Ma[10] phải nhờ Pháp Thân thường trụ; trừ Phiền Não Chướng cần nương vào Định hư không; ra khỏi cõi Thiên ma nên nhờ sức định Từ; cầu vượt Tử ma phải khéo nương vào định Thần Túc. Xem khắp bốn phương, chẳng phải Đại Thánh thì không ai có thể làm được, chinh phục Bốn Ma[11] đâu phải khả năng của kẻ phàm phu. Nếu không để tâm vào chí đạo, thì biết lấy gì để dứt trừ lưới ái. Còn buộc niệm hướng về Chân thì ngăn dứt các nẻo trong đường sinh tử.

Thế nên, đức Phật chỉ dạy hàng phàm phu hãy nên học quán môn Tịnh Độ. Nếu nghĩ đến Tây Phương thì phải cầu sự bất thoái, được sinh cõi Tịnh, thấy Hóa Thân Phật, đức Hóa Chủ dẫn dắt, đạt Vô Sinh Nhẫn[12], tỏ ngộ pháp giới bình đẳng. Nương vào thần lực ấy phá các lưới ma, gần thì vượt khỏi ba cõi, xa thì được chứng đắc Bồ-đề. Nếu không như thế lại chìm trong đường ác, thọ khổ dài lâu, không bao giờ giải thoát. Hiểu rõ hai nguyên nhân này hoàn toàn không khác nhau, chớ chấp một bên nào để sinh tâm nghi ngờ. Thuận pháp môn cơ bản này mà quán tưởng cõi kia, lìa hẳn Sa-bà, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi; suy nghiệm pháp môn này rồi theo đó tu hàng, quán nhân duyên cạn sâu, tự có lợi ích. Rõ ràng do niệm mà khế hợp với bản nguyện, nào có sai khác!

Phần 3

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Tu tập trong cõi này (tức cõi Sa-bàmột ngày một đêm hơn hẳn cõi Phật khác trăm năm”. Kinh Duy-Ma ghi: “Quốc độ Sa-bà có mười việc thiện[13] mà cõi Phật khác không có, đó là bố thí nhiếp phục sự nghèo khó…”.

Nghi vấn thứ 22: Theo kinh này dạy, tu tập ở cõi Sa-bà hơn hẳn ở các phương khác. Vậy tại sao phải nhọc sức chuyên niệm A-Di-Đà, nguyện sinh về nước Cực Lạc, bỏ chỗ tốt tìm đến chỗ kém, hành nghiệp khó thành tựu. Hai con đường ấy, lấy bỏ thế nào, xin được giải bày chi tiết?

Lạm bàn: Xin trả lời tóm lược ở hai ý:

Thứ nhất, Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Tu tập trong cõi này (tức cõi Sa-bàmột ngày một đêm hơnhẳn cõi Phật khác trăm năm” là nói đối với những người đã tín căn vững vàng mà tu tập ở trong điều kiện người đó còn sống.

Cõi Ta bà vốn là cõi uế độ, tam độc lừng lẫy, tà kiến trùng trùng gặp Phật gặp Pháp còn khó hơn hoa Ưu Đàm vạn năm nở một lần, nói chi đến hai chữ "Tu tập".

Như vậy nói đến người thật tâm tu hành đã rất hiếm có rồi. Huống chi nến nói ở cõi này tu tập mà vượt thoát tam giới triệu triệu người chưa được một.

Vì sao? Vì muốn vượt thoát tam giới phải đoạn được Kiến hoặc, Tư hoặc; tiêu trừ được tội nghiệp tích trữ từ vô thỉ kiếp. Dẫu là người tinh tấn tu hành chẳng chút lười mỏi, ngay lúc sinh ra đã phát tâm tu hành chẳng trễ nải, dù có tuổi thọ trăm năm thì tội lỗi được tiêu trừ giống như đất trên móng tay, tội lỗi tích tụ vẫn còn như đất miền đại địa.

Cứ theo như kinh nói, một ngày tu cõi Ta bà bằng 100 năm cõi Phật khác thì dù có tu hành cả trăm năm nơi đây cũng chỉ bằng vài ba triệu năm cõi Phật khác. Mà cõi Tây Phương của Phật Di Đà tuổi thọ vô lượng, như vậy tu hành nơi này sao có thể so sánh được với cõi Cực Lạc.

Kinh nói như thế là để khuyến khích chúng sinh cõi này biết quý trọng thời gian, hiểu được lẽ vô thường mau chóng mà phát tâm tu hành tinh tấn mà thôi.

Thứ hai, hiểu theo phương diện khác thì đó là nói đối với cõi Phật có khái niệm thời gian, còn cõi Tây Phương thật ra chẳng hề có khái niệm thời gian.

Vì sao vậy? Ở cõi Ta bà này, khái niệm thời gian được hình thành do Trái Đất tự quay một vòng quanh chính nó thì được tính là một ngày; quay một vòng quanh Mặt Trời thì được tính là một năm. Đó là do chuyển động của các tinh cầu mà hình thành nên khái niệm thời gian. Chứ cõi Tây Phương Cực Lạc được hình thành do nguyện lực của Phật Di Đà rộng lớn vô lượng vô biên, ánh sáng chẳng do Mặt Trời, Mặt Trăng mà thuần do ánh sáng Chân tánh từ Thân Phật Di Đà chiếu rọi.

Cũng vì lý do đó nên đã vãng sinh Cực Lạc, do ánh sáng Phật Di Đà chiếu đến thân nên nghiệp chướng tự tiêu, lại chẳng thể có duyên thối đạo.

Nếu hiểu được như thế thì cõi cực Lạc và Ta Bà hơn kém thế nào tự chính mình rõ. Chỉ sợ vì đã quen kham nhẫn cõi Ta Bà vô lượng kiếp, sợi dây ái nhiễm sâu nặng, dù biết như vậy mà tự mình lừa dối mình chẳng chịu rút chân ra khỏi cõi Uế trược này mà cầu sinh cõi Tịnh độ mà thôi. Đáng tiếc thay!

Đáp: Những pháp môn của Đức Phật đều vì lợi ích chúng sinh, mỗi mỗi tùy thuận một đường, nhưng lý không trái nhau. Vì sao? Căn cơ tu hành có hai giai vị. Nếu chưa bước lên ngôi vị Bất Thoái thì khó ở cõi uế, muốn tu tập hạnh tự lợi thì phần nhiều bị lui sụt, gặp việc thuận nghịch lại sinh tâm vui buồn, khởi lòng yêu ghét thì nghiệp ác càng thêm, không có cách gì làm an ổn cho chính mình, ngược lại chìm vào đường ác. Kẻ đã tu nhân nhiều kiếp, thành tựu Pháp Nhẫn[14], đủ sức ở trong cõi uế, mới có thể lợi ích cho hữu tình. Đã thành tựu hạnh tự lợi, thoát khỏi luân hồi, ở cõi này thực hành mười việc lợi tha, thì phương khác không bằng. Bởi vì cõi Phật khác, y báo tốt đẹp, đầy đủ không thiếu, muốn gì cũng đều được; đã không thiếu thốn thì còn bố thí cho ai! Còn chín việc khác căn cứ theo đây thì rõ. Còn nên tự biết không lui sụt, thì trụ nơi này đã không ngăn ngại lại còn làm lợi ích cho người hơn hẳn cõi Phật khác. Những người học ngày nay, cách Phật quá xa, ba độc lừng lẫy, chưa được tự tại, nếu được sinh cõi Tịnh, nhờ thắng duyên, nương oai lực Phật, mới được bất thoái. Cho nên cần phải sinh về nước kia, thành tựu nhân tự lợi.

Căn cứ theo đây thì hai kinh ấy có gì trái nhau!

Phần 4

Kinh Di-Lặc Vấn ghi: “Niệm Phật thì chẳng phải niệm phàm phu, không xen niệm Kết Sử, mới được sinh về cõi A-Di-Đà”.

Nghi vấn thứ 23: Theo kinh này dạy, hễ niệm Phật thì chẳng có niệm phàm phu, chẳng xen niệm Kết Sử mới thành tựu Tịnh nghiệp. Ngày nay, người tu tập vẫn còn là phàm phu, Kết Sử chưa trừ thì làm sao vãng sinh được? Nay Ngài niệm Phật, công phu thành tựu, lưới nghi đã dứt, vậy xin giải bày tường tận?

Lạm bàn: Kinh Niệm Phật Ba la mật, đức Từ tôn dạy rằng:

"Các đức Như-Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những bậc Thánh giả, hiền nhân - mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng.

Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là phápNIỆM PHẬT."

Nay khởi nghi như vậy chẳng phải nghi lời Phật dạy hư dối hay sao?

Hơn nữa nếu cho rằng tự lực tu hành để đến cảnh giới Niệm Phật chẳng xen niệm kiết sử, thành tựu Tịnh nghiệp mới được vãng sinh thì là lầm lớn.

Sinh về cõi Phật cũng có hai thứ:

- Mỗi niệm Phật chuyên nhất chẳng khởi vọng tưởng, gồm đủ Tín Nguyện thì ngay niệm ấy tâm thức hành giả tu Tịnh độ đã vãng sinh cõi Tây Phương rồi chẳng phải đợi khi từ bỏ báo thân này.Đã nói là Đại nguyện độ sanh tức là độ ngay chúng sinh lúc còn sống, chứ chẳng phải chỉ là lúc lâm chung Phật mới tiếp dẫn. Có điều do chướng nặng mà nhiều người tu chẳng tự biết mà thôi. Nhiều người hiểu lầm Tịnh tông về điểm này nên cứ nghĩ niệm Phật là chết, chẳng chịu tiếp nhận pháp môn này thật đáng thương, đáng tiếc.

- Hai là sau khi bỏ báo thân, lâm chung mười niệm rốt ráo được Phật Di Đà và thánh chúng tiếp dẫn về cõi Cực Lạc, một đời thành Phật, vĩnh viễn chẳng bị đọa lạc chốn Nhân thiên.

Nếu thành tựu được một niệm Nhất tâm niệm Phật, dù chưa đến lúc mạng chung mà đã quyết định vãng sinh.Ví như con cá thả xuống biển, một lần nhập biển lớn thì vĩnh viễn quyết định ở nơi đại dương

Như trong tác phẩm Di Đà yếu giải, tổ Ngẫu Ích có dạy:

"Tín tự là tin cái tâm  một niệm hiện tiền của ta vốn chẳng phải là quả tim thịt, cũng chẳng phải là duyên ảnh (bóng dáng của các duyên), theo chiều dọc thì chẳng có trước sau, theo chiều ngang thì trọn không ngằn mé. Suốt ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến. Các cõi nước trong mười phương hư không số nhiều như vi trần vốn chỉ là một vật được biến hiện trong một niệm tâm của ta. Ta tuy điên đảo, hôn mê nhưng nếu một niệm hồi tâm sẽ quyết định được sanh về cõi Cực Lạc sẵn có trong tự tâm, chẳng còn ngờ vực gì! Đấy gọi là Tín tự, tin vào chính bản thân mình (vì ta và tất cả chúng sinh đồng có Phật tánh như chư Phật vậy)".

Đáp: Xiển dương giáo pháp tùy theo căn cơ, nhưng ý chỉ bí mật rất khó tỏ ngộ, còn văn chương dù có bóng bẩy vẫn có thể hiểu được trong chớp mắt, cho nên không biết lấy hay bỏ, liền vọng sinh nghi chấp. Vì sao? Đức Phật vì hàng phàm phu mà chỉ dạy cho họ tu tập Tịnh nghiệp, nếu họ đã tin sâu nhân nhân quả thì đâu phải là ngu! Nay giải thích phàm phu có bốn trường hợp:

1. Phàm mà không ngu: Những chúng sinh từ cõi thiện cho đến địa vị cuối cùng của Thập Tín[15]không đạt được trí tương tợ duy thức, nên gọi là phàm. Nhưng có lòng tin sâu xa đối với pháp Tứ đế và Duyên sinh, khởi tâm lấy bỏ, lợi hay hại đều có thể biết được, đó chính là không ngu.

2. Ngu mà không phàm: Hàng Bồ-tát từ Thập Giải trở lên chưa chứng đắc cảnh giới Chân Như nên nói là ngu; đạt được trí tương tợ vô lậu, suy xét biết được Hai Vô Ngã[16], không trôi theo dòng sinh tử, nên được cho là chẳng phàm. Lại giải thích: Bồ-tát từ Sơ Địa trở lên đối với Thắng Tấn Phần[17] vẫn còn bị Vô minh chướng ngại, nên gọi là ngu; do đạt được thánh pháp nên chẳng phải phàm.

3. Vừa phàm vừa ngu: Tất cả chúng sinh từ cõi thiện trở về trước, chưa hiểu giáo lý của đức Phật nên gọi là phàm, không rõ nhân quả nên gọi là ngu.

4. Chẳng phải phàm chẳng phải ngu: Chính là đức Như Lai có đầy đủ Thánh trí, dứt sạch hai chướng[18], nên chẳng phải phàm, ngu.

Nói “phàm” nghĩa là trôi nổi, đối với pháp trị thế thì không phân biệt được tổn hại hay lợi ích, trôi nổi thọ sinh thì chính là phàm; thiện ác đến đi, nặng nhẹ không hề hay biết, đó chính là ngu. Nay, người tu tập muốn vãng sinh cõi Tịnh phải biết chốn Sa-bà này đầy dẫy khổ đau, rất mực nhàm chán, không muốn ở lâu; nghe nói Tây Phương an vui vô cùng, chí thành quán tưởng, nguyện thệ vãng sinh thì vĩnh viễn diệt trừ dòng đau khổ, từ bỏ hẳn cảnh giới nhiễm ô. Như thế, họ đâu phải hạng tầm thường, trôi nổi thọ sinh. Chỉ cần niệm Phật cầu vãng sinh, tỏ ngộ Vô Sinh, tương lai sẽ làm Phật, chuyên tâm hóa độ pháp giới chúng sinh. Người nào phát khởi tâm này nhất định được sinh về cõi vi diệu. Vì có sự hiểu biết này nên chẳng phải ngu.

Nói “không xen niệm Kết Sử”: Kết Sử là mười Sử[19], chín Kết[20]. Tâm niệm Phật chính là thức thứ sáu. Khi Tâm Vương sinh khởi muốn làm việc ác, Kết Sử phiền não mới bộc phát. Khi đang niệm Phật thì tâm niệm Phật cùng với năm pháp Biến Hành[21], mười một Tâm Sở Thiện[22]tương ưng không phát động các Kết Sử, các Kết Sử không có nhân sinh khởi. Tâm duyên với cảnh khác, Kết Sử liền phát sinh. Khi quán tưởng Phật, Kết Sử bị khống chế, nên nói “không xen niệm Kết Sử”. Nguyện sinh cõi Tịnh thì không nên nói xen tạp, bởi do Kết Sử chưa đoạn nên có xen tạp, nếu đã diệt trừ thì không xen tạp. Thế thì do chưa đoạn nên Kết Sử có lúc hiện hành. Tâm thanh tịnh niệm Phật thì trái ngược với Kết Sử, tâm đang niệm Phật thì Kết Sử không hiện hành. Ở đây nói “không xen tạp” là không để tâm niệm Phật bị gián đoạn, phòng ngừa không cho Kết Sử sinh khởi, chứ không nói diệt hết Kết Sử là không xen tạp. Thánh nhân đã dứt sạch phiền não, ở cõi này an ổn, không nhọc niệm Phật để cầu sinh.

Phần 5

Kinh Tối Thắng Diệu Định ghi: “Nếu có người nào xây dựng vô số chùa tháp, không bằng trong thời gian ngắn đoan tâm chánh niệm”. Lại trong các bộ kinh Đại Thừa nói về lý Vô Sinh, bảo người tu đạo học Tuệ.

Nghi vấn thứ 24: Theo kinh này, Đức Phật ca ngợi Vô Sinh là đặc biệt tối tôn, tối thắng trong các hành nghiệp, nhưng các kinh A-Di-Đà và Quán Vô Lượng Thọ thì lại khuyên vãng sinh Tây Phương, nhàm chán cõi Sa-bà, nguyện sinh cõi Tịnh. Thế nhưng, sinh là đầu mối của tai họa, sinh chấm dứt thì họa diệt. Ở đây lại bỏ sinh để cầu sinh thì nhân của tai họa lại càng thêm lớn. Sao không tu tập hạnh Vô Sinh để ngộ Pháp Thân. Còn niệm thân tướng Phật mà nhân của sinh không diệt, dù có vãng sinh về cõi kia thì đâu khác gì sinh ở cõi này? Chỉ cần quán Vô Sinh thì cách Phật không xa, tâm chính là Phật, đâu nhờ tìm cầu nơi khác? Hành nghiệp này Ngài đã thuần thục, xin được chỉ bày lý sâu xa?

Lạm bàn: Nghi vấn này tương tự nghi vấn thứ 11, chương II, xin tham khảo thêm.

Đáp: Hạnh do giáo mà khởi, tất cả đều vì lợi sinh. Giáo thuyết bất đồng bởi do căn cơ sai khác. Vì sao? Luận chung về căn cơ, nêu sơ lược hai ý: Nghiệp sâu và Hạnh cạn. Hạnh Nghiệp sâu có thể học pháp Vô Sinh, còn kẻ Hạnh cạn cần phải cầu sinh về cõi Tịnh.

Luận về tu tập cũng có hai điều: trở lại và xuất ly. Trở Lại là tuy học Phật pháp, nhưng chỉ vì tiếng tăm, không sợ mai sau sinh tử hiểm nguy; tham cầu sự hiểu biết thù thắng mà lại còn chấp nhân ngã, cho mình là đúng còn kẻ khác thì sai, không tu ba nghiệp, miệng nói vô tướng mà tâm chấp chặt tướng. Dù học pháp Vô Sinh, nhưng chỉ là nghệ thuật xem chơi. Kẻ ấy thấy người khác niệm Phật liền giận hờn ganh tỵ, đến nỗi khiến cho người ta phải thoái tâm. Miệng họ thì nói thuốc hay mà sợ không dám uống, trở lại uống phải độc dược nên phát bệnh. Tâm này tạo nghiệp, tâm luôn ruổi rong, tâm đã không thật chưa thể chế ngự được mà tự nói ta ngộ. Khi nghiệm xét lại thì hoàn toàn trống không, bất chợt mạng chung, lại chìm trong sinh tử, chịu khổ triền miên, không biết khi nào thoát khỏi! Đây gọi là Trở Lại.

Xuất Ly có hai trường hợp là Vô Sinh và Hữu Tướng. Vô Sinh tức là giữ tâm điềm tĩnh, phân biệt rõ ngoại duyên, khéo biết lấy bỏ hai tướng hữu vô. Chế ngự tâm, tự tại không trụ vào nhị biên[23], miệng nói tâm hành, theo việc mà suy xét; dù nghịch hay thuận tâm vẫn quân bình. Giống như ăn tro than không khác gì ăn món ngon. Đối với cảnh thuận - nghịch đều đạt được, như vậy thì mới có khả năng ở lâu trong cõi Sa-bà mà không thoái tâm, rồi chuyển cõi Sa-bà ấy thành Tịnh Độ. Công lực như vậy mới thành tựu sự xuất ly.

Hữu Tướng tức là do duyên cấu uế hoặc chướng ngại sâu nặng, khó thành tựu Vô Tướng. Nếu ở cõi này thì chồng chất thêm những khổ đau. Muốn tâm tĩnh lặng thì bị cảnh lăng xăng bên ngoài lôi kéo, tâm lại chạy theo cảnh thì biết khi nào mới ngộ được Vô Sinh? Tâm nên duyên nhất Phật, quán niệm A-Di-Đà, không tạo nghiệp ác, cầu sinh cõi Tịnh; thấy người tu tập pháp môn khác thì khen ngợi tán dương, nghe nói lỗi người cũng không sinh tâm khinh chê; buộc tâm một chỗ, nghĩ đến cảnh Tây Phương, ba nghiệp hỗ trợ cho nhau thì nhất định được sinh về cõi ấy, cũng thành tựu hạnh xuất ly.

Xin các vị hãy dùng trình độ của mình để xét nghiệm giáo pháp, pháp nào phù hợp thì hành trì. Người hành nghiệp đã sâu, đạt địa vị Bất Thoái, chẳng nhọc công chấp tướng, nguyện sinh về Tây Phương. Còn hạng căn cơ thấp kém, chưa thoát khỏi luân hồi thì cần phải chứng Vô Sinh, mới được xuất triền[24]. Rất nhiều người miệng nói Vô Sinh mà không có ai chứng đắc. Vậy, muốn đạt được Vô Sinh cần nương vào thắng cảnh[25]. Vì thế, nên lấy việc cầu Vô Sinh thấy Phật làm duyên chứng ngộ.

Ở lâu trong cõi Diêm-phù, thường gặp bạn tốt, tuy ngày đêm nghe chánh pháp, nhưng người thuyết vẫn còn là phàm, cho nên chưa chứng được lý. Kinh Duy-Ma ghi: “Suốt ngày thuyết pháp mà không thể khiến cho người khác chứng Diệt tu Đạo, đó chính là hý luận, chứ chẳng phải cầu pháp”. Cho dù đời tương lai có gặp bạn tốt, phát khởi nhân ngày nay thì cũng trở thành hý luận, chi bằng cầu sinh Tịnh Độ, chấm dứt luân hồi, chứng nhập rừng báu, vừa nghe chánh ngữ, tức thời thành tựu vô số Pháp nhẫn. Xét kỹ hai duyên này thì chớ có do dự!

Phần 6

Kinh Niết-Bàn ghi: “A-Nan gặp nạn ma, Bồ-tát Văn Thù đến cứu giúp”. Kinh Đại Phẩm ghi: “Ma vương biến làm Phật, mọi người không thể biết”. Kinh Ưu-Ba-Cúc-Đa ghi: “Ma biến làm Phật, Tôn giả đảnh lễ”.

Nghi vấn thứ 25: A-Nan đã chứng quả Dự Lưu thường bị ma quấy phá, đức Phật sai Bồ-tát Văn-Thù đến cứu mà đạt được bổn tâm. Lại nữa, ma có thể hóa làm thân Phật thuyết pháp cho người, hàng Bồ-tát hạnh còn cạn mỏng đều không hay biết. Tôn giả Cúc-Đa tu tập đạt đến địa vị Vô Học thấy ma biến làm Phật, không biết mà quy y. Nay muốn quán tưởng Phật A-Di-Đà để đến khi lâm chung được thấy Phật. Đây đều là cảnh giới của ma làm sao nương được. Nếu như cảnh thấy đó là chân thật thì đúng là một liều thuốc hay, còn gặp phải ma thì chắc chắn rơi vào dòng tà. Khối ghi chưa trừ, rất mong được dung thông?

Lạm bàn: Thật ra nói về Ma vốn có bốn thứ: Thiên ma, Tử ma, Phiền não ma và Ngũ ấm ma.

Thiên ma là chỉ Ma Ba Tuần, vua cung trời thứ 6 Tha hoá Tự tại, do vì hưởng ngũ dục tối thắng tột bậc nên chẳng muốn ai thoát khỏi tầm kiểm soát của mình; do đó khi người tu đạt trình độ nhất định, đe doạ đến cung ma sẽ bị Thiên ma và thuộc hạ của ma quấy rối hòng phá hoại huệ mạng người tu.

Ngũ ấm ma: Ngũ ấm tức là Sắc ấm (xác thân vật chất), Thọ ấm (cảm thụ), Tưởng ấm (sự tưởng tượng), Hành ấm (suy nghĩ) và Thức ấm (phân biệt).

Tổ Ngẫu Ích nói: Chúng sinh là kiến giải sai lầm cảm vời ngũ ấm thô tệ. Kiến giải sai lầm chính là ma, nên ngũ ấm do nó cảm vời chính là nhà của nó nên gọi là Ngũ ấm ma. Ngũ ấm ma xuất hiện do tâm tham đắm, tâm chấp trước bên trong cảm vời Thiên ma và thuộc hạ ma bên ngoài mà thành. Nhưng cũng phải tu đến mức khá cao mới vào phạm vi của Ngũ ấm ma.

Phiền não ma, tức là khi tu các phiền não cứ kéo lên không thể định tâm mà tu tập gây chướng ngại cho người tu.

Cuối cùng là Tử ma tức là cái chết, vì vốn đang tu hành tốt đẹp thì Tử ma ập đến, kiếp sau lại phải tu lại nên là sự chướng ngại rất lớn cho đường tu vậy.

Trước khi tu tập thì chẳng thấy có gì, nay lại thấy có quá nhiều khó khăn, ắt hẳn khiến người học Phật không khỏi băn khoăn do dự, không biết tu có găp phải ma sự không, nếu gặp thì biết ứng phó thế nào đây?

Quán kinh đã nói rõ: Chúng sinh phát tâm niệm Phật luôn được quang minh của Phật A Di Đà âm thầm nhiếp thu chẳng rời, lại được 25 đại Bồ tát vây xung quanh bảo vệ, hình dung ra thì giống như vòng kim cang của Tôn Ngộ Không bảo vệ Đường Tam Tạng khỏi Bạch Cốt Tinh vậy. Cũng lại giống như dao cắt nước, gió thổi ánh sáng, ma sự chẳng thể đến.

Chỉ trừ khi dùng Tà tâm, tà tín, tà nguyện mà niệm Phật, đó là tự thoát ra khỏi vòng bảo vệ, mời Phật và Bồ tát đi chỗ khác mà rước Ma vào nhà vậy.

Vậy nên nếu dùng tà tâm mà niệm Phật tu Chánh pháp thì Chánh cũng biến thành Tà, chỉ gieo được chút duyên giải thoát cho đời lâu xa về sau mà thôi.

Thế nào là Tà tâm? Chúng ma ưa thích sinh tử, ngũ dục. Dùng tâm mong cầu vật chất, cho đến mong được thần thông để hơn người, được người phụng sự cúng dường mà chẳng mong muốn giải thoát sinh tử thì đó đều là tâm Ma cả. Dùng tâm ấy mà niệm Phật tức là mời Ma vào nhà, chẳng những không được vãng sinh mà mang cả tai hoạ cho gia đình nữa. Cũng lại vì dùng Tà tâm niệm Phật nên chẳng được thụ hưởng pháp vị giải thoát nên dễ sinh tâm giải đãi, chán nản vậy.

Do vậy, khi gặp chướng ngại nên suy xét kỹ, khởi lên Chánh kiến dẹp trừ Tà niệm thì chướng ngại tự tiêu.

 

 

Đáp: Đấng Đại Giác phương tiện thị hiện thân tướng siêu việt, dù cho ma có giả hiện quấy nhiễu thì thì cũng khác biệt. Bởi trải qua nhiều kiếp siêng năng tu tập, nhân thì thù thắng tròn đầy, quả thì thành tựu vạn đức, tướng hảo siêu việt, tệ ma đâu có sánh bằng. Vì sao? Vì thân Như Lai như Tử ma kim[26], tướng hảo rực rỡ, sáng ngời như minh châu vượt hẳn muôn vạn mặt trời. Cho dù Ma vương có biến hiện cũng không thể có được tướng hảo như vậy. Những việc của kẻ hạ phàm làm sao sánh với bậc tôn quý. A-Nan đã ở trong hàng Thanh Văn mà thị hiện chứng quả Dự Lưu, nhưng theo thật hạnh thì Ngài đã chứng Sơ Địa từ lâu. Bởi nghĩ đến sau khi Đức Phật diệt độ, người tu hành thường bị ma phá hoại tịnh tâm, không sao chế phục được, cho nên thị hiện bị rơi vào lưới ma để thỉnh Phật cứu giúp. Thần chú đã tuyên làm nhân khởi mãi mãi lưu truyền về sau để người học phá ma chứ chẳng phải Thánh nhân, vì phàm phu mới mắc vào lưới ma.

Kinh Đại Phẩm ghi: “Ma biến làm Phật mê hoặc phàm phu, Bồ-tát ở giai vị thấp, không phân biệt được”. Đó là kinh Đại Phẩm chưa luận về nhân duyên khởi giáo phương tiện, còn trong hội Niết-Bàn, nhân hỏi mà thuyết pháp, Ca-Diếp hỏi rằng: “Làm sao biết được Phật thuyết hay ma Ba-tuần thuyết?” Đức Phật bảo Ca-Diếp: “Giống như kẻ trộm ban đêm đột nhập vào nhà. Nếu người giữ nhà biết được thì tên trộm liền rút lui”. Hành giả cũng vậy, đã vào ngôi nhà Phật pháp, được món ăn ngon, không nghĩ đến ma. Tôn nghi của Đức Phật thì trang nghiêm tuyệt diệu. Ma có đến che lấp sự thật, thì người tu Phật nên khéo phân biệt: Giữa chặng mày Đức Phật có tướng bạch hào, xoay về bên phải tạo thành vòng tròn, ngoài kín mà trong rỗng, ánh sáng chiếu khắp, rực rỡ tinh khiết, sáng sạch như lưu ly, dung nghi rạng ngời như ánh mặt trời. Nhục kế Ngài nhô cao, tóc xanh biếc, từng sợi từng sợi uyển chuyển xoay vòng về bên phải. Nếu thấy được những tướng hảo thù thắng ấy chính là thấy tôn nghi chân chánh của Đức Phật; nếu thấy tướng khác thì đều là ma.

Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa không nhận ra ma, bởi vì Ngài sinh sau thời Đức Phật, theo thứ tự truyền pháp thì Ngài làm Tổ thứ năm, thuyết pháp giáo hóa, độ rất nhiều chúng sinh. Một hôm Ma vương tuôn mưa hoa xuống pháp hội rối loạn tâm đại chúng, khiến cho tất cả không thể lãnh ngộ được. Chúng lại còn bố thí mũ báu để làm mê hoặc lòng người. Tôn giả rủ lòng thương xót, vui vẻ đón nhận, nhân đó nói với Ma vương rằng: “Ta vâng theo lời dạy của Đức Phật, biết nghĩa biết ân. Ngươi đã bố thí mũ báu cho ta, ta cũng có xâu chuỗi báu xin đáp tặng lại cho ngươi”. Thế rồi, Ngài đem ba loại tử thi là người, chó và rắn biến xâu chuỗi báu đeo vào trong cổ của Ma vương.

Ma Ba-tuần mừng rỡ nói: “Tôn giả Cúc-Đa thần lực siêu việt, giáo hóa chúng sinh, đã bước lên quả thánh. Vậy mà, bọn ma chúng ta dụ dẫn khiến ông ấy nhận mũ báu, lại còn dùng chuỗi ngọc đáp lễ. Cúc-Đa đã rơi vào lưới ma, đường ác tăng thêm, còn quyến thuộc của ta không bị hao tổn”. Nói xong, bọn chúng vô cùng vui mừng, liền kéo nhau trở về cung. Vừa đến cõi trời Tứ thiên vương[27], ngài Cúc-Đa bèn thâu nhiếp thần lực, chuỗi báu anh lạc lại biến thành tử thi, sình trướng hôi hám, máu mủ lan tràn. Ma Ba-tuần buồn bã không vất đi được, bèn đi khắp các cõi trời cầu xin trừ bỏ. Nhưng các vị trời đều nói: “Chúng tôi không có khả năng, Ưu-Ba-Cúc-Đa này là đệ tử của đức Thích-ca Như Lai. Vì các ngươi không biết mới cả gan quấy nhiễu, nên Ngài tạm dùng việc này để chiết phục thân tâm của ngươi, mau mau quy y Ngài để tránh khỏi tai họa”. Ma Ba-tuần bay xuống đến trước Thánh giả, năm vóc sát đất chí thành cầu xin sám hối. Tôn giả Cúc-Đa thương xót trừ bỏ các tử thi và nói rằng:“Ta sinh sau thời Phật, không gặp được Đức Như Lai. Ngươi có thể biến làm hình Phật cho ta chiêm ngưỡng được không?”

Ma liền vào trong khu rừng biến thành thân Phật. Ngài Cúc-Đa thấy vậy trải tòa đảnh lễ. Ma rất kinh sợ thưa rằng: “Đệ tử ngu muội, không dám trái lời Ngài dạy, tuy con biến làm Phật, nhưng vẫn còn ở trong trần tục, Tôn giả đảnh lễ, e rằng con mất vô lượng phước đức”. Tôn giả đáp: “Ta gần thì đảnh lễ tượng Phật, xa là cung kính đức Đại sư. Ngươi là ma không phải đối tượng để ta cung kính. Nay ngươi chớ lo, đừng lầm sợ mất phước!” Thế là, Ma vương vô cùng vui vẻ, xả bỏ các tạp hạnh, quy y Phật, Pháp, Tăng, đảnh lễ Ưu-Ba-Cúc-Đa rồi trở về cung, không còn xuất hiện nữa.

Như vậy, làm sao nghi ngờ nói ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa không nhận ra ma? Giống như nhiều người tài giỏi trợ giúp một người thì kẻ hung ác không thể nào xâm hại được. Người tu hành cũng như vậy, khi đã niệm chí thành, quyết định sinh về cõi kia thì được mười phương chư Phật cùng trợ giúp, cho đến khi hết báo thân này, ma vẫn không thể nào nhiễu loạn được. Đức A-Di-Đà giáo hóa chúng sinh, chiếu ánh sáng từ bi để tiếp dẫn hữu tình, khiến họ lên được bến bờ an vui tối thượng, đừng sợ ma quấy nhiễu mà không tu nhân tốt đẹp!

Phần 7

So sánh sự hơn kém giữa Tây Phương Tịnh Độ và cung trời Đâu-Suất.

Nghi vấn thứ 26: Tịnh Độ của Phật A-Di-Đà cách đây rất xa, cung trời Đâu-Suất của Phật Di-Lặc ở tại cõi Dục này, sao không nguyện sinh về Đâu-Suất, mà lại hướng về Tây Phương? Bỏ dễ cầu khó, há chẳng phải là trở ngại ư?

Lạm bàn: Nghi vấn này giống như nghi vấn 16, xin tham khảo thêm.

Đáp: Có rất nhiều điểm để so sánh hai cõi. Nay nêu sơ lược mười điểm sai biệt để đả thông các mối nghi:

1. Thọ mạng có dài ngắn: Thọ mạng của chư thiên ở cung trời Đâu-Suất chỉ 4.000 tuổi; còn thọ mạng của người ở cõi Cực Lạc đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha [28] a-tăng-kỳ[29] kiếp.

2. Chỗ ở có trong ngoài: Ở cung trời Đâu-Suất, nếu trí huệ nhiều, liền được sinh vào Nội Viện, được làm thị giả đức Phật Di-Lặc. Nếu phước nhiều mà huệ ít, thì sinh ở Ngoại Viện, không được gặp đức Từ Thị. Còn ở Tịnh Độ hoàn toàn không có trong ngoài, báo thân tuy có hơn kém, song đều là thánh hiền.

3. Cảnh có tịnh uế: Nếu được sinh vào Nội Viện Đâu-Suất thì thấy được thánh hội của đức Phật Di-Lặc, thường phát khởi duyên thanh tịnh; còn ở Ngoại Viện thì tất cả các thứ hương hoa, lầu gác, âm nhạc đều làm khởi tâm đắm nhiễm. Còn Tây Phương Cực Lạc, khi sáu căn tiếp xúc với cây, chim, nước, lưới, âm nhạc thì đều nuôi dưỡng đạo tâm.

4. Báo thân khác nhau: Chánh báo ở Đâu-Suất thì nam nữ khác biệt, càng đắm nhiễm lẫn nhau, chướng ngăn đạo nghiệp. Người được vãng sinh Tây Phương đều là bậc trượng phu, thân mình và người đều thanh tịnh, không đắm nhiễm.

5. Chủng tử và hiện hành có sai khác: Nếu người sinh về Đâu-Suất thì chủng tử phiền não và hiện hành phiền não đều phát khởi, nhưng người sinh về Tây Phương Tịnh Độ, chỉ có chủng tử phiền não, hoàn toàn không có hiện hành phiền não.

6. Việc tu tập có tinh tấn, lui sụt khác nhau: Nếu sinh về Đâu-Suất, do có nam nữ, nên năng lực trí tuệ còn yếu kém, do đó đa số đều bị lui sụt. Còn sinh về Cực Lạc thì năng lực trí tuệ lớn mạnh, không còn các hoạt động của dục, chỉ chuyên tinh tấn tu hành.

7. Giới và phi giới khác nhau: Sinh về Đâu-Suất chưa lìa khỏi cõi Dục, nếu có nạn lửa phát khởi thì bị thiêu đốt. Còn sinh về Tây Phương hoàn toàn vượt khỏi ba cõi, các nạn nước, lửa, gió v.v… đều không thể hại được. Do ở cõi Tịnh có hình chất nên chẳng phải là cõi Vô Sắc; nương vào đất mà ở, nhưng không nhiễm cảnh sắc, cho nên chẳng phải cõi Sắc; không có dâm cho đến đoàn thực[30], cho nên chẳng phải cõi Dục.

8. Hình tướng đẹp xấu trái nhau: Sinh về Đâu-Suất thì nam nữ không đồng, đẹp xấu khác biệt. Nếu sinh về Tịnh Độ thì thân sắc vàng ròng, hoàn toàn sáng rỡ, đều là tướng đại trượng phu.

9. Xả bỏ thân mạng để vãng sinh về hai cõi không giống nhau: Khi xả bỏ thân mạng sinh về Đâu-Suất, không có người đến tiếp dẫn. Còn khi sinh về Tịnh Độ thì Thánh chúng đến đón rước.

10. Kinh khuyến khích có nhiều ít: Khuyên sinh về Đâu-Suất chỉ có kinh Di-Lặc Thượng Sinh Đâu-Suất, nhưng văn kinh không thiết tha ân cần, chỉ khuyên tu một cách sơ lược. Còn Tịnh Độ thì rất nhiều kinh luận khuyên sinh về, Đức Phật ân cần, hết lòng khuyên vãng sinh.

Lại hỏi: Tây Phương Tịnh Độ, cõi nước thù thắng, thời đại an ổn, tất cả hàng phàm phu căn cơ thấp kém làm sao được vãng sinh?

Đáp: Cõi Cực Lạc thanh tịnh nhiệm mầu, muốn vãng sinh về đó thật rất khó, nhưng nhờ sức Phật gia trì, nên vãng sinh trở nên dễ dàng!

Phần 8

Kinh Vô Lượng Thọ (Đại Bản) ghi: “Người sinh về Cực Lạc, trụ trong Chánh Định Tụ”. Kinh A-Di-Đà ghi: “Chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc đều là bậc A-bệ-bạt-trí”.

Nghi vấn thứ 27: Nếu luận bàn rộng về quả vị Bất Thoái, phải nói đến công đức tu tập trong vạn kiếp, nhưng sao chỉ niệm Phật một đời, thậm chí chỉ mười niệm lúc sắp chết đều được đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn sinh về cõi Cực Lạc, chứng được Bất Thoái. Chỉ luận về công hạnh hẳn đã có sai khác như thế, thì làm sao phù hợp?

Lạm bàn: Nghi vấn này giống như nghi vấn 6 trong chương I, nghi vấn thứ 14 và 17 trong chương II, xin tham khảo thêm.

Xin đưa ra nột ví dụ cụ thể, trong Vãng sinh truyện chép ông Vương Đả Thiết ở Hành Châu, Trung Quốc là người thợ rèn, một nhà bốn miệng ăn, cuộc sống rất khổ. Có một vị sư đi ngang qua nhà ông ta. Vương Đả Thiết mời nhà sư vào nhà tiếp nhận cúng dường và thưa hỏi cách thức "lìa khổ, được vui". Pháp sư dạy ông ta niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Ông ta y giáo phụng hành, cứ rèn một búa lại niệm Phật một câu. Suốt ba năm như thế, một hôm ông ta đọc bài kệ:

Beng beng bang bang

luyện mãi thành gang

Thái bình sắp đến

Ta về Tây Phương

Nói xong đập xuống một búa đứng sững qua đời.

Lý luận suông thì vạn kiếp chẳng ích gì, như thật lòng tu hành như ông Vương Đả Thiết như câu chuyện trên chẳng cần tới một đời, chỉ ba năm tinh thuần niệm Phật đã thành tựu, đó chẳng phải là tấm gương sáng để mọi người học tập ư?

Hơn nữa cõi Tây Phương thù thắng ở nơi 48 Đại nguyện của Phật Di Đà trải thân Phật thành cõi nước nên vãng sinh Tây Phương cũng là trở về Chân tánh, được sống trong ánh sáng của Phật Di Đà chẳng thể có duyên thối thất cũng tức chính là nghĩa của 2 chữ "Bất thoái" vậy.

Đáp: Bất Thoái và Chánh Định, tuy khác tên gọi nhưng ý nghĩa giống nhau. Người tu hành có hai loại: người ở cõi uế, kẻ ở cõi tịnh.

Tu nhân ở cõi uế, cần phải trải qua vạn kiếp; còn khởi hạnh ở cõi tịnh vốn có nhiều đường. Nay trình bày về Bất Thoái. Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nêu ra bốn loại:

1. Vị Bất thoái: Chính là vạn kiếp tu nhân, ý nói thành tựu được Duy Thức Quán[33] thì không rơi vào hạnh Ác Luật Nghi[34], không còn luân hồi sinh tử nữa.

2. Hạnh Bất Thoái: Đã được Sơ Địa, thành tựu Chân Duy Thức Quán, xả bỏ tâm Nhị Thừa, bất thoái hạnh lợi tha.

3. Niệm Bất thoái: Địa thứ Tám trở lên, thật chứng trí vô công dụng[35], lúc định hoặc tán đều được tự tại, không có niệm lui sụt.

4. Xứ Bất thoái: Tuy không có văn kinh luận minh chứng, nhưng dựa vào lý để thành lập. Vì sao? Như luận Tỳ-Bà-Sa nói: “Hàng A-la-hán căn thoái, nếu đắc quả trong cõi người thuộc Dục giới, thì gặp năm duyên lui sụt, sợ mất Thánh quả, khởi tu hoặc[36]. Đó là: đi xa, nhiều bệnh, thích tụng kinh điển, thích hòa giải tranh tụng, thích làm việc Tăng. Nếu đắc quả trong cõi trời, không gặp các duyên lui sụt, liền đạt được Bất Thoái, chứng nhập Vô Dư Niết-bàn[37]”. Hành giả cũng như vậy, chưa đạt được ba Bất Thoái trước trong cõi người, nếu ở Sa-bà thì sẽ trôi lăn trong sinh tử, đó là lẽ tất nhiên. Bởi vì cõi nhiễm này có năm duyên lui sụt:

1. Mạng sống ngắn ngủi, nhiều bệnh tật.

2. Nhiều duyên xấu ràng buộc, ngăn ngại tịnh tâm.

3. Những tạp thiện của ngoại đạo làm loạn chánh hạnh.

4. Cảnh giới sáu trần khuấy động tịnh tâm.

5. Không thường thấy Phật, chẳng nghe được lời chỉ dạy của Phật.

Nếu thường ở trong cõi này thì gặp năm duyên lui sụt đó. Nhưng vãng sinh Tịnh Độ thì gặp được năm duyên tối thắng:

1. Mạng sống lâu dài, không có bệnh tật.

2. Bạn tốt dìu dắt.

3. Toàn là chân chánh, không có tà vạy.

4. Hoàn toàn thanh tịnh, không có cấu nhiễm.

5. Luôn luôn phụng sự chư Phật.

Nhờ năm duyên này, nên được Bất Thoái. Xét về hành vị không thể sánh bằng, nhưng được cõi tốt duyên lành, lại không lui sụt. Giống như người ác thường làm việc bất thiện, gặp được bạn lành, xót thương khuyên bảo không còn kết thân với kẻ ác nữa, thường theo người hiền, cho đến suốt đời không tạo tội ác nữa.

Phần 9

Kinh A-Di-Đà ghi: “Không thể với nhân duyên phước đức thiện căn nhỏ mà được vãng sinh Cực Lạc”.

Nghi vấn thứ 28: Vãng sinh Tịnh Độ cần phải nhớ vào thiện lớn, hành trì đầy đủ các tịnh nghiệp mới được vãng sinh. Nếu chỉ niệm Phật suông như thế, làm sao vãng sinh Cực Lạc?

Đáp: Nói về thiện căn nhiều ít thì chỉ cần căn cứ vào việc niệm Phật để trình bày. Nếu quá khứ không có nhiều duyên thiện thì đời này không được nghe danh hiệu Phật. Nhưng nay được nghe đến Tịnh Độ, chuyên tâm niệm Phật, tức là do nhân thiện quá khứ; lại nhớ nghĩ Tây Phương, quyết tâm sinh về, đây là thiện căn lớn. Tuy nghe đến Tịnh Độ của Phật A-Di-Đà, phát nguyện vãng sinh, nhưng việc tu không chuyên, tâm không quyết định, đó chỉ là thiện nhỏ không thể vãng sinh Tịnh Độ được.

Lại hỏi: Về việc niệm Phật, chỉ niệm danh hiệu, giả sử có chuyên tâm, nhưng chưa phải là thiện căn lớn, dẫu có xưng niệm danh hiệu Phật cũng đâu được vãng sinh?

Đáp: Niệm Phật, là nói về pháp tu chung. Bởi vì căn cơ chúng sinh thọ nhận lợi ích khác nhau, do nguyện hạnh của chư Phật mà thành tựu danh hiệu Phật, do đó chỉ niệm danh hiệu Phật là bao hàm đầy đủ các công đức, cho nên trở thành thiện lớn, không trái nguyện vãng sinh. Nên kinh Duy-Ma-Cật ghi: “Ba danh hiệu trước của Phật[38]nếu Phật giảng rộng thì tôn giả A-Nan trải qua muôn kiếp cũng không thể lãnh hội được”.

Luận Thành Thật giải thích về danh hiệu Phật: Chín danh hiệu trước của Phật, đều thành lập theo nghĩa riêng. Nay gom công đức của chín danh hiệu trước lập thành danh hiệu Phật Thế Tôn. Cho nên, nếu chỉ nói ba danh hiệu đầu tiên thì dù trải qua muôn kiếp cũng không cùng, A-Nan không thể lãnh ngộ hết được, huống gì lại thêm sáu danh hiệu sau nữa để tạo thành danh hiệu Phật. Vì danh hiệu Phật có đầy đủ công đức thù thắng, cho nên niệm danh hiệu Phật trở thành thiện lớn.

Phần 10

Kinh A-Di-Đà ghi: “Này các thiện nam, thiện nữ! Số Thanh Văn niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc rất đông, nhiều vô lượng vô biên”. Nhưng luận Tịnh Độ lại nói: “Đối với hàng căn khí Đại Thừa thì hoàn toàn không có điều gì đáng nói, nhưng Nhị Thừa, người nữ và người thiếu căn thì không được vãng sinh”.

Nghi vấn thứ 29: Như luận Tịnh Độ nói người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị Thừa đều không được vãng sinh. Nhưng kinh A-Di-Đà nói đều được vãng sinh Cực Lạc. Như thế cả hai kinh đều là Thánh giáo, tại sao mỗi kinh nói khác nhau?

Đáp: Mỗi bộ kinh luận tùy theo một duyên, nhưng xét kỹ lại thì hoàn toàn không sai khác. Nói người nữ được vãng sinh, là do tâm tánh quyết định, vì quá nhàm chán thân nữ, hết lòng niệm danh hiệu Phật để cầu vãng sinh Tịnh Độ, đến khi báo thân ở cõi Sa-bà hết, chuyển làm thân trượng phu, ngồi vào đài sen báu, liền được vãng sinh Tịnh Độ. Nói người thiếu căn được vãng sinh, có năm hạng: Sinh, Kiền, Bán nguyệt, Đố, Nhị Hình[39]. Những người thiếu căn như thế, tâm tánh không bình thường, nhưng nếu phát tâm dõng mãnh, quyết chí xả bỏ thân tàn tật thiếu căn này, để cảm nhận thân đầy đủ căn, liền được vãng sinh Cực Lạc.

Hàng Nhị Thừa có hai:

- Thứ nhất là hàng ngu pháp, chỉ chứng lý Nhân không, không biết lý Pháp không, đạt được quả nhỏ[40], cho nên gọi là ngu pháp. Hạng này chỉ mong cầu lợi mình, không thực hành hạnh lợi tha, vì thế không được vãng sinh Tịnh Độ.

- Thứ hai, hàng không ngu pháp. Các vị này tuy chứng được quả A-la-hán, nhưng không trụ vào quả nhỏ mà theo các Bồ-tát phát khởi tâm Đại Thừa, nguyện sinh về ngay trước Phật để phát khởi hạnh lợi tha, do đó được vãng sinh Tịnh Độ.

Hỏi: Luận Tịnh Độ nói: “Hàng Nhị Thừa không được vãng sinh”. Vì sao Quán Kinh nói: “Được vãng sinh Tịnh Độ, nhưng lại chứng quả nhỏ”?

Đáp: Người này, trước có chủng tử Tiểu Thừa, gặp được thiện tri thức, phát khởi tâm Đại Thừa, do nhân tu tập Tiểu Thừa trước kia mà chứng ngộ được tứ phi thường[41], rồi phát khởi túc nhân[42] liền chứng được quả nhỏ, nhưng nhờ vào sức dẫn dắt của thiện hữu tri thức Đại Thừa, nên không trụ vào quả Tiểu Thừa, mà trở lại phát khởi niệm Đại Thừa, do đó chẳng còn là Tiểu Thừa. Tuy căn là người nữ, nhưng thường cầu Bồ-đề, tin sâu Phật tính của mình và người đều bình đẳng, liền phát thệ nguyện sẽ thành Phật, độ khắp chúng sinh, tâm muốn xả bỏ thân người nữ, liền được vãng sinh Tịnh Độ, đến khi báo thân sắp hết, Hóa Phật đến tiếp dẫn, thành bậc đại trượng phu, ngồi vào đài sen, được Phật giúp cho tâm an ổn, liền vãng sinh Cực Lạc. Kinh căn cứ vào nghĩa này, nên nói người nữ đều được vãng sinh. Còn Luận không căn cứ vào nghĩa này, nên cho rằng không được vãng sinh. Hàng Thanh Văn cần phải phát khởi tâm Đại Thừa, nương theo đây tu tập, liền được vãng sinh. Nhưng vẫn lấy theo tên cũ mà gọi là Thanh Văn.

Hỏi: Hàng Thanh Văn thường bị chê trách, vì sao họ sinh vào cõi kia vẫn còn gọi tên ấy?

Đáp: Thanh Văn ngu pháp, mắc lỗi tự lợi quá nặng, không thực hành hạnh lợi tha, cho nên bị chê trách. Tuy vẫn gọi tên xưa, nhưng bây giờ là Đại Thanh Văn, hạnh lợi tha rất lớn, đó là mỹ danh. Do đó kinh Pháp Hoa nói: “Chúng ta ngày nay chính là Thanh Văn, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho tất cả đều được nghe”. Tây Phương cũng thế, tuy có Tiểu Thừa, nhưng đều là Thanh Văn chân chánh, cho nên không có lỗi bị chê trách.

Phần 11

Dung hội cho Hành giả Tam Giai[43]. Hành giả Tam Giai có năm mối nghi nhỏ.

1. Nghi vấn thứ 30: Chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi chịu nhiều khổ não. Truy tìm nguyên do đều phát khởi từ ba tà độc. Nay chuyên tâm niệm Phật, nguyện vãng sinh Tây Phương, tà độc càng tăng trưởng, há chẳng phải là kiến giải điên đảo ư? Vì sao? Bởi vì cõi Sa-bà ô trược, lẽ ra phải thường ở, nhưng lại sinh nhàm chán xả bỏ, đó chính là tà sân. Tây Phương Tịnh Độ là nơi chư Thánh qua lại, không phải chỗ ở của phàm phu mà lại phát nguyện sinh về, tức là tà tham. Sở dĩ như thế đều là do vô minh, đó là tà si. Đây là ba mầm độc chất chứa trong ruộng tâm, giả sử có niệm Phật, thì cũng chiêu cảm đến thần, ma, quỷ… làm sao được vãng sinh Tịnh Độ?

Lạm bàn: Lời ông hỏi như vậy chẳng phải là si mê ư?

Vì si mê nên mới nói cõi Ta Bà ô trược phải thường ở. Ví như một người chẳng may sa xuống hầm xí, chịu ở luôn dưới đó chăng?

Vì si mê nên mới cho rằng Tây Phương Tịnh độ là chỗ chư Thánh ở, chẳng phải nơi phàm phu được sinh về. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đồng có Phật tánh vậy, nghi như thế chẳng phải phụ tánh linh của mình lắm ư?. Như kinh Pháp Hoa, phẩm Thí dụ đức Thế Tôn có dạy: Tất cả chúng sinh vốn đều là con Phật, chỉ vì si mê trốn nhà đi chơi không biết đường về, nay một niệm hồi tâm trở về nhà có gì mà chẳng được.

Lại còn cho rằng người phát nguyện vãng sinh Tịnh Độ là vô minh, cho rằng niệm Phật chiêu cảm quỷ thần chẳng được vãng sinh Tịnh độ, chẳng phải ông cho rằng lời đức Thích Ca là hư dối, lời nguyện của đấng Từ phụ Di Đà là nguyện suông hay sao?

Vậy chẳng phải người điên cười người tỉnh hay sao?

Đáp: Giáo chỉ có sai khác, nhưng đều mong muốn làm lợi ích muôn loài, người học khéo biết lấy bỏ, mỗi mỗi tùy theo cơ duyên. Vì sao? Nếu như ngộ được Vô Sinh, lẽ ra có thể ở lâu trong cõi Sa-bà, nhưng nếu chưa chứng được giai vị Bất Thoái thì khó trụ nơi cõi uế. Nếu khế ngộ được Vô Sinh thì Cực Lạc và Sa-bà không khác, chẳng cần nhàm chán cõi ô trược, ngưỡng cầu Tây Phương thanh tịnh. Nhưng nếu thân vẫn còn trong luân hồi, thì cần phải nguyện sinh cõi kia. Bồ-tát tuy trụ ở cõi uế, nhưng Lý và Giải đã thông, qua lại không còn cách trở. Hàng phàm phu chưa thành tựu thắng quán, tuy tạm thời dứt khổ, nhưng rồi vẫn trở lại dòng khổ đau. Do đó, xả bỏ cõi nhiễm, chẳng nuôi lớn tà sân; còn ưa thích Tây Phương, thì tà tham không khởi, đồng thời tương ưng với phân biệt huệ[44]. Bên trong gom chứa ba thiện căn[45], bên ngoài chiêu cảm sự trợ giúp của chư Phật. Sau khi bỏ báo thân ở cõi này, liền được hoa báu cõi Tịnh nghinh đón. Chớ sợ thần, ma, quỷ mà không nỗ lực tu trì chánh nghiệp.

2. Nghi vấn thứ 31: Nghiệp đạo như cán cân, thiện ác ắt có báo ứng. Từ lúc cảm nhận thân mạng đến nay, chúng sinh tạo ác rất nhiều, tại sao không nhận chịu quả báo mà được sinh thẳng về Tây Phương? Giả sử muốn được vãng sinh lẽ nào không bị chướng ngại?

Lạm bàn: Qủa có vậy. Trong Di Đà yếu giải Tổ Ngẫu Ích dạy rất hay:

"Công đức xưng danh chảng thể nghĩ bàn lẽ nào chẳng trừ được tội ư? Nhưng không nhất định được vãng sinh, bởi lẽ điều lành hờ hững tán loạn sẽ khó thể chống lại tội lỗi tích tập từ vô thỉ. Hãy nên biết rằng tội lỗi đã tích tập nếu có thể tướng thì tận cùng cõi hư không chẳng thể chứa đựng được. Dẫu suốt cả trăm năm, mỗi ngày đêm niệm mười vạn tiếng, mỗi tiếng diệt tội tám mươi ức kiếp thì tội được diệt giống như đất đọng trên móng tay, còn tội chưa diệt giống như đất trong đại địa. Chỉ trừ niệm Phật đến nhất tâm bất loạn sẽ giống như người mạnh mẽ đột phá vòng vây xông ra, ba quân chẳng còn có thể khống chế người ấy."

Lại dạy: "Cõi Tịnh độ thù thắng là do đới nghiệp vãng sinh, vượt khỏi tam giới theo chiều ngang, cõi Đồng cư theo chiều ngang trọn đủ bốn cõi, khai triển pháp luân tứ giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), chúng sinh thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh độ, thấy trọn vẹn ba thân, chứng trọn vẹn ba thứ Bất thoái. Nhân dân đều thành Phật trong một đời. Những sự thù thắng lạ lùng, siêu việt, tuyệt diệu như thế, hãy nên nghiên cứu kỹ lưỡng."

Nói rằng Nhất tâm chính là một niệm nhất tâm. Vì sao? Vì đã thành tựu được một niệm nhất tâm quy về Tịnh độ thì vì cõi Tây Phương chẳng còn có đến khái niệm không gin và thời gian, là cảnh giới "một là tất cả, tất cả là một; một dung hợp tất cả, tất cả quy về trong một" nên một niệm chẳng còn đo đếm về thời gian như cõi Ta bà này, mà một niệm là vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp; thành tựu một niệm Nhất tâm quy hướng Tịnh độ nhất định vãng sinh. Hãy tin chắc như thế!

Đáp: Hễ tạo nghiệp thì nhất định phải nhận quả báo khổ vui. Đã đồng là phàm ngu thì cái nhân tội lỗi chồng chất lâu ngày ấy không thể nói là không có. Ngày nay thọ nhận được báo thân người, nghiệp ác ấy đoạn trừ hết chưa? Nếu cho rằng đã đoạn hết, thì nay đâu còn ác để đoạn trừ. Nếu như chưa diệt sạch, thì tại sao không chướng ngại nhân thọ sinh?

Nay hành giả Tam Giai! Lúc thọ nhận thân mạng này, các nhân ác chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên ác kia không thể ngăn ngại, đến khi thiện căn đã hết thì sẽ phải thọ lãnh quả khổ. Cần phải nói lại rằng: Tuy ác nghiệp chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên không mất việc chiêu cảm thân người, lại nhờ Tịnh nghiệp chuyển mạnh thì làm sao có thể ngăn ngại được việc vãng sinh! Vì sao? Bởi vì Tam Quy, Ngũ Giới chỉ là nhân thiện hữu lậu, nên vẫn bị điên đảo mộng tưởng dẫn dắt gá vào thai mẹ. Hạnh thấp kém này mà nghiệp ác còn không thể ngăn ngại, cho nên mới được thân người. Huống gì sức của nghiệp ác đã không mạnh, lại còn nhờ chánh hạnh từ quá khứ và sự phát tâm hiện tại, nguyện đoạn tận gốc rễ khổ đau, thì tương lai sẽ làm Phật, niệm niệm tinh tấn nguyện sinh Tây Phương. Khi báo thân này hết, có các Bồ-tát từ bi xót thương đến hộ niệm, khiến trụ vào chánh niệm, được thấy Thánh chúng trước mặt, chỉ khao khát muốn được vãng sinh, nhờ nhân duyên thù thắng này, cho nên vãng sinh được dễ dàng. Do đó, chớ nên hoài nghi mà không tinh tấn tu tập tịnh nghiệp!

3. Nghi vấn thứ 32: Căn cứ vào việc tu hành ngày nay, mọi người đều lấy học hỏi kinh điển làm tông thú, chỉ niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà thì trở thành kiến chấp, lại chướng ngăn thánh đạo, không thoát khỏi luân hồi, tại sao không lìa bỏ pháp môn tu riêng này để tu học tất cả các hạnh?

Lạm bàn: Kinh Niệm Phật Ba la mật, đức Từ tôn có dạy:

Muốn vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực ... không thể nghĩ bàn".

Vậy nên chướng ngăn không phải do lỗi ở pháp mà là lỗi ở tâm. Nếu tâm đã có chướng ngại thì tu nhiều pháp môn, học nhiều hạnh, lại càng gây thêm chướng ngại nơi tâm mà thôi.

Hơn nữa, danh hiệu Phật vốn là Không tánh, Không dính mắc, Vô cấu nhiễm; làm sao có thể đổ lỗi do niệm Danh hiệu Phật mà thành kiến chấp được.

 

Đáp: Tu học khắp các hạnh là lợi ích rất lớn, bậc hiền trí thông đạt mới có khả năng lĩnh hội; kẻ trí cạn sức hèn, khó mà kham nổi. Do đó, đức Phật tùy theo cơ duyên chỉ dạy chúng sinh tu pháp môn riêng này, vì hợp với căn tánh, không tổn hại đến lý. Nếu nương vào pháp môn riêng biệt này làm nhân để tu tập thì thành tựu hành nghiệp rộng lớn.

4. Nghi vấn thứ 33: Muốn tu đạo lớn trước phải biết rõ nhân của khổ, truy xét nguồn gốc khổ đau đều do nghiệp ác mà khởi ra các cảnh ác. Ở cõi Sa-bà này không hiểu được lý tánh, lý tướng của chư Phật, nên tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác. Tất cả chúng sinh có hai đặc điểm: Một là Thật Báo. Hai là Ứng Hình. Thật Báo tức chân thể, Phật tánh; hình tướng tức phổ thân[46]. Bởi vì chúng sinh mê bản thể, cho nên nơi Như Lai Tạng vọng khởi tâm tham, sân, si. Hình tướng tuy có sai khác, nhưng Phổ thân thì chỉ một. Do chúng sinh cách đời khác thì không còn nhận biết nhau, rồi vọng khởi lên tâm yêu ghét, thường đối với cha mẹ Phật tánh, mà tạo các hạnh sát, đạo, dâm v.v… Các bậc Thánh Tam Thừa thương xót chúng sinh, ứng hiện thân đồng phàm phu, nhưng chúng sinh mê mờ không nhận biết, liền khinh thường, bức bách, làm tăng trưởng duyên ác. Do trước kia không biết rõ, bèn sinh mộng tưởng đảo điên. Ngày nay được khai ngộ, đối cảnh liền nhớ nghĩ đến lỗi lầm, cho nên diệt trừ tội ác đã làm, không cho phát sinh lỗi lầm mai sau. Nhưng ở cõi này sám hối, mọi tội lỗi có thể tiêu trừ, còn nhàm lìa cõi Sa-bà, thích sinh về Tịnh Độ, lẽ nào không còn oán kết ư?

Lạm bàn: Câu hỏi này giải đáp bởi hai ý:

Thứ nhất, nếu nói cõi này sám hối, mọi tội lỗi có thể tiêu trừ; cái đó chưa chắc. Vì sao? Vì cõi này uế trược điên đảo, nghiệp ác dễ phạm, hạnh lành khó tu. Sám hối tuy tiêu trừ được tội, nhưng không đảm bảo sẽ không gây thêm tội mới. Đó là chưa kể vô thường mau chóng, kiếp này dang dở, kiếp sau chưa chắc sẽ tiếp tục sự nghiệp tu hành đã tiếp tục.

Thứ hai, oán kết cũng là nhân duyên. Được sinh về Tịnh độ, một đời thành Phật, quay về Ta Bà độ khắp kẻ oán, người thân. Đó chẳng phải là thực hành Bi nguyện của chư Phật hay sao?

Đáp: Muốn đạt được đạo lớn cần cắt đứt nguồn gốc khổ đau, dứt trừ nguồn gốc khổ đau không gì hơn đoạn sạch hết các lỗi ác. Nơi tạo ra oan khiên chính ở cõi Sa-bà. Chất chứa những oán hiềm, trở thành ái kết[47], ngày nay xét kỹ, đều do điên đảo mộng tưởng trói buộc. Vì muốn cho chúng sinh hiểu rõ chân thể là Phật tánh, hình tướng là Phổ thân, cho nên chư Phật từ bi mở bày phương tiện, ứng khắp trong sáu đường, hiện thân đồng phàm phu. Kiến giải như thế, mọi người đều biết, nhưng luận về khởi hạnh tu tập thì hoàn toàn không. Vì thế hiểu biết thì dễ, nhưng thực hành lại khó.

Chỉ nên nghĩ tưởng pháp môn này chân thật không hư dối, khởi tâm sám hối những tội ác đã làm, và nguyện không phạm những lỗi ở mai sau, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, và tu tất cả pháp môn, hồi hướng vãng sinh Tịnh Độ, khẩn cấp như cứu lửa cháy đầu. Cõi này là chốn trầm luân, thở than muôn kiếp lạc đường, hãy an tâm nơi Cực Lạc, chứng quả Vô Sinh, thành tựu được hạnh tự lợi rồi, nên trở lại cõi Sa-bà, mở lòng đại bi giáo hóa chúng sinh, bình đẳng cứu giúp mọi loài, không dừng lại giữa đường, không rẽ sang lối khác. Chỉ vận tâm khởi niệm: Trước vì đáp trả oán thù xưa, nguyện xả bỏ nhân khổ đau, cùng nhau sinh về Cực Lạc, khi họ đều đã lĩnh hội, liền xả bỏ được oán hiềm. Không nên do đây mà mãi ôm giữ mối nghi!

5. Nghi vấn thứ 34: Ngày nay cách Phật quá xa, hàng phàm ngu thấp kém, cần phải lễ sám Bồ-tát Địa Tạng, một vị Bồ-tát có duyên với chúng sinh ở cõi này, lẽ ra phải chuyên niệm danh hiệu Ngài và niệm Tam Bảo. Niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà ở Tịnh Độ là pháp môn tu hành của hàng thượng căn, và hàng căn cơ Đệ Nhị Giai[48] mới có khả năng phát khởi niệm. Chúng sinh nay đã ở vào thời ác trược, tánh dục thấp hèn, làm sao thực hành được pháp môn tu tập của các bậc thượng căn? Bậc thượng căn tu học pháp của hàng hạ căn thì không hợp và chậm tiến đạo; còn hàng hạ căn tu tập pháp của bậc thượng căn thì chướng đạo, chịu khổ mà thôi. Pháp môn tu tập và căn cơ đã không khế hợp nhau thì có thể thành tựu được ư?

Lạm bàn:  Nên biết rằng pháp môn Tịnh độ trên giáo hóa đến bậc Đẳng giác Bồ tát, dưới độ cả chúng sinh dưới A tỳ ngục, thâu tóm ba căn: Thượng trung hạ, giáo pháp bao trùm năm thời, sao lại nói pháp môn và căn cơ không khế hợp nhau. Để dứt nghi, xin đưa ra các dẫn chứng cụ thể, được trích trong sách Mấy điệu sen thanh của Hòa thượng Thích Thiền Tâm:

BẦN PHỤ

Bần Phụ, huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang có một bần phụ, chưa được rõ tên họ. Nhà bà quá nghèo, con trai lại bất hiếu, nên thường bị nó la rầy mắng chửi.

Một hôm sau khi bị con thét mắng, bà khổ sở khó nhẫn nại, sang tỏ bày than khóc với vị Tăng ở chùa gần bên. Vị Tăng bảo: "Bà đã biết khổ, sao không bán nó đi!". Bần phụ đáp: "Ai mua sự khổ, làm sao mà bán!". Tăng sĩ nói: "Nếu bà chí thành chuyên niệm hồng danh đức A Di Đà, cầu sanh Tây phương, thì khi mãn phần chắc chắn được Phật tiếp dẫn về cõi Cực lạc. Từ đó sẽ vĩnh lìa khỏi các nỗi khổ, thuần hưởng những điều vui. Đó gọi là cách bán khổ!". Bà thưa: "Mẹ con tôi cùng ở chung một gian chòi lá, góc nhà là bếp nấu ăn, dưới giường còn làm chuồng lợn. Cảnh hỗn tạp nhơ uế như vậy, làm sao niệm Phật?". Vị Tăng đáp: "Không ngại chi, đức Như Lai đại từ đại bi, tùy duyên phổ độ, chỉ dụng tâm thành chớ không nệ hình thức. Vậy lúc rảnh bà hãy tới chùa l bái, còn khi ở nhà chỉ thường chuyên niệm Phật cầu nguyện vãng sanh cũng được". Bần phụ vâng theo lời dạy, vì lòng tha thiết mong thoát khổ nên niệm Phật không xen hở.

Ba năm sau, vài tháng trước khi qua đời, bà bảo con rằng: "Đến ngày tháng ấy, mẹ sẽ sanh về Tây phương. Vậy con chớ nên đi vắng, phải ở nhà lo hậu sự cho tròn tình mẫu tử!". Đứa con tỏ vẻ không tin, bà liệu biết nên sau lại dặn dò đôi ba phen nữa. Vài hôm trước khi bần phụ mãn phần, đứa con bỗng nghe mùi hương lạ, tỏa thơm bát ngát. Chạy tìm xem khắp xung quanh chẳng thấy ai đốt hương, nó ngạc nhiên không biết mùi thơm từ đâu đến. Bỗng nhớ tới lời mẹ dặn, đứa con nghĩ biết đâu là sự thật, bèn ở nhà chờ. Đến ngày kỳ hạn, nó thấy mẹ nấu nước tắm gội, thay y phục sạch sẽ. Xong xuôi bà ngồi nơi giường, xây mặt về phương Tây niệm Phật một lúc rồi tắt hơi. Lúc ấy nhằm vào khoảng năm Dân Quốc thứ mười.

TIỂU VƯƠNG

Tiểu Vương nguyên là gia nô của cư sĩ Tôn Hậu Tại quê quán tỉnh Hồ Bắc. Vì y vốn họ Vương, lại thuộc thân phận thấp nhỏ của một đứa ở, nên mọi người đều gọi là Tiểu Vương. Tôn cư sĩ gia thế thờ Phật, sau dời về cư ngụ ở Thượng Hải. Tiểu Vương cũng đi theo chủ.

Giúp việc lâu năm nơi nhà Tôn Hậu Tại, được ảnh hưởng về sự tu hành, Tiểu Vương cũng lần lần thấm nhuần, rồi phát tâm niệm Phật. Y vốn có tật cà lăm, nói năng chậm chạp, khó khăn, nên ban sơ niệm Phật không thành câu. Song với tâm chí thành, y vẫn cố gắng trì tụng. Như thế được mấy năm, một đêm Tiểu Vương mộng thấy có người nắm lưỡi của mình kéo ra thật mạnh, tâm sảng sốt cảm giác rất đau. Khi tỉnh giấc, tật cũ dứt trừ, nói năng lanh lẹ thông suốt, câu niệm Phật cũng rõ ràng rành rẽ. Do đó lòng tin nguyện của y rất sâu thiết, sự trì niệm càng chuyên cần. Tiếp tục tu hơn hai năm, thì không thấy Tiểu Vương niệm Phật nữa. Có người hỏi duyên cớ, y đáp: "Tôi niệm Phật đã thành một khối, nay không niệm mà vẫn tự niệm, nên không cần phát ra tiếng, chỉ khởi ý giữ cho câu hồng danh thầm liên tục chẳng đứt đoạn mà thôi".” Mọi người nghe nói cũng không mấy lưu tâm, để cho y tùy tiện. Tình trạng mặc niệm như thế, lại tiếp tục thêm năm độ xuân thu nữa..nguoiphattu.com

Một hôm Tiểu Vương gọi đứa con trai mười lăm tuổi, đang ngụ cư ở học đường về nhà bảo: "Hôm nay cha sắp đi, con nên giúp sức niệm Phật để tin đưa một lần cuối!". Mọi người thấy y vẫn bình thường, chẳng tỏ ra chút chi đau yếu, đều không tin, chỉ nhìn nhau mỉm cười. Tiểu Vương biết ý, bảo: "Tôi nói thật đấy, chẳng phải là lời đùa cợt bông lông đâu!". Có kẻ hỏi: "Chú nói đi, mà đi về nơi nào?". Đáp: "Về nhà!". Lại gạn hỏi: "Nhà nào, ở đâu?". Đáp: "Quê nhà cũ, tức là thế giới Cực lạc ở Tây phương!". Trong ấy có một vị sanh lòng tin bảo: "Con của chú hãy còn nhỏ dại, nên lưu lại thêm ít năm nữa để chiếu cố, nó mới có thể thành lập được!". Tiểu Vương nói: "Thời tiết đã đến, tôi không thể lưu trụ, thôi mọi việc đều phó cho nhân duyên!". Nói xong, bảo con đồng thanh niệm Phật với mình. Mọi người đều đứng yên, lặng lẽ nhìn xem sự thể diễn tiến ra sao? Lúc ấy Tiểu Vương ngồi ngay thẳng trên giường niệm Phật. Kế đó bỗng hắt hơi hai tiếng, hiện tướng ngọc trợ hạ thùy, rồi nhắm mắt đi thẳng. (Tức là hai dòng nước mũi trắng đặc thòng xuống, một biểu tượng của bậc xả thân thăng hóa).

Hôm sau vào buổi chiều tối, cư sĩ Tôn Hậu Tại cho đem di hài làm thiêu hóa nơi chùa Lưu Vân. Lúc cử hỏa, đống củi liền bừng cháy, khói trắng xông thẳng lên hư không. Trên ngọn lửa hiện ra một đóa sen to lớn sáng rỡ chập chờn, càng lúc càng đẹp rõ, cho đến khi lửa tắt. Sáng ra kiểm lại, trên tro xương cũng hiện nét tướng hoa sen rành rạnh in như vẽ. Bấy giờ nhằm năm Dân Quốc thứ mười sáu.

Hai ví dụ trên, một nam một nữ ở hạng bần cùng thấp kém, sức học chẳng có, chỉ do lòng tin thuần khiết mà nhập đạo, vãng sinh Tịnh độ; đâu có thể hạng hạ căn công phu niệm Phật luống uổng?

Đáp: Những điều ông nêu ra thật cũng hợp với kinh giáo, bởi nếu tu tập chưa lâu thì sẽ phát khởi mối nghi này. Nhưng muốn dứt nghi, thì cần phải mở ra pháp tu thiết cận. Ở đây xin lược nêu hai nghĩa: thứ nhất là dẫn Thánh giáo; thứ hai là phân tích nghĩa môn.

* Dẫn thánh giáo:

Nói về Thánh giáo thì rất nhiều bộ loại, nếu chép ra nhiều, thật khó nghiên cứu, ở đây chỉ trích dẫn sơ lược năm đoạn kinh quan trọng để nêu lên những điều hi hữu, ít thấy, nghe:

1. Kinh Đại Tập Hiền Hộ ghi: “Phật bảo Hiền Hộ: ‘Sau khi Như Lai Niết-bàn, các đệ tử hãy lưu truyền môn tam-muội này. Các Tỳ-kheo xấu ác, không thể tin thọ, cho là lời của ngoại đạo, lời của ma’Phật lại bảo Hiền Hộ: ‘Khi Tỳ-kheo làm việc xấu ác, khi các nước đánh nhau, hủy báng lẫn nhau, khi chúng sinh ở trong ác trược thì bốn chúng đệ tử[49] có khả năng lưu truyền pháp này để làm lợi ích chúng sinh”.

2. Kinh Dược Sư ghi: “Bồ-tát Văn-Thù vì chúng sinh thời Tượng pháp[50] mà thỉnh: bốn chúng đệ tử cầu vãng sinh Tây Phương, nhưng tâm không quyết định thì niệm danh hiệu Dược Sư, liền đoạn trừ được lưới nghi, đến khi sắp chết có tám vị Bồ-tát dẫn dắt vãng sinh”.

3. Kinh A-Di-Đà ghi: “Chư Phật ở các phương khác đều khen ngợi Đức Phật Thích-Ca ở trong cõi Ngũ trược[51] lại nói được pháp khó tin nhận, chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài nói lời chân thật để xác chứng”.

4. Quán Kinh ghi: “Hoàng hậu Vi-Đề-Hi vì những chúng sinh bị năm ác trược bất thiệnnăm nỗi thống khổ bức bách, thỉnh Phật giảng pháp môn Niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Lại nữa, trong ba phẩm thuộc bậc hạ, toàn là những hạng người tạo nghiệp ác, cũng đều được vãng sinh”.

5. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Thích-Ca vì chúng sinh trong cõi Ngũ trược mà thuyết pháp, giúp chúng sinh xa lìa năm việc xấu ác, trừ năm nỗi thống khổ, diệt năm ngọn lửa đốt thân[52]Lại, vào đời sau, khi các kinh Phật bị hủy diệt hết, Như Lai vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu truyền một bộ kinh này, lưu trụ lại trăm năm. Bấy giờ, chúng sinh khởi lên một niệm tín thọ liền được vãng sinh về Cực Lạc”.

Nghi vấn thứ 35: Các đoạn kinh được trích dẫn chính thật do Phật nói, hoàn toàn không hư dối, nhưng chưa biết đó là pháp môn phương tiện hay là giáo lý rốt ráo?

Lạm bàn: Theo ngu ý của tôi, vì đức Phật trụ nơi đệ nhất nghĩa đế mà nói kinh này thì đều là lời chân thật. Còn là pháp môn phương tiện hay giáo lý rốt ráo thì do nơi người tiếp nhận mà thôi.

Vì sao vậy? Nếu người nhận pháp, y như pháp tinh tấn tu hành, nhất tâm bất loạn quyết định vãng sinh thành Phật thì đương nhiên là giáo lý rốt ráo.

Nếu người nhận pháp tiếp nhận hời hợt, tu hành biếng nhác, chẳng phát khởi Tín Nguyện chân thật, thì nhất định hẳng được vãng sinh, thoát khỏi tam giới; chỉ là gieo chút nhân duyên giải thoát cho đời sau nên gọi đó là pháp phương tiện.

Xin tự mình suy xét kỹ.

Đáp: Lời ông hỏi rất đúng. Các kinh giáo được viện dẫn đều là pháp môn rốt ráo. Vì sao? Vì nếu là giáo bất liễu nghĩa thì Phật đã giải thích rõ nơi hội Niết-bàn. Nhưng pháp môn Tịnh Độ này đã chẳng còn gì nghi để hỏi nơi Song Thọ. Hơn nữa, chư Phật trong mười phương đều đã xác chứng. Căn cứ vào hai nghĩa này, cho nên đây chẳng phải là pháp phương tiện. Trên là trích dẫn sơ lược Thánh giáo để trình bày nhân của giáo thuyết.

* Trình bày nghĩa môn:

Giải thích sơ lược môn, để trừ bỏ mối nghi. Nhất âm[53] diễn xướng thì mỗi mỗi căn cơ liễu ngộ khác nhau. Tuy có muôn ngàn sai khác, nhưng đều được khế ngộ. Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện rộng lớn vào cõi ác cứu độ chúng sinh. Đức Phật A-Di-Đà dùng lòng đại bi chỉ trong mười niệm tiếp dẫn hàm linh. Nếu không cầu vãng sinh Tịnh Độ e rằng sẽ rơi vào ba đường ác. Niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng là mong cầu cứu khổ. Nay khuyên chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, phát nguyện vãng sinh Tây Phương, khi mạng sống sắp hết, chư Phật liền đến tiếp dẫn; đã được vãng sinh Tịnh Độ, bặt dứt ba đường, không còn nếm chịu các khổ não, không nhọc công cầu xin cứu vớt. Tông chỉ của Tam giai giáo là tùy theo thời cơ mà nói, sau 1.500 năm không có người tu Tịnh nghiệp, giả sử có người tu tập, các hạnh đều thành tựu, đó là hạng Đệ nhị giai chứ chẳng phải là hàng phàm phu thấp kém. Nay xét ý này, thì hành nhân vừa nói chỉ gồm phẩm Thượng và Trung trong ba phẩm. Còn pháp môn Tịnh Độ, định - tán [54] đều chung, tác nghiệp[55] cạn hay sâu đều được vãng sinh Cực Lạc. Từ hàng xuất gia thanh tịnh hay kẻ tại gia tôn quý ở nơi vắng lặng, tâm trí không loạn, tu tập quán nghiệp, nhất định vãng sinh. Những người chẳng màng vinh hoa, chẳng để tâm đến các việc công tư, chẳng tham việc thế tục, siêng năng học hỏi, tu tập đạo nghiệp, đầy đủ tán nhân[56] ba phước[57], nhất định vãng sinh Cực Lạc. Người thiếu thốn của cải, công việc trói buộc, nhưng quyết một lòng tu hành, cũng được vãng sinh. Người đời nay gây tội, cho đến kẻ Nhất-xiển-đề khi mạng sống sắp hết, bị các thứ khổ bức bách, bỗng nhiên gặp được thiện hữu tri thức, hướng dẫn niệm danh hiệu Phật, tướng ác được tiêu trừ, liền vãng sinh Cực Lạc. Bậc thiện căn Đại Thừa, từ người suốt đời không tạo lỗi, cho đến bậc hồi hướng chung tâm[58], căn cứ vào tác nghiệp cạn hay sâu mà phân làm ba phẩm bậc Thượng. Người căn cơ Tiểu Thừa, từ thiện thú[59] cho đến Thế Đệ Nhất Pháp[60], chia làm ba phẩm bậc Trung. Hạng thuộc căn cơ Đại Thừa hay Tiểu Thừa, căn cứ theo lỗi nặng nhẹ, phân làm ba phẩm bậc Hạ. Đây là do tu đạo cạn hay sâu, tạo ác nặng hay nhẹ, nhưng đều phát tâm Bồ-đề, nguyện vãng sinh Tịnh Độ, tùy theo nghiệp nhiều ít mà đều được vãng sinh. Không thể chấp lệch một bề, hủy báng nghi ngờ Tịnh nghiệp.

Lại nói, thời ác trược ngày nay không thích hợp cho người niệm Phật, nguyện cầu vãng sinh Tịnh Độ. Lời này thật thiển cận! Kinh Vô Lượng Thọ (Đại Bản) ghi: “Khi kinh Phật diệt hết, Đức Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu lại kinh này một trăm năm. Lúc bấy giờ, chúng sinh nghe danh hiệu Phật mà phát khởi niềm tin, đều được vãng sinh Cực Lạc”. Ý muốn nói Như Lai thuyết giáo để làm lợi ích chúng sinh có thời hạn. Sau 10.000 năm mạt pháp, các kinh khác hoàn toàn diệt hết, chỉ có kinh A-Di-Đà làm lợi ích vô số chúng sinh, cho nên đức Phật chỉ lưu lại kinh này trăm năm. Bấy giờ đã trải qua 10.000 năm thời mạt pháp, tất cả các kinh đều diệt hết, đức Phật Thích-ca có ân đức lớn thương xót chúng sinh lưu lại giáo pháp 100 năm. Lúc ấy, người tu liền được vãng sinh Tịnh Độ, tại sao còn nghi ngờ mà không phát nguyện vãng sinh? Xét rõ văn kinh này, đủ để trừ bỏ mối lo, chớ ôm giữ kiến chấp trong lòng mà không dung thông được các kinh.

Phần 12

Căn cứ vào luận Nhiếp Đại Thừa để dung thông nghĩa Biệt Thời[61]. Luận ghi: “Chỉ cần phát nguyện liền được vãng sinh về cõi An lạc. Đó là nghĩa Biệt Thời”.

Nghi vấn thứ 36: Luận Nhiếp Đại Thừa cho đó là Biệt Thời. Nay kinh này dạy niệm Phật liền được vãng sinh thì thế nào?

Lạm bàn: Xin tham khảo thêm nghi vấn thứ 23 cũng trong chương III này.

Trong Kinh A Di Đà, đức Bổn sư nhắc đi nhắc lại: “Cõi đó thành tựu công đức trang nghiêm như thế đó”.

Là ĐÃ THÀNH: Nghĩa là tỳ kheo Pháp Tạng tu vô lượng kiếp Đã thành tựu được Thân–Cõi Tây Phương Cực Lạc như thế.

Một phần nơi tự tánh của ta đã được đức Phật A Di Đà thành tựu trang nghiêm như vậy, một niệm tương ưng một niệm Phật tức là một niệm sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, một niệm sanh về cõi Tây Phương là một niệm trở về với phần tự tánh ấy, khi ấy tức là biến công đức của Phật A Di Đà thành công đức của mình.

Lại nữa, mỗi niệm tương ưng mỗi niệm Phật thì chính niệm ấy ta đã sinh qua cõi Tây Phương, chứng nhập được Thân Cõi thành tựu trang nghiêm như vậy, là ĐÃ Sinh, chẳng phải là sẽ sinh hay đang sinh. Sau khi hết báo thân, sinh về cõi Tây Phương sẽ thấu suốt nguồn tâm, tự tánh hiển lộ hoàn toàn thì gọi là thành Phật.

Đó là 2 nghĩa Tổng thời và Biệt thời vậy.

Đáp: Nghĩa Biệt thời của Nhiếp Luận và pháp môn Tịnh Độ đâu có gì khác nhau. Vì sao? Bởi vì khi phát nguyện chưa thể vãng sinh ngay, nhưng từ tâm phát nguyện mà khởi hạnh niệm Phật mới thành tựu Tịnh nghiệp. Trước nguyện, sau hạnh nên nói là Biệt Thời, chứ không phải cho rằng niệm Phật không vãng sinh ngay được.

Phần 13

Dung thông với kinh Pháp Hoa. Kinh ghi: “Nếu người tâm tán loạn đi vào trong tháp miếu, vừa niệm Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo”.

Nghi vấn thứ 37: Người tâm tán loạn niệm danh hiệu Phật thì chưa thành tựu quả Phật ngay (chỉ mới thành tựu Phật đạo). Còn người một đời niệm danh hiệu Phật, tại sao lại vãng sinh về cõi Tịnh?

Đáp: Tâm tán loạn xưng niệm liền thành Phật đạo, bởi Phật đạo là nhân, thật không hư dối. Niệm Phật vãng sinh cõi Tịnh, tức khi báo thân hết sẽ sinh về, cũng đâu có sai?

Lạm bàn: Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Pháp môn Niệm Phật Trì danh vi diệu ở chỗ nhân quả đồng thời không sai khác, giống như hoa sen; nên Tịnh tông còn được gọi là Liên tông. Mỗi một niệm Phật gồm đủ Tín Nguyện thì ngay chính mỗi niệm ấy đã thành Phật. Vì thế đức Thích Ca trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy: Thiện nam tử, thiện nữ nhân vừa phát nguyện vãng sinh tức là đã sanh nơi cõi Tây Phương chứ chẳng phải là sẽ sanh hay đang sanh.

Phần 14

Trình bày sơ lược về phương pháp tu tập.

Nghi vấn thứ 38: Đã rõ niệm Phật để làm nhân vãng sinh, nhưng chưa biết phải hiểu như thế nào? Phương pháp chân chánh niệm Phật ra sao?

Đáp: Xét từ quá khứ vô biên vô số kiếp, dẫu kẻ có tu nhân thì hư dối nhiều mà chân thật ít, chỉ cầu danh lợi, vọng chấp nhân ngã: Dù họ có làm nhiều thiện duyên cũng không phải vì chánh lý, do đó phải bị trôi lăn trong đường ác, chịu khổ vô cùng. Đức Thánh Chủ A-Di-Đà để lại danh hiệu nhiếp hóa chúng sinh đời sau, Ngài đã thành tựu quả Phật trải qua mười kiếp. Còn bọn chúng ta ngu si, chỉ biết tham làm điều ác, tuy học Phật pháp mà chỉ cầu danh hiện đời; tự cho mình đúng còn người khác là sai; tâm thường ngạo mạn, tìm cầu cơm áo, ngày đêm nhọc nhằn; nếu có lúc rảnh rỗi thì chạy theo bạn ác. Giả như không gặp được bạn tốt thì làm sao nghe được cõi Tịnh? Một mai vô thường thì rơi trở lại con đường ác. Nay gặp được bậc đại thiện hữu tri thức có duyên với ta, dạy ta tư duy, bỏ những hạnh ác, được nghe bổn nguyện từ bi của đức Phật A-Di-Đà, từ mười kiếp đến nay thường hoằng hóa chánh pháp. Bởi ta bị nghiệp chướng nặng nề, nên ngày nay mới được nghe, trong lòng bi thương, vô cùng hổ thẹn, tham sân si sinh khởi dẫy đầy. Nhưng chỉ cần tu theo bốn cách để làm chánh nghiệp:

1. Tu thời gian dài, là từ khi phát tâm cho đến lúc thành Phật, luôn tạo nhân Tịnh Độ, không hề thoái chuyển.

2. Tu cung kính, ở đây lại có năm trường hợp:

- Cung kính những bậc thánh có duyên, nghĩa là khi đi, đứng, ngồi, nằm không quay lưng về phương Tây; hỷ mũi, khạc nhổ cũng không hướng về phương Tây.

- Cung kính tượng và giáo có duyên: Tượng là tạo biến tướng[62] Phật A-Di-Đà Tây Phương, nếu không vẽ được nhiều thì chỉ cần vẽ một hình đức Phật và một hình Bồ-tát cũng được. Giáo là như các kinh A-Di-Đà v.v… nên đựng trong đãy ngũ sắc, tự mình đọc tụng hoặc hướng dẫn mọi người đọc tụng. Những kinh và tượng này, nên an trí trong thất, sáu thời lễ sám, dâng hoa hương cúng dường, hết lòng cung kính tôn trọng.

- Cung kính các bậc thiện hữu tri thức có duyên, nghĩa là những bậc tuyên giảng giáo nghĩa Tịnh Độ, dù ở xa ngàn do-tuần[63], hay dưới mười do-tuần cũng đều cung kính tôn trọng, thân cận cúng dường. Còn đối với những người tu học pháp môn khác cũng đều khởi tâm cung kính, xem họ không khác với mình, chỉ biết hết lòng kính trọng. Nếu khởi tâm khinh thường thì phạm tội rất nặng. Cho nên, cung kính hết thảy thì trừ được chướng ngại cho công hạnh tu tập.

- Cung kính bạn đồng học, nghĩa là cung kính những người cùng tu Tịnh nghiệp với mình. Do nghiệp chướng của mình sâu dày, tự mình tu tập riêng biệt sẽ khó thành tựu, cho nên cần phải nương nhờ vào bạn tốt đồng tu mới có thể thành tựu đạo hạnh. Bạn bè đồng tu học nên cứu giúp những lúc hoạn nạn, phải hết lòng tương trợ, bảo vệ và tôn trọng lẫn nhau.

- Cung kính Tam Bảo: Biệt Tướng hay Đồng Thể Tam Bảo đều phải hết lòng cung kính. Ở đây không ghi chép, vì e người tu hành cạn cợt không thật nương vào đó để tu tập, nên chỉ trình bày sơ lược về Trụ Trì Tam Bảo để tạo nhân duyên lớn cho những hạng người ấy!

* Phật Bảo là những tượng Phật được chạm khắc bằng gỗ chiên-đàn, bằng vàng ròng, ngọc, hay thêu dệt trên lụa, hay tạo bằng đá, đất. Phải hết lòng cung kính những linh tượng này, rồi quán tướng để tiêu tội, tăng phước. Nếu khởi một mảy tâm khinh thường thì tội ác tăng trưởng, mất hết thiện căn, chìm mãi đường ác. Chỉ cần quán tưởng tượng Phật thì tương lai sẽ thấy chân Phật.

* Pháp Bảo là giáo chỉ Tam thừa của Phật, được lưu thông khắp pháp giới, được danh cú diễn đạt, là duyên phát sinh giải ngộ, cho nên cần phải trân trọng kính ngưỡng. Vì là nền tảng phát khởi trí tuệ, nên sao chép tôn kính, thường bảo quản trong hòm, an trí trong tịnh thất thật trang nghiêm. Mỗi khi đọc tụng, thân tâm phải thanh tịnh.

* Tăng bảo là thánh tăng Bồ-tát, đối với những người phá giới cũng nên bình đẳng khởi tâm cung kính, chớ sinh tâm khinh thường.

3. Tu không gián đoạn: Nghĩa là thường xuyên niệm Phật, phát tâm cầu vãng sinh, bất cứ lúc nào cũng khéo léo quán tưởng. Giống như có người bị bắt giam, làm kẻ tôi tớ, chịu đủ mọi cay đắng nhọc nhằn, bỗng nhớ đến cha mẹ, muốn trốn về quê cũ, nhưng hành trang chưa đủ, phải ở lại quê người, ngày đêm suy nghĩ, khổ đau tột cùng, không lúc nào không nhớ đến cha mẹ. Đến khi sự việc đã thành, liền được trở về quê, gần gũi cha mẹ, mặc tình vui sướng. Hành giả cũng vậy, trước kia do nhân phiền não làm nhiễu loạn thiện tâm, tài sản phước trí đều tan mất, đắm chìm lâu ngày trong sinh tử, bị phiền não khống chế, không được tự do, thường làm tôi tớ cho Ma vương, dong ruỗi trong sáu đường, đau đớn thân tâm. Nay gặp được duyên lành, chợt nghe được danh hiệu đức từ phụ A-Di-Đà, không trái với nguyện lớn, nguyện cứu vớt quần sinh, nên ngày đêm dốc lòng phát nguyện vãng sinh. Cho nên chuyên cần, không mệt mỏi, biếng trễ, luôn nhớ nghĩ ân Phật, tâm thường giữ chánh niệm đến hết báo thân này.

4. Không tu pháp môn khác: nghĩa là chuyên tâm cầu sinh Cực Lạc, lễ bái xưng niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà, không được xen lẫn vào các pháp môn khác, hàng ngày cần phải tu tập như vậy, niệm Phật tụng kinh, không hành các khóa lễ khác.

 


 

[1]Ba thừa: ba xe, từ ngữ nầy dụ cho ba pháp môn chuyên chở chúng sinh vượt qua sinh tử đến Niết-bàn.

Y cứ vào căn cơ chúng sinh có độn căn, trung căn và lợi căn khác nhau, Đức Phật nói ba thừa là Thanh Văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.

- Thanh Văn thừa: nhờ nghe âm thanh thuyết giáo của Phật mà ngộ được đạo. Hàng Thanh Văn biết khổ, đoạn tập, ưa diệt, tu đạo, dùng Tứ đế làm thừa.

- Duyên giác thừa: quán 12 nhân duyên, giác ngộ lý Chân đế. Bắt đầu quán vô minh cho đến lão, tử, do nhân duyên sinh diệt này mà ngộ chẳng sinh chẳng diệt, cho nên lấy 12 nhân duyên làm thừa.

- Bồ-tát thừa: cầu Bồ-đề vô thượng, nguyện độ tất cả chúng sinh, tu sáu độ, lấy sáu độ này làm thừa.

Hai thừa trước chỉ tự lợi, không lợi tha, nên gọi chung là Tiểu Thừa; còn Bồ-tát thừa đủ cả tự lợi, lợi tha nên thuộc về Đại Thừa.

[2] Tướng hảo: tướng quý và vẻ đẹp của thân Phật.

- Tướng là phần rõ ràng dễ thấy nơi nhục thân Phật, gồm có 32 tướng.

- Hảo là phần vi tế khó thấy nơi nhục thân Phật, gồm 80 điểm.

Chuyển Luân Thánh vương cũng có 32 tướng, nhưng 80 vẻ đẹp thì chỉ Phật và Bồ-tát mới có. Trong thời gian 100 đại kiếp ở đời quá khứ, Phật đã tu nghiệp tướng hảo cho nên đời này thành tựu thân tướng hảo.

[3] Phiền não chướng và Sở tri chướng: Hai chướng ngại do phái Du-già, tông Pháp Tướng phân loại.

1. Phiền não chướng: Do chấp ngã mà sinh ra, vì tất cả các hoặc tham, sân, si… phát nghiệp nhuận sinh phiền nhiễu thân tâm loài hữu tình, khiến sinh tử mãi trong ba cõi, năm đường, chướng ngại quả Niết-bàn.

2. Sở tri chướng (còn gọi là Trí chướng): do chấp pháp mà sinh ra, vì các hoặc tham, sân, si… làm ngu si mê mờ, chướng ngại diệu trí Bồ-đề, khiến không thể rõ biết sự tướng và thật tính các pháp.

[4] Hóa Thân: Đức Phật vì lợi ích cho chúng sinh mà hiện ra các hình tướng. Sinh thân của Đức Phật đầy đủ 32 tướng quý, cùng với Pháp Thân gọi chung là Nhị thân.

[5] Chỉ trì và Tác trì: hai phương diện của giới luật.

- Chỉ trì: Chỉ là ngăn chặn, tức ngăn chặn thân và miệng không làm và nói những điều ác. Chỉ trì là y vào Chỉ mà giữ gìn giới thể, dạy người chớ làm các điều ác, tức chỉ cho các điều mục của hai bộ giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

- Tác trì: tạo tác, tức khuyến khích thân, miệng và ý tạo tác các thiện nghiệp. Tác trì là y vào Tác mà giữ gìn giới thể, dạy người vâng làm các điều thiện.

[6] Khởi hạnh: những hạnh được phát khởi bằng ba nghiệp thân, miệng, ý. Nhờ tâm Bồ-đề mà phát khởi các hạnh nghiệp như thân lễ bái cung kính, miệng xưng niệm hồng danh, tán thán Phật, ý quán sát nhớ nghĩ. Nếu chí thành phát khởi ba hạnh nghiệp của thân, miệng, ý thì ngay hiện đời được nhiều lợi ích và vị lai được sinh về Tịnh Độ.

[7] Học giới: (Học giới thành tựu): tu tập ba tụ tịnh giới: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới để thành tựu giới Ba-la-mật. Một trong sáu thành tựu. Vì Bồ-tát muốn thành tựu sáu Ba-la-mật nên phải thực hành sáu việc, trong đó, nêu thực hành học giới lâu dài thì Giới Ba-la-mật sẽ được viên mãn.

[8] Hóa thành: dụ cho Niết-bàn của Tiểu Thừa chưa rốt ráo và không thật; còn Bảo sở dụ cho Niết-bàn của Đại Thừa, chỉ nơi an trụ rốt ráo chân thật.

[9] Nhị không : chỉ cho Nhân Không và Pháp Không, gọi chung là Nhân Pháp Nhị Không, Sinh Pháp Nhị Không. Nhân Không còn gọi là Ngã Không. Sinh Không là chỉ cho chân lý Nhân Ngã Không Vô. Hàng phàm phu vọng chấp năm uẩn là Ngã, cho là chủ tể, sinh ra phiền não gây các ác nghiệp. Vì để phá trừ vọng chấp này, Đức Phật nói lý năm uẩn Vô Ngã, cho rằng Ngã chỉ là sự kết hợp giả tạm của năm uẩn và không có chủ thể nhất định, gọi là Nhân Không. Pháp Không, tức nguyên lý của các pháp vốn không. Khi chưa đạt được lý Pháp Không, hàng Nhị Thừa vẫn chấp pháp năm uẩn là có thật; để phá trừ vọng chấp này Đức Phật nói Bát-nhã thâm huệ, giúp cho hàng Nhị Thừa thấy rõ tự tính của năm uẩn vốn không.

[10] Ấm ma: Ngũ ấm ma, hay Ngũ uẩn ma, là sắc thọ, tưởng, hành và thức; do Năm ấm tích tụ mà thành quả khổ trong sinh tử, như Ma vương có khả năng làm cho chúng sinh hữu tình chịu nhiều chướng hại.

[11] Bốn ma: (S. Catvãro mãrãh) bốn thứ ma cướp đi sinh mạng và huệ mạng của con người.

1. Uẩn ma, cũng gọi là Ngũ ấm ma, Ngũ chúng ma, tức là năm uẩn sắc, thọ tưởng, hành, thức chứa nhóm thành quả khổ sinh tử. Pháp sinh tử này có công năng cướp đi huệ mạng.

2. Phiền não ma, tức là 108 phiền não trong thân làm não loạn tâm thần của chúng sinh, cướp đi huệ mạng, làm cho không thành tựu Bồ-đề.

3.Tử ma, làm phân tán thân tứ đại của chúng sinh, gây ra sự chết chóc, làm cho người tu hành không thể kéo dài huệ mạng.

4. Thiên tử ma, cũng gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên tử ma: Ma vương ở từng trời thứ sáu của cõi Dục, thường làm hại việc thiện của người, ganh ghét pháp hiền thánh, gây ra những việc nhiễu loạn làm cho người tu không thành tựu được thiện căn xuất thế.

Trong bốn loại ma trên, ba loại ma trước thuộc nội ma, loại ma thứ tư thuộc ngoại ma.

[12] Vô Sinh Nhẫn: gọi đủ là Vô Sinh pháp nhẫn, Tu tập Vô Sinh nhẫn. Vô Sinh nhẫn là một trong ba nhẫn, nhẫn thứ tư trong năm nhẫn nói trong kinh Nhân Vương; tức quán lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động. Theo luận Du-Già Sư Địa, q. 74, Bồ-tát ở địa vị Bất thoái chuyển nương vào ba tánh: Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thật mà được ba loại Vô Sinh nhẫn.

1. Bản tánh Vô Sinh nhẫn: nghĩa là quán thể tánh của Biến kế sở chấp đều không, biết rõ bản tánh Vô Sinh.

2. Tự nhiên Vô Sinh nhẫn: nghĩa là quán các pháp Y tha do nhân duyên sinh, biết rõ chẳng phải tự nhiên mà sinh.

3. Phiền não khổ cấu Vô Sinh nhẫn: nghĩa là pháp tánh chân như của thật tánh các pháp an trụ vô vi và không tương ưng với tất cả tạp nhiễm, biết rõ xưa nay vắng lặng.

[13] Mười việc thiện: 1. Dùng bố thí để nhiếp độ kẻ nghèo nàn; 2. Dùng tịnh giới để nhiếp độ người phá giới; 3. Dùng nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ; 4. Dùng tinh tấn để nhiếp độ kẻ giải đãi; 5. Dùng thiền định để nhiếp độ kẻ loạn ý; 6. Dùng trí tuệ để nhiếp độ kẻ ngu si; 7. Nói pháp trừ nạn để độ kẻ bị tám nạn; 8. Dùng pháp Đại Thừa để độ kẻ ưa pháp Tiểu Thừa; 9. Dùng các pháp lành để cứu tế người không đức; 10. Thường dùng tứ nhiếp để thành tựu chúng sinh (phẩm Hương Tích, kinh Duy-Ma).

[14] Pháp nhẫn: cam chịu cảnh trái nghịch mà trong tâm không sinh khởi sân hận, một trong Nhị nhẫn, Tam nhẫn, Lục nhẫn, Thập nhẫn. Đại Thừa Nghĩa Chương, q. 11, ghi: “An trụ trong thật tướng các pháp gọi là Nhẫn”.

Pháp nhẫn được chia làm hai loại: Khổ pháp nhẫn và Đạo pháp nhẫn.

- Khổ pháp nhẫn là chỉ cho sự tin nhận lý Khổ đế của cõi Dục khi còn ở giai vị Kiến đạo.

- Đạo pháp nhẫn là chỉ cho sự tin nhận Đạo đế của cõi Dục ở giai vị Kiến đạo.

àng Bồ-tát Đại Thừa ở giai vị Kiến đạo của Sơ địa tin nhận lý Vô Sinh, nên gọi là Vô Sinh pháp nhẫn.

[15] Thập tín: mười tâm mà 10 giai vị đầu tiên trong 52 giai vị Bồ-tát tu hành. Mười tâm này thuộc về Tín vị, có công năng giúp cho hành giả thành tựu tín hạnh.

Phẩm Hiền Thánh Danh Tự, kinh Bồ-Tát Anh Lạc Bản Nghiệp, q. thượng, ghi 10 tâm là:

1. Tín tâm: nhất tâm quyết định, mong muốn thành tựu.

2. Niệm tâm: thường tu niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí và Thiên.

3. Tinh tấn tâm: nghe Bồ-tát tạng, siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.

4. Định tâm: tâm an trụ vào sự, vào nghĩa, xa lìa tất cả hư ngụy, phù phiếm và nhớ tưởng phân biệt.

5. Nghe Bồ-tát tạng: tư duy quán sát, rõ biết tất cả pháp không ngã không nhân, tự tính không tịch.

6. Giới tâm: thụ trì luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi, nếu có phạm thì sám hối trừ diệt.

7. Hồi hướng tâm: hồi hướng các thiện căn đã tu được về Bồ-đề, không nguyện sinh vào các Hữu; hồi thí cho chúng sinh, không vì riêng mình; hồi hướng cầu chứng được thật tế, không đắm trước danh tướng.

8. Hộ pháp tâm: phòng hộ tâm mình, không khởi phiền não, lại tu năm hạnh: mặc hộ, niệm hộ, trí hộ, tức tâm hộ và tha hộ.

9. Xả tâm: không tiếc thân mạng, tài sản, những gì có được đều buông xả.

10. Nguyện tâm: lúc nào cũng tu tập các nguyện thanh tịnh.

[16] Hai vô ngã: là nhân không và pháp không, hoặc nhân vô ngã và pháp vô ngã.

1. Nhân vô ngã: thân người đều do năm ấm giả hợp tạo thành không có chủ thể chân thật. Đó là pháp quán của Tiểu Thừa nhằm đoạn trừ phiền não chướng đạt được Niết-bàn.

2. Pháp vô ngã: các pháp đều do nhân duyên sinh vốn không có tự tính. Đó là pháp quán của hành Đại Thừa Bồ-tát để đoạn trừ sở tri chướng, được quả vị Bồ-tát (Kinh Lăng-Già, q. 1).

[17] Thắng tấn phần: tu tập hạnh tự lợi gọi là Tự phần, tu tập hạnh lợi tha gọi là Thắng tấn phần.

[18] Nhị chướng: hai sự chướng ngại, Phiền não chướng và Sở tri chướng. Phiền não chướng là do chấp ngã mà sinh ra, vì tất cả các hoặc tham, sân, si phát nghiệp nhuận sinh phiền não thân tâm chúng sinh, khiến sinh tử mãi trong ba cõi, năm đường, chướng ngại quả Niết-bàn. Sở tri chướng, do chấp pháp mà sinh ra, vì các hoặc tham, sân, si làm cho mê mờ, chướng ngại diệu trí Bồ-đề, khiến không thể rõ biết sự tướng và thật tính của các pháp (Luận Thành Duy Thức, q. 9).

[19] Sử: là tên khác của phiền não. Vì phiền não dẵn dắt con người chìm đắm trong cõi mê, cho nên gọi phiền não là Sử.

[20] Kết: Kết Sử, trói buộc chỉ cho phiền não. Vì phiền não trói buộc chúng sinh vào cảnh mê, khiến không thể thoát khỏi cái khổ sinh tử.

[21] Năm biến hành: năm món tâm sở là Xúc, Tác, Ý, Thọ, Tưởng và Tư. Năm tâm sở này có mặt cùng khắp, vì đầy đủ bốn nghĩa: Nhất thiết tính là thông cả ba tính thiện, ác và vô ký. Nhất thiết xứ là thông cả ba tính thiện, ác và vô ký. Nhất thiết xứ là thông cả ba cõi chín địa. Nhất thiết thời là có mặt ở tất cả mọi thời gian. Nhất thiết câu là một pháp sinh khởi thì các pháp kia đều sinh khởi theo.

[22] Mười một Tâm sở thiện: là một trong sáu nhóm tâm sở do tông Duy thức lập ra:

1. Tín: chấp nhận, ưa thích, không nghi tất cả thiện pháp. Có ba loại:

- Tín thật hữu là tin nhận sâu sắc lý chân thật của các pháp.

- Tín hữu đức là tin ưa sâu sắc đức chân tịnh của Tam Bảo.

- Tín hữu năng là có sức tin sâu xa đối với tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian.

2. Tàm.

3. Quý.

4. Vô tham: tâm chán lìa và không nhiễm trước cảnh ngũ dục vừa ý.

5. Vô sân: tâm thường nhẫn nhục, không khởi giận tức đối với cảnh ngũ dục trái ý.

6. Vô si: hiểu biết và quyết đoán rõ ràng đối với lý sự tất cả pháp, không mê lầm.

7. Cần: tinh tấn tu tập tất cả thiện pháp, không sinh lười mỏi, viên mãn thiện nghiệp.

8. Khinh an: xa lìa sự não loạn thô trọng và diệt trừ các pháp làm chướng ngại thiền định, điều hòa thân tâm, trở nên an vui nhẹ nhàng.

9. Bất phóng dật: tinh tấn tu ba nghiệp thân, khẩu, ý. Gia công mạnh mẽ, diệt trừ các hoặc phải đoạn và thực hành các thiện pháp phải tu, mau chóng thành tựu viên mãn tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian, không buông lung.

10. Hành xả: tinh tấn tu ba nghiệp thân, khẩu, ý khiến tâm bình đẳng, an trụ trong vắng lặng, xa lìa tất cả các chướng như trạo cử, hôn trầm.

11. Bất hại: không làm tổn não, không sân khuể đối với tất cả chúng sinh hữu tình, thường vận dụng tâm từ bi trừ diệt khổ ách đem đến an vui cho họ.

[23] Nhị biên: hai cực đoan.

Thuyết này, các luận đều giải thích khác nhau:

Luận Trung Quán, q. 4: Nhị biên chỉ có, không hoặc thường, vô thường.

- Luận Thuận Trung, q. hạ: Nhị biên chỉ thường, đoạn.

- Luận Nhiếp Đại Thừa do sư Huyền Tráng dịch, sư Thế Thân giải thích: Nhị biên chỉ cho tăng ích và tổn giảm.

- Chỉ Quán Phụ Hành, q. 3: Nhị biên chỉ không và giả.

[24] Xuất triền: xuất ly trần tục, xuất ly trần cấu phiền não.

[25] Thắng cảnh: ở đây là chỉ cho cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.

[26] Tử ma kim: cũng gọi là Tử ma huỳnh kim, hoặc Tử kim tức là vàng ròng, là loại vàng tốt và quý nhất, đồng với vàng Diêm-phù-đàn ở Ấn Độ. Thân Phật là thân có màu Tử ma kim, có tướng nhẫn nhục mềm mại, gọi là “Tử ma nhẫn nhục”.

[27] Tứ thiên vương (Tứ Đại vương chúng thiên. Tứ Thiên vương thiên, Tứ Đại Thiên vương chúng thiên): tầng trời thứ nhất trong sáu tầng trời ở cõi Dục, tầng trời đầu tiên trong các Thiên xứ. Trong thế giới quan của Phật giáo, ở tầng trời thứ tư của núi Tu-di có một ngọn núi tên Do-kiên-đà-la, núi có bốn đảnh. Tứ Thiên vương và bộ chúng của mỗi vị đều ở một trong bốn ngọn và đều trấn hộ một cõi nước, một châu, nên gọi là Hộ Thế Tứ Thiên vương, Tứ Trấn. Chỗ ở của bốn vị này là “Tứ Vương thiên”. Tứ Thiên vương gồm: Trì Quốc thiên ở phía Đông; Tăng Trưởng thiên ở phía Nam; Quảng Mục thiên ở phía Tây; Đa Văn thiên ở phía Bắc. Tứ Vương thiên và Đao-lợi thiên gọi chung là Tứ Vương Đao-lợi.

[28] Na-do-tha: danh từ số lượng của Ấn Độ… Theo luận Câu-xá, q. 12 thì 1 na-do-tha = 100 a-dữu đa, 1 a-dữu-đa = 10 ức, cho nên 1 na-do-tha = 1000 ức. Trong kinh Phật thường dùng từ ngữ na-do-tha để nói về số lượng cực lớn.

[29] A-tăng-kỳ: một đơn vị số lượng của Ấn Độ, là số cực lớn, chẳng thể tính đếm được. Theo cách đọc thì một a-tăng-kỳ = 10 lũy thừa 47. Trong 60 đơn vị số mục ở Ấn Độ thì a-tăng-kỳ số thứ 52.

[30] Đoàn thực: ăn thức ăn được vắt thành từng viên, chỉ cho tất cả thức ăn của cõi Dục. Bởi vì thức ăn của cõi Dục dùng ba trần hưong vị, xúc làm thể và phân chia từng phần, từng miếng mà ăn để nuôi dưỡng mạng sống. Đoàn thực có hai loại:

- Thô thực: như cơm, mì v.v…

- Tế thực: như dầu, bơ, gia vị và các đồ uống.

[31] Chánh định tụ: giai vị của hành giả đã an trụ trong Niết-bàn tịch diệt.

Theo luận Câu-xá, q. 10, bậc Thánh giả Kiến đạo trở lên đoạn hết Kiến hoặc, chứng được Ly hệ, rốt ráo không còn lui sụt, an định trong Niết-bàn trạch diệt của chính tính. Giai vị của Bồ-tát từ Thập địa trở lên cũng gọi là Chánh định.

[32] A-bệ-bạt-trí: (Avinivartanĩya) Bất thoái chuyển. Chỉ hàng Bồ-tát tu hành không lui sụt cho đến khi thành Phật.

[33] Duy thức quán (Duy thức Pháp Thân quán): chỉ pháp quán về lý Pháp Thân, tức quán Phật và tâm là một thể. Pháp quán tự tánh thanh tịnh Phật tính là quán Phật từ tâm mình hiển bày, pháp quán Duy thức Pháp Thân thì quán Pháp Thân Phật đồng thể với Pháp Thân của mình, cho nên tên thì khác mà thể thì đồng.

34] Ác luật nghi (Bất luật nghi, Ác giới): Vô biểu sắc bất thiện sinh khởi do tham lợi hoặc do cuộc sống mà làm các nghiệp sát sinh…

Theo Luận Câu-xá, q. 14: Ác luật nghi là điều mà người trí quở trách, nhàm chán, nên gọi là Ác hành, vì nó làm chướng ngại giới luật thanh tịnh, nên gọi là Ác giới; vì không ngăn hành vi ác của thân và ngữ, nên gọi là Bất luật nghi.

Theo kinh Đại Bát-Niết-Bàn, 27 (bản Bắc): có 16 loại Ác luật nghi: 1. Nuôi dê cho mập, đem bán để lấy lời; 2. Mua dê làm thịt bán để lấy lời; 3. Nuôi heo cho béo, đem bán để lấy lời; 4. Mua heo làm thịt bán để lấy lời; 5. Nuôi trâu bò cho mập đem bán để lấy lời; 6. Mua trâu bò làm thịt bán để lấy lời; 7. Nuôi gà cho mập, đem bán để lấy lời; 8. Mua gà làm thịt bán để lấy lời; 9. Đánh cá; 10. Săn bắn; 11. Cướp giật; 12. Giết người; 13. Giăng lưới bắt chim; 14. Nói ly gián; 15. Làm cai tù; 16. Dùng chú thuật điều khiển rắn giúp người xem vui, thu lợi để kiếm sống.

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân 6, nêu ra 12 loại Ác luật nghi: 1. Kẻ làm hàng thịt; 2. Đầu đảng giết người; 3. Nuôi heo; 4. Nuôi gà; 5. Đánh cá; 6. Săn bắn; 7. Giăng lưới bắt chim; 8. Bắt rắn; 9. Chú long; 10. Cai tù; 11. Làm kẻ cướp; 12. Vương gia sai bắt giặc.

[35] Trí vô công dụng: trí tuệ không cần dụng công mà có được. Đối với Tiểu Thừa, Vô công dụng trí là trí huệ không do gia hạnh mà vẫn có được nhậm vận tự tại, là một trong Tứ trí do quả viên đức phân ra. Đối với Đại Thừa, Vô công dụng trí là trí của Bồ-tát từ Bát địa trở lên, không nhờ thêm sự dụng công, tự nhiên khế hợp với chân tính. Trong mười địa của Bồ-tát thừa, từ Bát địa trở lên là Vô công dụng địa, được trí nhậm vận vô công dụng, tự tại làm lợi ích cho chúng sinh, không bao giờ có niệm lui sụt.

[36] Tu hoặc: còn gọi Tư hoặc. Gọi đủ là Tu đạo sở đoạn hoặc. Các Hoặc được đoạn trừ ở giai vị Tu đạo, tức các phiền não thuộc về mê sự: tham, sân, si được đoạn trừ khi hành giả tu tập đến giai vị Tu đạo.

[37] Vô dư Niết-bàn: Niết-bàn hoàn toàn không có chỗ nương trụ, đoạn hết phiền não chướng, diệt hết quả khổ Dị thục do thân ngũ uẩn tạo thành; một trong bốn loại Niết-bàn; một trong Cửu đế.

[38] Ba danh hiệu trước của Phật: Như Lai (Tathãgata), Ứng Cúng (Arhat), Chánh Biến Tri (Samyak-sambuddha). Sáu danh hiệu sau: Minh Hạnh Túc (Vidyã-caãna-sampanna), Thiện Thệ (Sugata), Thế Gian Giải (Loka-vid), Vô Thượng Sĩ (Anuttara), Điều Ngự Trượng Phu (Purusa-damya-sãrathi), Thiên Nhân Sư (‘Sãtã deva-manusyãnãm).

[39] Ngũ chủng bất năng nam (Ngũ chủng huỳnh môn): Năm hạng người không có bộ phận sinh dục nam, hoặc bộ phận sinh dục không được hoàn bị. Theo luật Thập Tụng, q. 21:

1. Sinh bất năng nam: sinh ra đã không có bộ phận sinh dục nam.

2. Bán nguyệt bất năng nam: nửa tháng có thể hành dâm, nửa tháng không thể hành dâm.

3. Đố bất năng nam: thấy người khác hành dâm liền nổi lên ganh ghét rồi khởi lên tâm dâm.

4. Tinh bất năng nam: lúc hành dâm bộ phận sinh dục nam biến mất.

5. Bệnh bất năng nam (Kiến bất năng nam): hình tàng huỳnh môn: do bộ phận sinh dục nam bị bệnh mà cắt bỏ.

[40] Quả nhỏ: bốn quả vị mà hàng Thanh Văn thuộc Tiểu Thừa chứng được. Giai đoạn theo thứ lớp là: Quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất Hoàn và quả A-la-hán.

[41] Tứ phi thường (còn gọi Tứ vô thường): tức vô thường, khổ, không, vô ngã. Trong kinh Nhân Vương Bát-nhã ba-la-mật, q. hạ, có bài kệ Tứ phi thường (Tứ phi thường kệ) nói về ý nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã.

[42] Túc nhân: nghiệp nhân tạo tác ở đời quá khứ. Nhân tuy có cả thiện ác, nhưng túc nhân thông thường đều chỉ thiện nhân; như nghiệp tuy có thiện, ác nhưng túc nghiệp thường chỉ ác nghiệp.

[43] Tam giai giáo (còn gọi Tam giai tông, Phổ Pháp tông): tông phái Phật giáo do sư Tín Hành (540-594) sáng lập vào đời Tùy, Trung Quốc, đến thời Trung Đường thì bị cấm lưu hành do bị coi là dị đoan.

Tông này căn cứ vào Thời, Xứ và Cơ mà chia Phật pháp thành ba giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất: Thời là Chánh pháp, Xứ là Phật quốc, Cơ là Phật, Bồ-tát. Giáo pháp thụ trì trong giai đoạn này là Nhất thừa Phật pháp của Đại Thừa.

- Giai đoạn thứ hai: Thời là Tượng pháp, Xứ là thế giới ngũ trược, Cơ là phàm thánh lẫn lộn. Giáo pháp lưu hành trong giai đoạn này là Tam thừa (gồm cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa).

- Giai đoạn thứ ba: Thời là Mạt pháp, Xứ là thế giới ngũ trược, Cơ đều là những người tà giải, tà hạnh.

Sư Tín Hành cho rằng đương thời đã là giai đoạn thứ ba, chỉ toàn là những người không trì giới, mất chính kiến mà thôi, nếu y theo các pháp như Nhất thừa của giai đoạn thứ nhất, Tam thừa của giai đoạn thứ hai… mà tu hành thì cũng thật là khó khăn, cho nên cần phải y theo pháp của giai đoạn thứ ba, quy y Tam Bảo, đoạn trừ tất cả điều ác, tu trì tất cả điều thiện mới dễ thành tựu. Đó chính là chủ trương cơ bản của Tam giai tông.

[44] Phân biệt huệ: Sức niệm huệ rõ biết sự sai khác về tính chất lớn nhỏ, đẹp xấu…của tất cả chúng sinh và các pháp.

[45] Ba thiện căn: ba tâm sở thiện đối trị ba bất thiện căn.

[46] Phổ thân: tất cả chúng sinh đều là thân thuộc, cha mẹ, anh em…

[47] Ái kết: một trong chín kết. Gọi tắt là Kết, còn gọi là Tùy thuận kết. “Kết” nghĩa là trói buộc. Tham ái trói buộc người, cho nên gọi là kết, tức chúng sinh bị tham ái trói buộc, gây tạo các nghiệp bất thiện như sát, đạo, dâm, vọng, do các nghiệp này mà chiêu cảm quả khổ sinh tử ở đời vị lai, trôi lăn trong ba cõi, không thể vượt ra khỏi, cho nên gọi là Ái kết (PQĐTĐ).

[48] Đệ nhị giai: giai đoạn thứ hai trong Tam giai giáo. Giai đoạn này: Thời là Tượng pháp, Xứ là Thế giới ngũ trược, Cơ là phàm thánh lẫn lộn. Giáo pháp lưu hành trong giai đoạn này là giáo nghĩa Tam thừa (Xem chú thích 43: “Tam giai giáo”, tr. 71).

[49] Bốn chúng đệ tử: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di hoặc chỉ cho bốn chúng xuất gia: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni.

 

Theo Pháp Hoa Văn Cú 2, q. hạ; Đại Minh Tam Tạng Pháp Số, q. 15, ghi: Bốn chúng thính pháp trong hội thuyết pháp của Đức Phật: Phát khởi chúng, Đương cơ chúng, Ảnh hưởng chúng và Kết duyên chúng (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4727).

[50] Thời Tượng pháp: thời kỳ mà giáo pháp tương tự với thời Chính pháp, thời thứ hai trong ba thời. Sau khi Phật nhập diệt, y cứ vào sự vận hành của giáo pháp mà chia ra làm ba thời: Chính pháp, Tượng pháp và Mạt pháp. Thời kỳ này chỉ có giáo thuyết và người tu hành, ít người chứng quả.

Về thời hạn của ba thời Chính, Tượng, Mạt có nhiều thuyết khác nhau. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, q. 56 và kinh Ma-ha Ma-da, q. hạ, cho rằng Tượng pháp là 1000 năm; kinh Hiền Kiếp, q. 3, q. 7, kinh Đại Thừa Tam Tụ Sám Hối, kinh Bi Hoa, q. 7 kinh Đại Thừa Bi Phân-đà-lợi thì cho là 500 năm.

[51] Năm trược: năm thứ cặn đục khởi lên trong kiếp giảm. Theo thuyết của kinh Bi Hoa, q. 5, Pháp Uyển Châu Lâm, q. 98, ngũ trược chỉ cho:

1. Kiếp trược: vào thời kiếp giảm, lúc tuổi thọ con người rút ngắn còn 30 tuổi thì nạn đói kém xảy ra, lúc giảm còn 20 tuổi thì nạn bệnh tật xảy ra, lúc giảm còn 10 tuổi thì nạn chiến tranh xảy ra, tất cả chúng sinh trong thế giới đều bị hại.

2. Kiến trược: chính pháp đã diệt, tượng pháp dần dần khởi, tà pháp bắt đầu sinh, tà kiến tăng mạnh, làm cho con người không tu tập pháp lành.

3. Phiền não trược: chúng sinh nhiều ái dục, tham lam bỏn sẻn, thích đấu tranh dua nịnh, dối trá, tiếp nhận tà pháp, nên tâm thần bị não loạn.

4. Chúng sinh trược: chúng sinh phần nhiều độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới.

5. Mạng trược: thời xưa con người thọ 8 vạn tuổi, đời nay do ác nghiệp tăng trưởng nên tuổi thọ giảm dần, người trăm tuổi rất hiếm.

Trong năm trược thì kiếp trược là Tổng, bốn trược còn lại là Biệt. Trong bốn trược thì kiếp trược và phiền não trược làm tự thể mà tạo thành chúng sinh trược và mạng trược.

[52] Ngũ ác, Ngũ thống, Ngũ thiêu: năm thứ ác: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt (nói ác, nói dối, nói thêu dệt) và uống rượu. Nếu tạo năm điều ác này, hiện đời bị phép vua trị tội, thân gặp ách nạn, gọi là ngũ thống (năm sự đau đớn); do năm điều ác này, đời sau chịu quả báo đọa ba đường khổ gọi là ngũ thiêu (năm sự thiêu đốt).

[53] Nhất âm: âm thanh của Đức Phật. Ý nói căn duyên của chúng sinh có sâu, có cạn, nhanh chậm khác nhau. Do đó, cùng nghe một âm giáo của Đức Phật, nhưng mỗi người tiếp thu khác nhau. Nếu là căn cơ người thì nghe Đức Phật dạy Ngũ giới; nếu căn cơ trời thì nghe Đức Phật dạy Thập thiện; nếu là căn cơ Thanh Văn thì nghe Đức Phật dạy pháp Tứ đế; nếu là căn cơ Duyên giác thì nghe Đức Phật dạy pháp Thập nhị nhân duyên; còn nếu là căn cơ Bồ-tát thì nghe Đức Phật nói pháp Lục độ.

Theo kinh Duy-Ma, Đức Phật dùng một âm thanh diễn nói chính pháp, chúng sinh tùy theo căn cơ chủng loại mà được hiểu.

[54] Định tán: Có hai:

1. Định tán nhị tâm: định tâm và tán tâm, tức là tâm trụ nơi thiền định và tâm phan duyên theo lục trần. Định tâm có hai loại: hữu lậu và vô lậu; Tán tâm có ba loại: Thiện, ác và vô ký. Hai tâm này bao gồm tất cả tâm.

2. Định tán nhị thiện: định thiện và tán thiện, hai pháp thiện cần thiết của việc tu hành cầu vãng sinh Tịnh Độ Cực Lạc theo chủ trương của sư Thiện Đạo. Định thiện là lắng tâm dứt trừ tạp niệm, Tán thiện là dứt trừ việc ác và tu tập các hạnh lành. Trong 16 pháp quán nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ thì sư Thiện Đạo chủ trương 13 pháp quán trước thuộc định thiện vì dùng định tâm mà quán y báo, chính báo của cõi Tịnh Độ. Ba quán sau là tán thiện vì do tán tâm mà tu tập ba phước chín phẩm. Ngoài ra, căn cơ có thể tu thiện gọi là Định cơ; căn cơ không thể tu định thiện hoặc chỉ tu ba pháp tán thiện gọi là tán cơ. Định cơ, tán cơ gom nhiếp tất cả chúng sinh.

[55] Tác nghiệp: tạo tác hành nghiệp; là phương pháp tu hành để đạt đến an tâm, khởi hạnh của pháp môn Tịnh Độ; đó là pháp Tứ tu: Cung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu: Vì an tâm dễ lui sụt, khởi hạnh cũng khó tương tục, cho nên thực hành pháp Tứ tu để kích phát tâm hạnh, mau chóng được vãng sinh.

[56] Tán nhân. Tán thiện: thiện nghiệp được tu tập với tâm tán loạn. Sư Thiện Đạo thì cho rằng tu ba phước chín phẩm đều là Tán thiện.

[57] Tam phước (Tam Chủng Tịnh Phước; Tam chủng tịnh nghiệp): ba chính nhân tịnh nghiệp, cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh Độ:

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập 10 nghiệp lành;

2. Thụ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi;

3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại Thừa, khuyến tấn người tu hành.

[58] Hồi hướng chung tâm: tâm cuối cùng của Thập hồi hướng, tức Pháp giới vô lượng hồi hướng. Tu tập tất cả vô tận thiện căn, hồi hướng các thiện căn này nguyện cầu vô lượng công đức trong pháp giới sai biệt.

[59] Thiện thú (Thiện xứ, Thiện đạo): cảnh giới mà người có nghiệp nhân thiện được sinh về. Theo luận Đại Trí Độ, 30 cho rằng: “Trong lục đạo thì địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ thuộc về ác thú; còn trời, người và a-tu-la thuộc về thiện thú”. Đây là luận thuyết thông thường. Luận Câu-Xácho rằng trời và người thuộc về thiện thú.

[60] Thế đệ nhất pháp: Gia hạnh vị thứ tư trong bốn Gia hạnh vị, là pháp cùng cực nhất của trí hữu lậu, thù thắng bậc nhất trong các pháp thế tục.

Y theo định Vô gián phát khởi trí huệ như thật thượng phẩm, quán sát sở thủ năng thủ là rỗng không, trực nhập giai vị kiến đạo. Từ Nhẫn vị tiến lên, qua được giai vị này thì trong một sát-na kế đó sẽ tiến nhập vào Kiến đạo vị, nên gọi là bậc nhất trong các pháp hữu lậu thế gian.

Luận Câu-Xá 23 ghi: “Vì là pháp hữu lậu nên gọi là Thế gian; rất tối thắng nên gọi là Đệ nhất (…) vì thế nên gọi Thế đệ nhất pháp.

[61] Biệt Thời ý (Biệt thời ý thú, Thời thiết ý thú): Như Lai dùng ý thú biệt thời để thuyết pháp, một trong bốn ý thú, tức ý nghĩa lợi ích ở thời gian khác. Người nào tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo thì quyết định đối với Vô thượng Bồ-đề không còn lui sụt hoặc người chỉ cần phát nguyện thì liền được vãng sinh cõi Phật An Lạc. Đây là Như Lai vì khuyên nhắc kẻ giải đãi không thích tu hành, nên nói lợi ích lúc khác mà chẳng nói lợi ích ngay lúc này.

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, q. 6 (Đại 31, 194 trung) ghi: “Người thiện căn giải đãi nhờ tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo mà được tiến lên công đức thượng phẩm”.

Phật nói công đức thượng phẩm là nhằm vào người có hạnh cạn cợt, muốn cho họ bỏ giải đãi, siêng tu hành, chứ chẳng phải do tụng danh hiệu Phật mà được không lui sụt, quyết định đắc Vô thượng Bồ-đề. Thí dụ từ một đồng tiền vàng do kinh doanh lâu ngày nên sinh ra nghìn đồng tiền vàng, chẳng phải trong một ngày được số tiền vàng đó. Một đồng tiền vàng là nhân sinh ra hàng nghìn đồng tiền vàng.

Ý Như Lai cũng vậy, tụng trì danh hiệu Phật là nhân để chẳng lui sụt Bồ-đề.

[62] Biến tướng: các bức họa vẽ về các truyện tích bản sinh (tiền thân) của Phật, các cõi Tịnh Độ trang nghiêm và các tướng trạng địa ngục…dựa theo sự mô tả trong kinh điển. Như vẽ cảnh Tịnh Độ của Phật A-Di-Đà thì gọi là Di-Đà Tịnh Độ biến; vẽ cảnh Tịnh Độ của Bồ-tát Di-Lặc trên cung trời Đâu-Suất, gọi là Di-Lặc Tịnh Độ biến; còn nếu dựa theo kinh Hoa Nghiêm để vẽ 7 chỗ 8 hội, hoặc 7 chỗ 9 hội, gọi là Hoa Nghiêm biến tướng; vẽ các cảnh địa ngục thì gọi là địa ngục biến tướng v.v...

[63] Do-tuần: đơn vị đo độ dài thời xưa ở Ấn Độ. Tiếng Phạn là Yojana: có nghĩa là mang ách, phát xuất từ chữ gốc “Yuj” chỉ đoạn đường con bò mang ách đi một ngày. Theo Đại Đường Tây Vực Ký, q. 2: một do-tuần chỉ lộ trình một ngày hành quân của nhà vua. Có nhiều thuyết khác nhau về cách tính do-tuần:

1. Đổi ra Câu-lô-xá: theo phong tục Ấn Độ cũng như phẩm Hiện Nghệ trong kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, q. 4, phẩm Minh Thời Phân Biệt trong kinh Ma-đăng-ca, q. hạ đều cho rằng bốn câu-lô-xá là một do-tuần. Nhưng theo các kinh điển của Phật như Hữu Bộ Tì-nại-da, q. 21; luận Đại Tì-bà-sa, 136, luận Câu-xá, 12 lại tính tám câu-lô-xá là một do-tuần.

2. Tính theo số đo của Trung Quốc cũng có nhiều thuyết khác nhau: theo Đại Đường Tây Vực Ký, q. 2, một do-tuần xưa được tính là 20km, theo Ấn Độ tính là 15km, trong Phật giáo tính là 8km; theo Huệ Uyển Âm Hữu Bộ Bách Nhất Yết-Ma, q. 3 của Nghĩa Tịnh thì quốc tục Ấn Độ tính là 16km, Phật giáo tính là 6km.

[64] Càn thành: cũng gọi là Bà thành, Càn-đạt thành. Nói đầy đủ là Càn-thát-bà thành, Kiền-thát-bà thành, Kiện-đạt-phạ thành và Nghiễn-đạt-phạ thành. Thành quách do thần Càn-thát-bà hóa hiện trong hư không. Ý nói lầu các, sông, núi, rừng…đều là những thứ không có thật, chỉ là ảo ảnh. Có người cho rằng mật độ không khí ở biển, sa mạc và vùng hoang dã nhiệt đới khi thay đổi làm cho ánh sáng bị khúc xạ mà phát ra hiện tượng “lầu sò chợ bể”. Trong các kinh điển Phật giáo, thuật ngữ Càn-thát-bà thành thường được sử dụng để chỉ cho các pháp không thật.

 

Chương 4: Một số nghi vấn khác- Lời khai thị của các đại sư.

1. Đạo Xước Đại Sư khai thị.

* Đại sư bảo: "Người tu tịnh nghiệp khi ngồi nằm không được xây lưng về hướng Tây, cũng không được hướng về Tây khạc nhổ cùng đại tiểu tiện. Bởi đã quy y về liên bang, nên tôn sùng miền kim địa, nếu lòng không trân trọng, đâu phải là chí nguyện cầu sanh?"

Nghi vấn thứ 39: Niệm hồng danh đức A Di Đà, có thể tiêu trừ nghiệp vô minh tăm tối và được vãng sanh; sao có người xưng niệm mà vô minh vẫn còn, lại không mãn nguyện, là duyên cớ gì?

Đáp:

Do không như thật tu hành, cùng với danh nghĩa không hợp nhau, ấy bởi chẳng biết Như Lai là thân thật tướng, là thân vị Phật. Lại có ba thứ không tương ứng, nên không được vãng sanh.

1. Lòng tin không thuần, khi còn khi mất.

2. Lòng tin không duy nhất thường đổi thay không quyết định.

3. Lòng tin không tương tục, hằng bị tạp niệm làm cho gián đoạn.

Cho nên khi niệm Phật phải nhiếp tâm đừng cho tán loạn, nếu niệm được tương tục là tín tâm, là nhất tâm, là thuần tâm. Niệm như vậy mà không vãnh sanh, ấy là vô lý.

 

Thiên Như Đại Sư khai thị

 

Nghi vấn thứ 40:

Hỏi: Phương tu viên quán, pháp niệm duy tâm, dường như là hành môn của bậc thượng căn. Còn mười nguyện trong kinh Hoa Nghiêm, mười tâm trong kinh Bảo Tích, cũng là công dụng của bậc đại trí. Trên đường tu, nếu căn cơ cùng giáo pháp không hợp, e cho công hạnh khó thành. Nay tôi xét lại căn tánh mình, chỉ nên chuyên trì danh hiệu, thêm lễ Phật sám hối mà thôi, chẳng hay tôn ý thế nào?

Đại sư đáp:

- Tốt lắm! Người biết tự lượng đó! Lời ngươi nói hợp với thuyết Chuyên Tu Vô Gián của ngài Thiện Đạo. Vô Gián Tu là thân chuyên lễ Phật A Di Đà không lễ tạp, miệng chuyên xưng hiệu A Di Đà không xưng tạp, ý chuyên tưởng Phật A Di Đà không tưởng tạp.

* Niệm Phật, hoặc duyên tưởng 32 tướng, buộc tâm cho định khi mắt mở nhắm đều thấy Phật. Hoặc có kẻ chuyên xưng danh hiệu, giữ không tán loạn, trong hiện đời cũng được thấy. Trong hai điều trên đây, muốn được thấy Phật, phần nhiều pháp xưng danh hiệu là hơn. Pháp xưng danh, cần phải buộc lòng đừng cho tán loạn, mỗi niệm nối nhau duyên theo hiệu Phật, từng câu, từng chữ rõ ràng. Lại xưng danh hiệu Phật, chớ quản nhiều ít, một tâm một ý, niệm niệm nối nhau. Như thế mới diệt được tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp, nếu chẳng vậy, rất khó tiêu tội.

 

* Nghi vấn thứ 41:

-Hỏi: Một đời tàn ác, khi lâm chung dùng mười niệm cũng được vãng sanh. Vậy thì bây giờ tôi buông theo duyên đời đợi lúc sắp chết sẽ niệm Phật, có được chăng?

* Đại sư đáp:

- Khổ thay! Lời này đã hại chính mình, lại hại cho hàng tăng, tục, nam, nữ trong đời nữa! Phải biết kẻ phàm phu nghịch ác khi lâm chung niệm Phật được là do kiếp trước có căn lành, khiến cho gặp bậc thiện tri thức chỉ bảo mà được sự may mắn trong muôn một ấy. Luận Quần Nghi nói:

“Có mười hạng khi lâm chung không niệm Phật được:

1) Khó gặp bạn lành, nên không người khuyên niệm.

2) Bịnh khổ buộc thân, không rỗi rảnh để niệm Phật.

3) Trúng phong cứng họng, nói không ra tiếng.

4) Cuồng loạn mất sự sáng suốt.

5)Thình lình gặp tai nạn nước lửa

6) Thoạt bị hùm sói ăn thịt.

7) Bị bạn ác phá hoại lòng tin.

8) Hôn mê mà chết.

9)Thoạt chết giữa quân trận.

10) Từ nơi chỗ cao té xuống”.

Những việc trên đây ở trong đời thường có, đó là do túc nghiệp hoặc hiện nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên xảy ra, không kịp trốn tránh. Khi gặp một việc không may, bất cập, trong mười việc trên đây, thì làm sao niệm Phật được? Giả sử không bị những ác duyên như trên, thọ bịnh sơ sài mà qua đời, e cho lâm chung, khi thân tứ đại sắp ly tán, bị sự đau đớn dường như dao cắt, như con cua bị rớt vào nước sôi trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoàng ấy, đâu có rỗi rảnh để niệm Phật? Giả sử không bị bịnh mạng chung, lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham sống sợ chết, tấm lòng rối loạn không yên.

Thêm vào đó, việc nhà chưa phân minh, chuyện sau chưa sắp đặt, vợ con khóc lóc kêu gọi, trăm mối lo sợ, thương sầu, như thế làm sao niệm Phật được? Giả sử lúc chưa chết, thì lại bịnh khổ, đau đớn rên la, tìm thuốc tìm thầy, lo việc khẩn cầu cúng tế, tạp niệm rối ren, vị tất đã niệm Phật được? Giả sử trước khi chưa bịnh, thì lại bi sự già khổ, suy lờ, lụm khụm, buồn rầu, ảo não, e cho lo những việc cái thân già yếu chưa xong, đâu rỗi để niệm Phật.

Giả sử trước khi chưa già, còn đang trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa dứt, việc thế tục còn buộc ràng, rong ruổi đông tây, suy thế này tính thế khác, nghiệp thức mơ màng, cũng không niệm Phật được! Giả sử kẻ được an nhàn thong thả, có chí tu hành, nhưng nếu không nhìn thấu cảnh đời là giả mộng, thân tuy được yên, tâm còn bấn loạn, không thể buông bỏ muôn duyên, khi gặp việc đến, không thể tự chủ, theo cảnh mà điên đảo, cũng không niệm Phật được! Ngươi thử xét lại, đừng nói già bịnh, trong lúc còn trẻ trung nhàn nhã, nếu có một việc đeo đẳng nơi lòng, còn không niệm Phật được thay, huống chi là đợi đến lâm chung?

Vậy muốn cho khi sắp chết được chánh niệm vãng sanh, thì ngay bây giờ phải xét rõ việc đời là huyễn mộng, tùy duyên an phận qua ngày, không còn tham luyến, được rỗi rảnh lúc nào thì niệm Phật lúc ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thời giờ. Như thế thì tư lương ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không điều chi chướng ngại.

 

Tông Bổn Đại Sư khai thị

 

* Đại Sư dạy:

- Niệm Phật không luận là hạng người nào, nếu nghĩ mình thuở bình sanh có nhiều điều ác mà tự bỏ không chịu tu hành là sai lầm! Niệm Phật không quản là thời gian nào, nếu cho rằng mình đã già sắp chết mà không chịu tu hành, là sai lầm! Niệm Phật bất câu là phương pháp nào, nếu lập ra một quy củ nhất định, bắt mọi người đều tuân theo, khiến cho sự tu hành của họ bị chướng ngại, là sai lầm. Nên biết pháp môn Tịnh Độ chẳng lựa trí, ngu, sang, hèn, nghèo, giàu, chẳng phân nam, nữ, già, trẻ, tăng, tục, chẳng luận kẻ huân tập đã lâu hay mới tu hành, đều có thể niệm Phật.

Hoặc niệm lớn, niệm nhỏ, niệm ra tiếng, niệm thầm, đảnh lễ mà niệm, tham cứu mà niệm, nhiếp tâm mà niệm, quán tưởng mà niệm, lần chuỗi mà niệm, giữ hiệu Phật liên tục không dứt như dòng nước chảy mà niệm, cho đến đi niệm, đứng niệm, ngồi niệm, nằm niệm, ngàn muôn niệm đều về một niệm. Niệm theo cách nào cũng được, chỉ cần yếu là giữ cho lâu bền đừng lui sụt, và phát lòng tin quyết định, cầu sanh Tây Phương. Nếu quả hành trì được như thế, cần chi tìm bậc trí thức hỏi đường?

Cho nên tu Tịnh Độ có nhiều phương pháp, kết quả ra sao là do chỗ xu hướng của tâm nguyện. Có thể gọi: "Đi thuyền cốt bởi người cầm lái. Hiểu được đồng về cõi Tịnh Liên!"

 

Nghi vấn thứ 42: Suy xét nơi muôn kinh thì chẳng có kinh nào có thuyết đới nghiệp vãng sinh như các kinh Tịnh độ cả, thật khiến tôi chưa hết nghi?

 

Đáp: Ví như có dòng sông vô minh ngăn cách, bờ bên này là Vọng tâm đầy hiểm nạn, bờ bên kia là Chân tâm tự tại thảnh thơi.

Tu nơi các pháp môn Tự lực ắt phải tự mình bơi qua đó. Muốn bơi được đến bờ bên kia phải dần dần bỏ hết lại các đồ đạc trên người, ví như nghiệp vậy. Cũng vì thương chúng sinh tự lực quá vất vả mà đức Phật hóa ra các hòn đảo dụ như các Hóa thành làm chỗ nghỉ chân. Vì thế, có những chúng sinh lầm Hóa thành là Bảo sở mà ở lại mãi chẳng đến đạo Vô thượng Bồ đề.

Cũng vì lẽ đó mà đức Phật ví Bồ tát mới phát tâm giống như bông xoài, trứng cá, nhân thì nhiều mà quả chẳng được bao nhiêu.

Duy có pháp môn Tịnh độ giống như đứa con ở bên này gọi cha mãnh liệt tha thiết, người cha nghe thấy cho thuyền sang đón. Vậy là ung dung qua sông mà chẳng trở ngại gì, lại vẫn có thể ôm cả đồ đạc qua sông, đó gọi là đới nghiệp vãng sinh. Đến nơi mới biết đồ đạc mà mình quý trọng bên này thật dơ uế, chẳng cần dùng đến nữa bèn xả bỏ đi.

Tu tự lực hãy xem gương ngài Xá lợi Phất, tu đến bậc Lục trụ Bồ tát Chính tâm trụ, tâm tướng đồng như Phật, nhân vì người Bà la môn xin tròng mắt mà thối tâm xuống hàng Thanh văn.

Ấy là so sánh nơi tự lực và tha lực vậy.

Nghi vấn thứ 43: Phật gồm đủ 3 nghĩa: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nay nói cầu sanh Tịnh độ là về quả vị Phật, vốn chỉ có thể nói là Tự giác thôi, sao có thể đầy đủ ba ý trên?

Đức Thế tôn ta ba A Tăng kỳ kiếp hành bồ tát đạo mới được thành Phật, huống hồ ta là kẻ phàm phu nghiệp dầy phước mỏng, chỉ nương Tín Nguyện Trì danh 10 niệm đã siêu việt một đời thành Phật hay sao?

Đáp: Chúng sinh bổn lai là Phật, vì một niệm mê mờ chấp lấy thân này làm Ta, tâm này ở nơi thân này, nên vô thỉ kiếp trôi lăn tam giới mà thật Diệu tâm vốn chưa từng động. Vì chấp có cái Ta, nên mới có người, có chúng sinh, có thọ mạng; vì chấp có cái Tự nên mới có cái Tha. Nếu lìa cái Tự thì cái Tha do đâu mà được thành lập, đó gọi là Tha Tự chẳng hai chẳng khác vậy.

Do đó nếu thấu hiểu được Tự thì Tự giác cũng gồm thâu cả giác tha, giác hạnh viên mãn.

Về với cõi Tây Phương chính là về với Chân như Bổn tánh viên giác của mình, từ nơi đó thường phân thân muôn ức khắp mười phương cứu độ chúng sinh. Như vậy là viên mãn, như vậy là đầy đủ.

Lại chấp nơi văn tự mà hỏi rằng Đức Thế tôn ta ba A Tăng kỳ kiếp hành bồ tát đạo mới được thành Phật, mà chẳng biết kinh Pháp Hoa đã nói rõ rằng đức Thích Ca đã thành Phật từ lâu xa về trước rồi, nay chỉ là thị hiện để giáo hóa chúng sinh đó thôi.

Nghi vấn thứ 44: Lại hỏi tiếp rằng, nếu nói cõi Tây phương là Ly cấu Diệu cực Pháp thân, là Chân như bổn tánh thì nó phải thường hằng, vậy sao kinh nói sau khi đức Phật A Di Đà nhập diệt thì đức Quán Thế Âm lên thay, đức Quán Thế Âm nhập diệt thì đức Đại Thế Chí lên thay, rõ ràng đó là pháp hữu vi biến đổi sanh diệt chứ có phải thường hằng đâu?

 

Đáp: Nên hiểu rõ Tự tánh vốn chẳng động mà hay sinh vạn pháp.

Ông hỏi như vậy là mắc lỗi chấp thường chấp đoạn của ngoại đạo, cũng lại là lấy tâm phân biệt so lường Phật cảnh, xa lại càng xa.

Vì phân biệt chấp tướng mà thấy đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí khác với Phật A Di Đà mà chẳng biết Phật A Di Đà cũng chính là đức Quán Thế Âm, cũng chính là đức Đại Thế Chí, cũng chính là Bản lai diện mục của chính mình.

Như nước cùng thể mà khi lạnh thành đá, khi nóng thành hơi, lúc thì chảy xuống khi thì bay lên; lại cũng như Hồ Chủ Tịch ở mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi địa phương khác nhau mà có tên hiệu khác nhau, lẽ nào cứ chấp nơi văn tự mà bảo đó là nhiều người khác nhau ư?

 

Nghi vấn thứ 45: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật chỉ định các Đại Bồ tát, Đại A la hán nêu sự tu chứng viên thông của mình, trong đó có phép Niệm Phật tam muội của đức Đại Thế Chí và phép tu Nhĩ căn viên thông của đức Quán Thế Âm, sau đó ngài Văn Thù Sư Lợi nương sức oai thần của Phật mà tổng hợp tất cả ưu điểm, nhược điểm của các phép tu viên thông và tuyên dương phép tu Nhĩ căn viên thông của đức Quán Thế Âm là hợp với căn cơ chúng sinh Ta bà nhất, tại sao giờ lại nói rằng pháp Trì danh thích hợp nhất, chẳng phải bác lời của Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi, mà cũng chính là đi ngược với lời Phật dạy hay sao?

Đáp: Nơi đây cần suy xét kỹ.

Đó là vì pháp môn Niệm Phật nhiếp trọn 6 căn, tịnh niệm tương tục của đức Đại Thế Chí thuộc về phép Quán tưởng Niệm Phật vậy, lại còn chẳng có Tha lực là Đại nguyện của Phật A Di Đà; chẳng phải là pháp Trì danh ngày nay.

Tại sao nói như vậy? Vì ngài Đại Thế Chí tu pháp này hằng sa số kiếp về trước nơi đức Phật Vô Lượng Quang, chuyên niệm tưởng Phật như con nhớ mẹ, khắc sâu vào tâm niệm như hình với bóng mãi chẳng quên. Đó thuộc về phép Quán tưởng. Do vậy, ngài Tâm Minh Lê Đình Thám khi dịch kinh này (tức kinh Thủ Lăng Nghiêm) phán định phép tu này thuộc về viên thông Kiến Đại cũng hợp lý.

Hơn nữa, đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay mới được 10 đại kiếp hình thành nên thế giới Tây Phương Cực Lạc, khi đó pháp Trì danh đới nghiệp vãng sinh mới được hoàn thành trọn vẹn vậy.

Hiểu sâu hơn, pháp môn Trì danh về tự lực là sự hòa hợp viên dung của pháp Niệm Phật viên thông của đức Đại Thế Chí và pháp tu Nhĩ căn viên thông của đức Quán Thế Âm, như hai con sông lớn đổ về biển. Là bởi các ý sau:

Thứ nhất, là miệng niệm tai nghe: Âm thanh do căn lưỡi phát ra, căn tai nghe trọn vẹn, ấy là tu hai căn hòa hợp.

Thứ hai, tâm niệm tai nghe: Tâm niệm nhưng tai vẫn nghe rành rọt chẳng sót, ấy là ý và nhĩ căn hòa hợp.

Đó thật là xoay lại tự tánh, nghe lấy tánh nghe của mình. Vì sao vậy? Miệng niệm là có tiếng, tâm niệm là không tiếng; dù có tiếng hay không tiếng đều có thể nghe rõ Thánh hiệu A Di Đà Phật, đó là xoay lại nghe tánh nghe của mình vậy.

Thế nào là viên thông Nhĩ căn? Ban đầu ở trong tính nghe, nghe tiếng niệm Phật tương tục vào được dòng viên thông, không còn thấy tướng Sở nghe nữa, thêm lần đến năng nghe, sở nghe đều hết. Không dừng lại nơi đó tiến đến cái năng giác, sở giác cũng không, tức là chẳng còn thấy ai niệm Phật, đức Phật được niệm nữa. Không giác tột bậc viên mãn thì bản tính tịch diệt hiện tiền, khi đó gọi là Duy tâm Tịnh độ Tự tánh Di Đà, sáng suốt khắp mười phương.

Ở mỗi pháp môn Niệm Phật tam muội của đức Đại Thế Chí và pháp tu Nhĩ căn viên thông của đức Quán Thế Âm riêng rẽ đã là những pháp tu thượng thừa đốn giáo huống là hợp lại làm một ư?

Ấy là ở nơi tự lực còn thù thắng như vậy, lại được Đại nguyện vương của Phật A Di Đà, sức mình sức Phật sánh đôi như thuyền xuôi gió, chẳng khác gì hổ mọc thêm cánh, cá được hóa rồng vậy, lại là thù thắng trong thù thắng, nhiệm mầu trong nhiệm mầu.

Từ đây cũng chứng minh được rằng pháp Tín Nguyện Trì danh là Vô thượng pháp môn, là vua báu của pháp Niệm Phật hoàn toàn phù hợp với chúng sinh cõi Ta bà thời mạt pháp, tùy thuận theo muôn kinh vạn luận mà chẳng hề trái nghĩa vậy.

 

Pháp môn này dùng hữu niệm mà đạt lý Vô niệm, lấy sự cầu sanh mà được quả Vô sanh. Thế nào là Vô niệm? Tức niệm và vô niệm chẳng hai. Thế nào là Vô sanh? Tức sanh và vô sanh chẳng hai.

Đạt quả Vô sanh chẳng ngại gì sự thọ sanh, được lý Vô niệm cũng chẳng chấp có niệm. Thế nên Tổ Long Thọ chứng được bậc Sơ địa, thấy được lý Vô sanh mà lòng nguyện sanh chưa từng ngừng nghỉ, đạt được lý Vô niệm mà miệng niệm tâm niệm thánh hiệu Di Đà chẳng hề gián đoạn.

Cũng vì lẽ ấy, so với pháp Trì danh, quả thật pháp Quán tưởng và Quán tượng Niệm Phật chẳng hợp với căn cơ cõi Ta bà thời mạt này vì chẳng viên thông Nhĩ căn .

Thoạt nhìn thì thấy kinh Thủ Lăng Nghiêm như chê pháp môn Niệm Phật mà thật ra là tuyên dương đến tột bậc vậy.

 

Sở dĩ kinh A Di Đà thuộc loại Vô vấn tự thuyết, tức là chẳng đợi người hỏi mà đức Phật tự nói là vì đức Phật nói từ nơi Phật cảnh, nơi lời nói chẳng thể hỏi đến mà tùy theo trí thế gian diễn tả cảnh giới cõi Tây Phương, còn phàm phu chúng ta một mực dùng trí thế gian so đo nơi Phật cảnh, chẳng phải thật mê lầm hay sao?

Thế nên bậc Đại trí Xá Lợi Phất chẳng thể hỏi, chẳng thể đáp.

Chẳng phải ngài chẳng biết mà ngài biết nói chẳng thể đến; nghĩa giống như kinh Duy Ma Cật, ngài Văn Thù hỏi ngài Duy Ma Cật thế nào là pháp môn Bất nhị, ngài Duy Ma Cật lặng thinh không đáp mà ngài Văn Thù khen đó mới thật là vào pháp môn Bất nhị vậy.

Nghi vấn thứ 46 : Có người hỏi rằng niệm Phật vãng sinh nhân ít mà quả nhiều, chẳng hợp với thuyết nhân quả lắm? Tự xét bản thân nghiệp chướng, tội lỗi đầy rẫy, nếu tội lỗi ấy mà có hình tướng thì tận cùng hư không chẳng chứa đựng nổi, dẫu nghe về pháp môn Tịnh Độ diệu kỳ tâm tôi vẫn phân vân chưa quyết định được?

Trong kinh Tỳ kheo Na Tiên, vua Di Nan Đà cũng nêu ra nghi vấn này

Vua hỏi: 
-- Bạch Đại đức, các sa môn trong hàng ngũ của Đại đức bảo rằng những kẻ trọn đời làm ác nhưng đến khi lâm chung biết tưởng nghĩ đến Phật thì được sanh lên các cõi trời. Quả thật Trẫm không tin được điều đó. Các ngài lại còn bảo rằng những kẻ trọn đời làm lành, nhưng nếu phạm tội giết một sinh mạng thì sau khi chết, đều phải đọa địa ngục. Điều này Trẫm lại cũng không thể tin được.

Na Tiên hỏi ngược lại nhà vua: 
-- Giả sử có kẻ cầm một cục đá nhỏ ném xuống nước, cục đá ấy nổi hay chìm?

-- Thưa chìm.

-- Bây giờ, có kẻ đem một trăm viên đá lớn chất vào một chiếc ghe bự đủ sức chở hàng ngàn tảng đá lớn, thì trăm viên đá ấy có chìm không?

-- Thưa không.

-- Đá không chìm là nhờ ghe chở. Cũng giống như thế, người làm ác khi chết biết tưởng nhớ đến Phật, được Phật lực nâng đỡ nên không đọa vào địa ngục mà lại được sanh lên các cõi trời. Hễ ai tin Phật và tưởng nhớ đến Phật thì khi lâm chung đều được Phật tiếp độ..nguoiphattu.com

 

Tổ thứ 8 Tịnh độ tông, Liên Trì đại sư có dạy: Vì nhân thánh hiệu A Di Đà vốn một mà là tất cả, lấy một danh hiệu mà dung thông vô tận tánh đức, vượt sự suy lường, quá số suy lường nên chẳng thể nghĩ bàn, do nhân chẳng thể nghĩ bàn nên quả cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Lại nói rằng: Một tiếng niệm Phật được thành Phật là Nhất tâm quy mạng, không thể nào chẳng thành Phật.

Thế nào gọi là Nhất tâm? Vì tâm ta, tâm Phật chẳng hai nên gọi là Nhất tâm. Nếu cố chấp tâm ta, tâm Phật khác nhau thì gọi là hai tâm, chẳng phải nhất tâm.

Sao gọi là Nhất tâm bất loạn? Tổ viết: Vì rằng hễ Nhất tâm thì không bất loạn, hễ loạn thì chẳng nhất tâm.

Vậy nên hãy chắc chắn rằng chúng sinh bản lai là Phật, tâm này với tâm Phật chẳng khác, niệm Phật theo đó gọi là Nhất tâm bất loạn.

Cũng lại có những người chẳng hiểu Lý mà chỉ chuyên chú niệm Phật đến chí thành cực điểm, giống như mặt trời lên cao làm tan băng giá, vọng tâm tiêu trừ, chân tâm hiện tiền cũng đạt được Nhất tâm bất loạn. Đó là chuyên Sự niệm mà thầm thông Phật trí.

 

Lại nữa, Nhất tâm tức tâm ta tâm Phật đồng thể chẳng hai, cũng là pháp Thiền đốn ngộ trực nhận Bản tâm. Mười niệm vãng sinh gom đủ Tín, Nguyện Hạnh vào Nhất niệm, đại sự vãng sinh là đương nhiên.

Vậy nên Nhất tâm bất loạn mười niệm vãng sinh dung thông cả Thiền lẫn Tịnh, nhiếp thu cả Sự lẫn Lý trọn chẳng bỏ sót; xét Lý thì sâu đến cùng tột, về Sự rộng độ khắp mười phương.

Như vậy là Chắc chắn vãng sinh, phù hợp với Bản nguyện của Phật A Di Đà. Ta nguyện đến, Phật nguyện rước, cũng chẳng hề rời một niệm tâm, Sự khế hợp Lý, Lý dung thông Sự.

Sự vãng sinh còn phải nghi ngờ gì nữa?

Nghi vấn thứ 47Tôi nay hữu duyên được gặp pháp môn Tịnh độ, lại được nghe lời vàng ngọc khai thị của các đại sư, tâm hồ nghi đã hết.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn dạy rõ ràng rằng: “Các ông quyết định phát tâm Bồ Đề, đối với pháp Tam ma đề, chư Phật Như Lai không sinh mệt mỏi, thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết định, trong lúc bắt đầu phát tâm tự giác...

A Nan, nghĩa thứ nhất là: …Nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu nhân với chỗ giác ngộ trong lúc chứng quả là đồng hay khác? A Nan, nếu trong lúc tu nhân, đem cái tâm sinh diệt, để cầu cho được cái quả bất sinh bất diệt của Phật thừa thì thật không thể được."

Kinh Kim Cang đức Phật cũng dạy:

"- Tu Bồ Đề! Lại nữa, vị Bồ tát , đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ trụ trước mà làm việc Bố thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà làm việc bố thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà làm việc bố thí...

- Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát chỉ phải nên đúng như lời Ta đã dạy đó mà trụ."

 

Lại được nghe rằng, tu hành quý ở chỗ phát tâm, vậy nay xin được hỏi người tu Tịnh độ nên phát tâm thế nào, trụ tâm thế nào là đúng pháp, mà chẳng trái ý Phật dạy trong các kinh trên?

 

Đáp: Xin được trả lời thành hai phần.

 

Thứ nhất là sự phát tâm. Chẳng riêng gì pháp môn Tịnh độ mà đối với tất cả các pháp Phật dạy cần ghi nhớ tám chữ: "Thật vì sanh tử, phát Bồ đề tâm".

 

 

Pháp sư Tịnh Không đương thời dạy: "Pháp môn Tịnh độ là nương tựa Phật lực cứu giúp. Tín là tin thế giới Tây phương Cực Lạc có Phật A Di Đà. Nguyện là mong muốn mình mau sinh về thế giới Cực Lạc kia, chán lìa thế giới Ta bà này. Hạnh là phải chí thành niệm, giữ một câu thánh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Chỉ cần đầy đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh thì sẽ nương theo đại thệ nguyện lực của Phật A Di Đà cứu giúp, ra khỏi sinh tử, vĩnh viễn đoạn trừ luân hồi. Đây là pháp môn vô cùng thâm diệu và tiện lợi nhất trong tất cả pháp môn mà Đức Phật đã dạy.

 

Nói theo lý, một câu A Di Đà Phật là nhờ Phật lực cứu vớt, chắc chắn bảo đảm vãng sanh về Tây phương. Nhưng vì sao ngày nay người niệm Phật nhiều mà người được vãng sanh lại ít? Đây là vấn đề rất quan trọng và nghiêm túc, ngày nay người niệm Phật nhưng không được vãng sanh quan trọng là do “thiếu Tín, Nguyện lại sợ chết, căn bản là không muốn vãng sanh”. Ngày nay, người niệm Phật chỉ cầu sống lâu, cầu mạnh khỏe bình an, cầu giàu sang, công việc thuận lợi, cầu tất cả lợi ích ở thế gian; nhưng không cầu vãng sanh về Tây phương.

 

Một chữ Chết thì có thể kiểm nghiệm người niệm Phật có đầy đủ Tín, Nguyện hay không? Hãy tự hỏi lòng mình, chúng ta có sợ chết không? Nếu như chết ngay lập tức thì Phật A Di Đà liền đón chúng ta vãng sanh về Tây phương, chúng ta có bằng lòng không? Một người niệm Phật thật sự là người chán lìa cõi Ta bà này, thích cầu về cõi Cực Lạc thì nhất định cho sự chết là như trở về. Bất cứ lúc nào, họ cũng mong sớm theo Phật A Di Đà về thế giới Tây phương Cực Lạc thì tuyệt đối không sợ chết, luôn mong muốn vãng sanh liền. Còn người niệm Phật giả tạo trong ngoài khác nhau, Tín, Nguyện không thật là người tham sống sợ chết, không muốn chết, không muốn vãng sanh, cầu sống lâu, có rất nhiều lý do ràng buộc. Chúng ta nên biết tâm người nào sợ chết, không muốn chết, không muốn cầu vãng sanh thì trái với tâm Phật A Di Đà, không đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh thì làm sao họ thành tựu vãng sanh về Tây phương được?

 

Ngày nay, một nghìn người niệm Phật thì có chín trăm chín mươi chín người niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự thì một chữ Chết thường ở trong tâm, tự mình luôn kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái chết, luôn mong cầu sớm được vãng sanh về Cực Lạc; đây là người niệm Phật thật sự “chán lìa Ta bà, thích cầu Cực Lạc”. Như thế, một nghìn người niệm Phật, nghìn người vãng sanh; vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh, không một người nào mà không sinh về Tây phương."

 

Trong quyển Niệm Phật Thập Yếu của hoà thượng Thích Thiền Tâm cũng dạy:

"- Đường sanh tử nhiều nguy hiểm: Với tuệ nhãn, đức Phật đã thấy tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đã trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, đã từng chịu muôn ngàn đau khổ trong con đường sanh tử. Vì không có người dẫn đường nên chúng sanh đành chấp nhận số phận hẩm hiu mà không biết phải làm gì hơn là phó mặc cho kiếp đời trôi nổi. Kể từ khi đạo giác ngộ được ra đời, chúng sanh có cơ hội để giúp cho tự thân mình thoát ly ra được. Mặc dù vậy, cho đến hôm nay chúng ta vẫn đang sống một kiếp đời phàm phu trôi nổi. Nhưng có một điều may mắn là trong kiếp đời hiện tại chưa phải mang lông đội sừng đó là cơ hội duy nhất để được tiếp cận giáo lý mầu nhiệm này. Nhưng gặp được giáo lý cao thâm mà tu tập mong cầu phước báo hữu lậu nhân thiên, được trở lại trong cuộc đời để tận hưởng những dục lạc thường tình là không đúng; cho dù chúng ta phát tâm tu để được hưởng phước của chúng sanh ở cõi trời thì cũng không phải là nguyện vọng chính yếu của ba đời chư Phật. Ngài Tỉnh Am nói người phát tâm tu như vậy gọi là Tà.    
Bởi vì dù làm chúng sanh cõi trời thì vẫn còn bị luân hồi sanh tử. Cho nên cốt tuỷ của đạo Phật là  làm sao cho chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử, không còn rơi vào trong Tam đồ khổ nữa mới là đúng với bản hoài của chư Phật."

 

Đó gọi là thấy được sự thật đáng sợ của dòng lũ sinh tử mà phát tâm giác ngộ.

Nếu chẳng vì lìa sanh tử mà khởi tu, như kinh Lăng Nghiêm nói, đó là dùng tâm sinh diệt mà tu, vậy mà muốn khi lâm chung được vãng sinh thì khó như hái sao trên trời vậy.

 

Thứ hai, là trụ tâm tu hành.

Vì pháp môn Tịnh độ bao trùm khắp mọi căn cơ nên ứng với từng căn cơ chúng sinh mà sự trụ tâm tu hành cũng có ba bậc:

 

Bậc hạ: Không kể ngu hay trí, nếu chẳng vì sự lìa thoát sinh tử mà niệm Phật thì đều ở bậc này. Như ngài Tỉnh Am gọi là Tà tâm niệm Phật hay dùng vọng tâm mà niệm Phật. Bậc này cũng gọi là ít thiện căn, ít phước đức nhân duyên, chẳng có Tín Nguyện chân thật, chỉ dùng pháp môn Tịnh độ gieo Phật chủng vào tâm thức, để làm nhân giải thoát cho đời sau. Như vậy sự trụ tâm của bậc hạ này hoàn toàn nơi vọng tâm, trụ nơi lục trần.

Vì trụ tâm nơi lục trần sanh diệt nên bậc hạ cũng được gọi là không phát Bồ đề tâm.

Nếu tự biết lỗi lầm, nghiệp chướng của mình, phát đại tâm thật sự sám hối, nguyện lìa bỏ sinh tử luân hồi, cầu sanh Cực Lạc thì mới có thể được vãng sinh, khi ấy sự trụ tâm sẽ vào bậc trung.

 

Bậc trung: Không kể ngu hay trí, lãnh ngộ được nỗi khổ sinh tử, phát khởi được Tín tâm vào pháp môn Tịnh độ, tha thiết niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Đó là người biết nương theo Bản nguyện độ sanh của Phật Di Đà, mong chuyển thân vọng nghiệp để được thân hóa sanh kim cang chân thật.

Đó là trụ tâm nơi pháp môn Tịnh độ, nơi Bản nguyện vĩ đại của Phật Di Đà.

 

Bậc thượng: Không kể ngu hay trí, là người đã phát khởi Tín tâm chân thật, phát nguyện chân thật, dùng diệu hạnh Trì danh Thánh hiệu A Di Đà Phật đã chứng ngộ được niềm tin ban đầu của mình. Trong tâm không chút hồ nghi với pháp, lại còn được tự tại chẳng mắc vào pháp.

Với bậc này, tám vạn bốn ngàn pháp môn Phật dạy đều là pháp môn Tịnh độ, tất cả hạnh lành đều là hạnh Tịnh độ, tâm quyết định vãng sinh.

Khi đó, tâm an trụ nơi Lực Tiếp Dẫn của Phật Di Đà.

Thế nào là Lực Tiếp Dẫn của Phật Di Đà: Vì rằng Bản nguyện của Phật Di Đà là tiếp dẫn tất cả chúng sinh về cõi Tây Phương, thọ dụng giống Phật.

Lực tiếp dẫn này bình đẳng đối với cửu giới chúng sinh: từ bậc Đẳng giác Bồ tát Nhất sanh Bổ xứ đến chúng sinh nơi Vô gián địa ngục.

Lực tiếp dẫn này cũng là Hào quang của Phật Di Đà thu nhiếp hết tất cả chúng sinh niệm Phật, ngăn chúng ma chẳng có cơ hội phá hoại đường tu.

Lực tiếp dẫn này chính là con đường lưu thông giữa tâm Phật và tâm chúng sinh.

Vì thế hễ tâm được an trụ nơi Lực tiếp dẫn của Phật thì cũng tức tâm Phật, tâm chúng sinh thầm tương thông lẫn nhau; đó cũng gọi là cảnh giới Niệm Phật chẳng gián đoạn của người tu Tịnh Độ.

 

Vì rằng tâm an trụ nơi Lực tiếp dẫn của Phật nên chỉ cần hơi thở ra mà không trở lại, tâm thức lập tức nương theo Lực tiếp dẫn của Phật về cõi Tây Phương Cực Lạc, hóa sanh trong thai sen báu.

 

Vì Lực tiếp dẫn của Phật Di Đà là chân thật nhất trong tất cả sự chân thật, nên trụ tâm nơi đó cũng tương ưng với cảnh giới "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" trong kinh Kim cang đức Thích Ca đã dạy vậy.

 

 

Nghi vấn thứ 48: Nếu tâm đã quyết định được vãng sinh mà tha hồ tạo nghiệp cũng vẫn được vãng sinh ư?

Đáp: Nếu đã chắc chắn vãng sinh sẽ không hề có chuyện tha hồ tạo nghiệp. Vì sao? Vì như nghi vấn thứ 47 đã nói, nếu tâm đã quyết định vãng sinh thì đã được an trụ nơi Lực tiếp dẫn của Phật Di Đà, khi đó tâm hành giả niệm Phật và tâm Phật thầm tương thông; lại nữa, chắc chắn vãng sinh cũng là đạt đến lý Niệm Phật không gián đoạn. Dù đôi khi vọng niệm che lấp nhưng thật ra tâm này chưa từng rời Thánh hiệu. Việc vãng sinh xin đừng nghi!

Viết xong ngày 17 tháng 11 năm 2014

Đệ tử Pháp Đức kính bút.

Kệ hồi hướng

Nguyện đem công đức này

Trang nghiêm Phật Tịnh độ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ ba đường

Nếu có ai thấy nghe

Đều phát Bồ Đề tâm

Hết một báo thân này

Đồng sanh cõi Cực Lạc.

Phụ lục: Các tác phẩm tham khảo:

1. Di Đà sớ sao, Liên Trì đại sư.

2. Tịnh độ thập nghi luận, Trí Giả đại sư.

3. Tây Phương yếu quyết, Khuy Cơ đại sư.

4. Di Đà yếu giải, Ngẫu Ích đại sư.

5. Niệm Phật thập yếu, Hòa thượng Thích Thiền Tâm.

6. Niệm Phật tông yếu, Pháp Nhiên Thượng nhân.

7. Mấy điệu sen thanh, Hòa thượng Thích Thiền Tâm.

và các tác phẩm Phật học khác.

 

Pháp Đức

(Người Phật tử)

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin