Chi tiết tin tức

Suy Ngấm Cuộc Sống Theo Lời Phật Dạy

09:28:00 - 31/01/2015

 

MÓN NỢ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ TÌNH CẢM

Thất tình lục dục, là bảy thứ tình cảm được biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của một con người, đó là nói theo căn bản còn sâu xa hơn nữa có vô số vấn đề trong tình cảm. Thất tình lục dục ví như những cục nam châm khi gặp sắt, cũng vậy tâm luyến ái lúc nào cũng muốn hút con người ta vào vòng lẩn quẩn dính mắc của sự yêu thương và ghét bỏ.

Thất tình là bảy thứ tình cảm mà mỗi chúng ta đều có như: Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét bỏ và ham muốn. Bảy trạng thái hỗn hợp này luôn luôn chi phối đời sống của chúng ta, hễ khi nào tâm ý ta dính mắc vào một thứ gì, thì nó sẽ bộc lộ ra nơi nét mặt hay cử chỉ, lời nói và hành động.

Như khi chúng ta hân hoan vui vẻ, sẽ thể hiện ra bộ mặt xinh đẹp dễ thương, khi chúng ta buồn bã hay bất an lo lắng một điều gì thì mặt mày ta héo hon, ủ dột, khó coi.

Còn khi chúng ta giận ai thì mặt mày tái mét, hoặc đỏ bừng lên tay chân run rẫy dẫn đến mất tự chủ nên nói năng và hành động làm tổn hại người khác. Khi chúng ta yêu thương ai quá mãnh liệt làm cho mình cảm thấy rạo rực, bồn chồn trong lòng.

Khi ghét ai ta thể hiện nét mặt cau có hay tinh vi hơn là bên ngoài thể hiện bình thường nhưng trong lòng trào dâng cảm xúc khó chịu, bực bội. Khi quá ham muốn một điều gì ta bất chấp mọi hậu quả xảy ra để đạt được mục đích của mình. Đó là sơ nét về tâm lý tình cảm của một con người, nếu đi sâu vào từng chi tiết cụ thể chúng ta cần phải có thời gian chiêm nghiệm và suy xét thêm nhiều hơn, mới thấu rõ tường tận cảm xúc buồn thương, giận ghét.

Lục dục là 6 điều ham muốn qua sự tiếp xúc giữa mình và người khác khi đối duyên xúc cảnh, đã trở thành thói quen khó sửa đổi nhiều đời của một con người.         

Thấy các đồ vật hình sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và hình sắc nam nữ rồi sinh luyến ái tham đắm vào đó.    

Thấy hình dung đoan chánh, tướng mạo tốt đẹp mà sanh lòng tham đắm.

Thấy tướng đi, đứng, nằm ngồi, nói cười mà sanh lòng ái nhiễm.

Nghe tiếng nói trau chuốt êm ái thích ý vừa lòng, giọng ca lảnh lót, tiếng nói dịu dàng mà sanh lòng yêu thích luyến ái.

Thấy da thịt của nam nữ mịn màng, trơn láng mà sanh lòng thương mến, yêu thích rồi chấp giữ vào đó.

Thấy hình nam nữ dễ thương mà sanh lòng đắm trước dính mắc vào đó mà phát sinh thèm khát muốn chiếm đoạt.

Nếu chúng ta không chấp vào hình ảnh mọi sự vật là thật có thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà cửa sang trọng, các loại xe đẳng cấp, quần áo đẹp đẽ, se sua chưng diện xa hoa, ăn uống quá mức và vui chơi trác táng…mà chúng ta chỉ cần sống đơn giản đạm bạc, nhu cầu vừa đủ nhờ vậy thân tâm trong sáng nhẹ nhàng và ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Nếu chúng ta không dính mắc vào âm thanh, lời nói, văn tự vì nó là vọng duyên hư dối không thật có, thì con người sẽ an nhiên tự tại trước những lời khen chê và xem những âm thanh lớn nhỏ vừa lòng hay không vừa lòng như gió thoảng qua tai.

Thất tình lục dục là những thứ tình cảm nó giống như những cục nam châm khi gặp sắt, con người ta cũng vậy nam nữ gặp nhau đam mê say đắm sắc dục mà không có ngày thoát ra. Những mong muốn tìm cầu được thỏa mãn nhà Phật gọi là vị ngọt, thích một thứ âm thanh êm dịu nhẹ nhàng, thấy một hình ảnh đẹp ta đam mê dính mắc vào đó để được thỏa mãn, sự thỏa mãn đó chính là vị ngọt của dục lạc, là cái đã đáp ứng được cho lòng ham muốn, làm cho ta cảm thấy đam mê ngất ngây trong hạnh phúc rồi chìm đắm trong đó.

Ai có lập gia đình rồi mới biết chính xác hôn nhân trong tình yêu lứa đôi, không phải đơn giản như ta nghĩ trai gái lớn lên là phải có vợ, có chồng. Nhiều người nghĩ rằng có vợ có chồng là để lo tương lai và sự nghiệp cho ta sau này. Bởi vì ta có vay nợ nhau nên mới sinh ra và gặp nhau để trả nợ hoặc do tình cảm luyến ái trong buộc ràng nên chúng ta phải sống với nhau, tạm gọi là nghĩa vụ vay trả! Thực tế, trong tình cảm cuộc đời nó không phẳng lặng như mặt nước hồ thu mà lúc nào cũng có sóng gió, bão tố, như là những chướng duyên, nghịch cảnh để ta phải tìm cách giải quyết cho hài hòa.

Đôi khi nhìn bên ngoài nhiều người thấy gia đình đó sống thật hạnh phúc quá trời, nhưng đi sâu vào bên trong ta mới thấy họ sống chỉ có hình thức bên ngoài để che mắt thiên hạ vì sĩ diện, vì gia đình người thân và con cái. Có những chuyện tình rất đẹp, rất nên thơ, rất đáng nhớ và đáng được người đời ca tụng. Có những bài tình ca bất hủ ca ngợi về tình yêu, có những bức tranh tuyệt đỉnh nói về sự hấp dẫn và sự quyến rũ của tình yêu. Nói tóm lại, giá trị tình yêu từ xưa nay được sách sử viết nhiều, nói nhiều, nhắc nhiều, kể nhiều mà cũng không bao giờ làm cho giá trị của tình yêu bị phai nhạt và mờ ảo.

Trong cuộc sống hôn nhân gia đình, dù mỏi mệt, dù trăm công ngàn việc phải lo, dù vui ít khổ nhiều mà ít ai chối bỏ được tình yêu nam nữ. Khi chúng ta lớn lên bổng nhiên có điều gì đó thúc đẩy đôi trai gái tìm hiểu nhau, rồi thương nhau, thích nhau và dẫn đến yêu nhau rồi lập gia đình. Trong hôn nhân có nhiều sự ràng buộc và hệ luỵ là khổ đau bởi trong tình yêu có tình dục, có trách nhiệm, có bổn phận, có cảm thông và tha thứ, mới duy trì được hạnh phúc hôn nhân lâu dài.

Trong tình yêu chúng ta phải có ý thức, trách nhiệm; ngoài việc quan hệ tình dục với nhau, chúng ta còn phải có tình chồng nghĩa vợ; tình là tình ân ái, nghĩa là nghĩa vợ chồng, và phải biết cách nuôi dạy con cái cho đàng hoàng. Cho nên nói tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề. Người Phật tử chân chính hãy nên sống thuỷ chung, thành thật, hy sinh, trách nhiệm và biết tôn trọng, biết nhường nhịn, biết chia sẻ, biết tha thứ, biết chia ngọt xẻ bùi thì ta sẽ đón nhận được hạnh phúc tràn đầy qua cuộc sống.

Ai cũng biết, hạnh phúc của bố mẹ là hạnh phúc của con cái, nếu cha mẹ chia ly thì con cái cũng bị ảnh hưởng và đau khổ. Do mất mát tình cha mẹ, không người nương tựa, con cái sẽ xao lãng việc học hành của mình mà có thể tụ tập theo bạn bè xấu, để rồi dính mắc vào vòng tội lỗi.

Giữa vợ chồng và con cái còn có sợi dây luyến ái, quan hệ mật thiết với nhau bởi tình cảm nợ nần nhiều đời vay trả. Chúng ta muốn bảo vệ được hạnh phúc gia đình, vợ chồng phải biết thông cảm, tin tưởng, chung thủy, thường xuyên trao đổi tâm tình, phấn khích cho nhau, cùng đồng tâm hiệp lực nuôi dạy con cái và có sự chịu đựng hy sinh.

Nhưng thực tế trong cuộc sống có thân là có khổ, chúng ta hay thèm muốn được như chim trời, cá nước để được tự do. Thật ra, được làm người quả là một điều diễm phúc rất lớn lao vì có suy nghĩ, hiểu biết; nếu chúng ta tin sâu nhân quả giữ thuỷ chung và thành thật với nhau, biết cảm thông và tha thứ thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc..

Cho nên, sống ở đời ta phải biết vị tha, bao dung và độ lượng, yêu thương nhau bằng trái tim hiểu biết và bằng tình người trong cuộc sống. Đến lúc đó, hôn nhân không còn là nỗi sợ hãi dày vò tâm trí ta mà còn có thể làm đẹp thêm trong tình yêu lứa đôi, làm đẹp thêm cho cuộc đời, bằng sự hiểu biết chân chính và nhận thức sáng suốt nhờ tin sâu nhân quả và sống theo lời Phật dạy.

Trong mối tương quan cuộc sống tình cảm thiêng liêng cao quý nhất đó là tình cha mẹ, là sự kết tinh kỳ diệu bởi tình yêu thương vô bờ bến, là ơn sâu nghĩa nặng không gì có thể sánh bằng. Ai đã đem đến cho ta sự sống, ai đã mang nặng đẻ đau nuôi ta khôn lớn, khi mở mắt chào đời ta đã được bầu sữa ngọt ngào từ người mẹ làm cho ấm lòng.

Nhịp cầu kết nối tình thương là gia đình, giữa cha mẹ và con cái, tạo nên sợi dây quyến thuộc từ đó bắt đầu hình thành xã hội của sự trả vay theo nguyên lý nhân quả. Do luyến ái hạnh phúc của sự êm dịu ngọt ngào trong tình yêu nam nữ mà ta có nên hình hài này. Trong tình yêu nam nữ có một lực hút từ trong sâu thẳm vô cùng mãnh liệt, luôn thôi thúc chúng ta yêu thích và kết tình chồng vợ, nó có thể làm cho con người ta sống tốt hơn nhờ tinh yêu thương chân thật, ngược lại nó sẽ làm cho ta đau khổ vì không có sự thông cảm và tha thứ cho nhau.

Do đâu mà hai người khác phái yêu thích nhau? Trong khi đó trời đất bao la kẻ Nam người Bắc, hẹn hò rồi gặp nhau mà trao cho nhau để được gì? Từ chổ ràng buộc của nghiệp duyên quá khứ đã ăn sâu vào tàng thức, cho nên khi mới gặp nhau là ta đã thích nhau rồi, từ đó dẫn đến yêu thương hò hẹn mà phát sinh ra sự luyến ái nhớ nhung khi không được gặp mặt.

Ái dục làm cho con người ta đam mê say đắm chạy theo hoài mà không biết thỏa mãn. Từ chỗ ta si mê chấp ngã nên dẫn đến ham muốn này đến ham muốn khác, do đó chúng ta không bao giờ biết dừng lại ở cái gọi là tạm đầy đủ. Vì sự khao khát mong muốn vừa mới đạt được, chúng ta cảm thấy hạnh phúc nên muốn gìn giữ mãi, chính sự nắm giữ này tạo ra tham ái ngày càng nhiều hơn nữa.

Đức Phật cũng thừa nhận rằng ái dục là một sự thật cũng đem đến hạnh phúc, đem đến sự khả ái, khả lạc, sự thỏa mãn cho con người nghĩa là ngài cũng thừa nhận niềm vui của dục lạc, nó có vị ngọt, làm cho con người bị say mê và tham đắm vào chúng. Nói cho đầy đủ hơn chúng ta vẫn thấy rằng sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự xúc chạm êm dịu luôn có vị ngọt làm say đắm lòng người.

Muốn đạt được hạnh phúc, thỏa mãn dục lạc, con người phải ra sức tìm cầu, phải tạo dựng để gặt hái kết quả. Con người cần có nhà cao cửa rộng, tiền tài danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp và mọi nhu cầu cần thiết để đáp ứng sự tham muốn của chính mình. Chính vì vậy chúng ta phải cố gắng làm lụng vất vã, lao tâm nhọc sức chịu đủ mọi sự nhọc nhằn đến với bản thân như ốm đau bệnh tật, bởi mưa nắng, gió sương và vô số trạng thái khổ đau khác mà con người phải gánh chịu để đạt được mục đích.

Chúng ta luôn mong cầu tìm kiếm nhằm thỏa mãn cái tôi và của tôi mà người đời gọi là “giá trị cuộc sống”. Nhưng cuộc sống thì luôn thay đổi và biến chuyển theo thời gian. Cái giá trị cuộc sống của ngày hôm qua, đã được thay thế bằng một cái khác, có giá trị hơn. Con người sẽ khổ đau khi tài sản, hạnh phúc tan rã, cuộc sống gặp trắc trở rủi ro. Họ sẽ buồn khóc, than trời, trách đất và thái độ tiêu cực đó chỉ mang lại cho bản thân họ thêm khổ đau vướng mắc về lâu dài.

Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm, tình yêu nam nữ là loại tình cảm mãnh liệt nhất hơn các loại tình cảm khác, bởi vì nó tạo ra cảm giác đê mê thích thú khi hai người cùng hướng tâm vào một điểm. Nó có thể lướt qua tình cha mẹ mà phần đông con người đều như thế, bởi nghiệp duyên luyến ái nhiều đời đã hằn sâu vào ký ức chúng ta.

Tình cảm nam nữ luôn có sự thôi thúc âm thầm bởi tình dục, đầu tiên là mến, thích, thương rồi kế đến là yêu nhau. Tình yêu này là một đề tài muôn thuở luôn được đặt lên hàng đầu trong công cuộc phát triển và gìn giữ giống nòi nhân loại. Chính bản năng hưởng thụ cảm giác khoái lạc mà con người ta tìm đến nhau, khi được thì bám víu chấp trước dính mắc vào đó mà dẫn đến ghen tuông rồi thù địch lẫn nhau vì tâm ích kỷ phát sinh.

Nếu trong tình yêu thương nam nữ chúng ta có chút lòng bao dung, độ lượng biết chịu đựng hy sinh cho nhau, tình yêu đó luôn được mọi người ca ngợi và tán dương. Tha thứ và biết cảm thông cho nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình, trong tình yêu thương chúng ta không quá chú trọng vào tình dục mà phải có sự sẻ chia, trách nhiệm bổn phận nuôi dạy con cái. Biết bao nhiêu chuyện vợ chồng gây gỗ, đánh đập nhau vì ngoại tình và dẫn đến ly dị làm cho con cái bơ vơ đau khổ.

Chỉ có những người thật sự tin sâu nhân quả thì họ mới giữ trọn vẹn bằng tình yêu chân chính để sống đời hạnh phúc trong hôn nhân. Họ sẽ sống hết lòng với nhau đến long răng tóc bạc, biết cách nuôi dạy con cái không để chúng rơi vào tình trạng ỷ lại, những đứa con hư hỏng phần nhiều do sự cưng chiều quá mức của mẹ cha.   

Chữ tình cảm ở đây dành cho tất cả mọi người cho nên nó có tốt xấu lẫn lộn, chính sự tình cảm này làm cho ta luyến ái dính mắc mà mãi bị chìm đắm trong biển khổ sông mê của dòng luân hồi vô tận. Ai sống nặng về tình cảm thì sẽ chịu nhiều đau khổ do cảm xúc thương ghét, buồn vui, họ dễ phiền muộn day dứt và rất nhạy cảm với những chuyện không đâu.

Có nhiều gia đình vợ chồng sống bên nhau hay rày rà lục đục, họ nuối tiếc, họ chán nản, họ thất vọng ở gần bên nhau thì tranh cãi phiền giận tối ngày, khi xa nhau thì nhớ thương, mà gần nhau thì đau khổ bởi những chuyện linh tinh. Nhiều người vẫn biết đó là món nợ tình cảm do mình thích được ngọt ngào, êm dịu, thích được mơn trớn vuốt ve, thích được đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết. Nhưng ở đời có nhiều cái trớ trêu theo tình tình phụ, phụ tình tình theo, người mình thương thì họ lại bạc bẽo, kẻ thương mình thì mình lại chối bỏ, rốt cuộc rồi vì nặng về tình cảm nên ta phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Cho nên, ai muốn vượt qua sự bi lụy của tình cảm thì phải cần có sự hiểu biết chân chính dùng lý trí để chuyển hóa si mê luyến ái bằng sự chánh niệm tỉnh giác, tin sâu nhân quả. Sống được như thế ta từng bước biết cách làm chủ bản thân để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

HIỂU BIẾT CUỘC ĐỜI.

Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu? Chúng ta chẳng dám nói rằng mình hiểu hết mọi lẽ nhân sinh cuộc đời, nhưng có chút hiểu biết chân chính ta vẫn làm việc đóng góp, phục vụ mà vẫn sống thanh thản, thoải mái, an nhiên tự tại.

Nếu ta để một ngày trôi qua lãng phí, thì ta làm mất đi một ngàn ngày khác. Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là quý giá, tâm linh là hơn hết, làm người nhớ khắc ghi.

Tiền không phải là tất cả, là trên hết, nhưng không phải không có giá trị trong cuộc sống. Chúng ta đừng nên quá coi trọng đồng tiền, càng không so đo, tính toán mà trở thành ích kỷ, đồng tiền là vật vô tri do ta tạo ra nó không phải là chánh báo. Nếu có người cần giúp đỡ, sẻ chia ta nên rộng lượng mở chút tấm lòng, tuỳ theo khả năng.

Người khôn ngoan biết kiếm tiền bằng mồ hôi, khối óc của chính mình và biết cách xài tiền đúng với giá trị của nó. Chúng ta làm chủ đồng tiền, vì đồng tiền do mình tạo ra nó là vật vô tri, cho nên ta đừng làm tôi tớ cho nó. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo ra. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, chúng ta luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ hạnh phúc do biết cách buông xả ý niệm xấu ác mà hay giúp người cứu vật.

Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự biết cách thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng gia tăng để phát triển thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống an ổn vui tươi lành mạnh hơn, và giàu lòng nhân ái hơn.

Chúng ta cần có tấm lòng rộng mở, quý trọng yêu thương gìn giữ cuộc sống và biết cách thưởng thức cuộc sống, khi nhìn lên chẳng bằng ai, ngó xuống thấy mình còn quá nhiều diễm phúc, biết đủ và bằng lòng với hiện tại thì hạnh phúc tràn đầy.

Sống tốt với mọi người, biết chia sẻ và giúp đỡ khi cần thiết, đó cũng là niềm vui. Con người sống giàu nghèo hay sang hèn do do phước duyên tu tạo nhiều đời, hiện tại ta chỉ biết tận tâm, tận lực vì công việc là coi như đã có chút phần cống hiến, như vậy ta có thể yên lòng mà cố gắng làm việc nghĩa nhiều hơn. Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình người thân, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu cho nên chúng ta quay lại chính mình mà sống ngay trong giờ phút hiện tại.

Chúng ta đừng để bản thân mình cứ suốt ngày miệt mài theo đuổi mục tiêu này, đam mê nọ mà hãy dành cho ta thời gian để quay lại chính mình. Đôi khi chúng ta cũng phải tự khen ngợi, động viên an ủi chính mình đễ vượt qua những khó khăn. Có được như thế chúng ta mới vững tin hơn để tiếp tục cuộc hành trình mà mình đã đi và đang đi. Dù cuộc sống có bộn bề công việc, biết bao lo toan nhưng ta vẫn dành cho mình những giây phút quay trở về thực tại với bản thân mình, ta sẽ thấy cuộc sống đáng trân trọng và có ý nghĩa làm sao đâu! Nhờ vậy ta sẽ biết cách sống tốt hơn để làm hành trang cho cuộc hành trình làm mới lại chính mình.

Sống là phải hoạt động, làm việc để tập thói quen đóng góp chia sẻ, nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá đạm bạc thì không đủ sức khoẻ để phục vụ tha nhân, quá nhiều thịt cá thì giảm đi rất nhiều lòng từ bi. Quá nhàn rỗi thì dễ sinh buồn chán, quá ồn ào thì cảm thấy mệt mỏi, khó chịu.... Nói chung tất cả mọi thứ đều có chừng mực là tốt.

Người thiếu hiểu biết thì đưa vào cơ thể các tạp chất độc hại như hút thuốc, uống rượu say sưa, tham ăn tham uống, vui chơi trác táng quá đáng. Người ngu dốt và nghèo thiếu chờ bệnh hoạn ốm đau mới đi khám chữa bệnh. Người khôn biết phòng bệnh, biết điều hoà trong ăn ăn uống ngủ nghĩ và làm việc. Ai cũng biết hạnh phúc được xây dựng trên nền tảng sự bình an và tự tại trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là ước mơ cao cả nhất mà con người chúng ta ai cũng mong mỏi để đạt được như ý muốn.

Theo vòng quay của cuộc sống với bộn bề công việc khiến cho con người càng trở nên hối hả và gấp gáp hơn vì phải ăn uống làm việc trong vội vả. Con người cứ mãi lo toan với miếng cơm manh áo để sinh tồn mà quên đi làm cách nào để được bình yên hạnh phúc. Chính vì vậy, có nhiều người của cải vật chất đầy đủ, đạt được những gì mình mong muốn nhưng vẫn không cảm nhận được sự bình yên an vui của nội tâm. Bởi họ luôn gặp những căng thẳng, và phải đấu tranh để gìn giữ những gì mình đang có.

 Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.

Con người không thể sống biệt lập, tách rời xã hội mà che mắt bịch tai, nên chủ động tham gia các hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cuộc sống lành mạnh. Con người ta chịu đựng, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất.              

Người sống độc thân sẽ không phải bị ràng buộc đời vào đời sống hôn nhân gia đình hạnh phúc lứa đôi. Chúng ta tự do với chính cuộc đời mình mà thoải mái làm việc đóng góp lợi ích xã hội. Chúng ta sẽ thảnh thơi tự do giao tiếp gặp gỡ nhiều người, nói cười vui tươi. Sống độc thân là một diễm phúc để chúng ta có cơ hội rèn luyện thân tâm khỏi vướng bận về mình và người. Để giữ cho trái tim của chúng ta khỏi phải vá víu vì những men say tình ái của đời sống lứa đôi. Cũng như dòng nước đổ xuống sẽ không bao giờ chảy ngược trở lại. Thời gian cứ âm thầm lặng lẽ trôi qua sẽ không bao giờ có thể quay lại, đó là sự thật nhưng ít ai quan tâm để ý.

Học vấn, kiến thức, hiểu biết những điều ta học được từ sách vở không quan trọng bằng kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm và những điều học hỏi được từ cuộc đời. Trải qua thất bại và học hỏi từ chính những thất bại đó làm cho chúng ta trở nên chững chạc hơn trong cuộc sống. Thời gian là một tài sản vô giá và quý trọng nhất trong cuộc đời, nên thời gian là vàng là bạc. Bởi thế khi còn thời gian thì chúng ta sẽ có thể làm được nhiều việc, mà đóng góp lợi ích cho nhân loại. Trong cuộc sống với bộn bề công việc cùng bao nỗi lo toan, chúng ta cảm thấy quá mệt mỏi và căng thẳng nên  đi chùa lễ Phật để cầu khẩn van xin mong sự trợ giúp của Phật pháp để giải tỏa những bế tắc.

Thực tế cho thấy khi chúng ta biết buông xả những lợi danh hay thù hận, thì tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của phiền não tham, sân, si, mà cảm nhận được niềm vui. Có buông xả được thì lòng ta mới rộng mở, ai có làm điều gì xúc phạm ta cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có buồn giận chỉ trong thoáng chốc rồi cũng bỏ qua. Nhưng chúng ta phải biết buông xả không có nghĩa là buông bỏ, dẹp hết tất cả mọi công ăn việc làm để chỉ lo cho bản thân mình. Không có nghĩa là chối bỏ, trốn tránh trách nhiệm đối với gia đình người thân và xã hội.

Là người Phật tử chân chính, chúng ta biết buông xả những thói quen có hại cho người, vật nhưng phải luôn có trách nhiệm trong cuộc sống. Để Bồ đề tâm chúng ta ngày càng thêm vững chắc, để ta có cơ hội trả ơn công lao sinh thành của cha mẹ, mà vẫn chu toàn mọi việc. Chúng ta làm việc sẽ tốt hơn, sống có ý thức và trách nhiệm hơn. Lẽ sống chính là hoài bão và sứ mệnh của cuộc đời, là giá trị nền tảng của chính mình. Và khi ta sống có ý thức trách nhiệm ta sẽ biết mình là ai, mình sống để làm gì, mình sẽ dùng 60 cuộc đời này để làm việc đóng góp và phục vụ tha nhân.  

Chúng ta hãy nên nhớ kỹ một điều: không ai có thể sống thay giùm cho ta được, dù đó là cha mẹ hay những người thương yêu nhất của ta. Chỉ có ta mới có khả năng làm chủ bản thân quyết định cuộc đời mình, ta phải gánh chịu sự đau khổ hay an vui hạnh phúc. Thiên đường hay địa ngục hoàn toàn do ta, chứ không có ai ban phước giáng hoạ.

Quá trình trưởng thành của một đời người gian nan biết bao, cứ mỗi lần vấp ngã, ta lại đứng lên và vững vàng hơn một chút. Sau này có thời gian nhìn lại mới thấy, ta đã học được cách bình thản đối diện với cuộc sống hiện thực, ta không còn ôm lấy những vết thương lòng sau khi vấp ngã nữa. Ai chẳng có những nỗi đau bất hạnh mà chính mình đã gây nên. Chúng ta cần một trái tim mạnh mẽ, một sự kiên nhẫn bền bỉ và dũng cảm để chấp nhận những xáo trộn của cuộc sống đang đi qua cuộc đời của ta.

Niềm vui cũng từ chính mình mà có, nỗi buồn cũng từ trái tim mà ra, để rồi chúng ta mới biết trân trọng bản thân mình như thế nào, mà biết cách bảo vệ mình cho tốt, để từng bước vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Trong cuộc đời, có những lúc buồn đau giăng kín khiến cho chúng ta lạc lối, không tìm ra lối thoát mà để dòng thời gian đang dần trôi qua nhanh. Chúng ta vô tình đánh mất chính mình vì bị nhấn chìm trong biển khổ sông mê. Nên có nhiều người ước mơ thời gian được quay trở lại, để có cơ hội chuyển hoá những nỗi khổ niềm đau mà ta đã lầm lỡ vướng phải. Tại sao chúng ta cứ mãi luyến tiếc những gì đã qua mà không biết sống trong giờ phút hiện tại.

Giữa bộn bề lo toan trong cuộc sống chúng ta khao khát tìm kiếm cái cảm giác bình yên của thân tâm. Đã quá nhiều áp lực, quá nhiều những nỗi đau thương mất mát và nó không còn giá trị thiết thực mà cuộc sống dành tặng cho chúng ta. Ngay cả đến thời gian để tận hưởng cuộc sống, để nhìn lại chính mình ta cũng chẳng thèm quan tâm để ý đến bao giờ.

Chúng ta quá nghèo nàn nên không thể dành một chút thời gian cho những người thân yêu của mình. Chúng ta cứ mãi cầu xin sự bình an, hạnh phúc mà không chịu làm chủ bản thân bằng chính bàn tay và khối óc của mình. Có những lúc chúng ta gục ngã và tưởng chừng như không có gì cứu vãn nỗi, nhưng chúng ta vẫn phải bước tiếp dù bước đi của ta có chậm đi đôi chút. Đó là chúng ta có chút hiểu biết cuộc đời.

 

TÌM HIỂU VỀ CÁI TÔI CỦA CHÍNH MÌNH

Mở đầu đề tài suy gẫm lời Phật dạy chúng tôi sẽ kể câu chuyện có tính cách minh hoạ để cho mọi người có thể hiểu biết khái quát về sự chấp ngã của con người. Một nhà sư nọ thường có những biểu hiện nóng giận, tham lam và ích kỷ. Mặc dù xuất gia đầu Phật đã lâu nhưng những cố tật ấy vẫn luôn tiềm ẩn bên trong, làm cho nội tâm của thầy luôn bị vẫn đục. Vốn là người quyết chí tu hành thoát ly sống chết đời này, nên nhà sư luôn tự quán xét lại chính mình mà thấy rõ bệnh “chấp ngã” rất nặng nề và từ đó thầy quyết tâm lập chí thay đổi chuyển hoá cho kỳ được để trở thành vô ngã, vị tha.

Con người từ khi có mặt trong cuộc đời, khi lớn lên sống làm việc và tồn tại nhờ cái tôi. Cái tôi là biểu hiện sự nhận thức của một con người về tư cách, nhân phẩm hoặc giá trị của chính mình, đặc biệt là để phân biệt mình với thế giới bên ngoài và các cá nhân khác. Cái tôi trong mỗi con người phát triển theo thời gian tuỳ theo sự xúc chạm cuộc sống.

Cái tôi trong mỗi người phát triển theo thời gian từ khi mở mắt chào đời. Khi còn nhỏ chúng ta ít bị sự tác động của gia đình vào nhận thức về chính mình. Một em bé sẽ ít bị tổn thương hay bị chạm tự ái như người lớn khi bị khiển trách. Trẻ em thường quên rất mau về những chuyện buồn phiền. Trong khi đó người lớn có thể tức giận rất lâu và có thể ghim vào trong lòng, nhớ hoài chuyện đau thương đó để chờ cơ hội trả thù.

Khi chúng ta làm những việc đóng góp có lợi ích cho xã hội, ta làm cho “cái tôi” của mình lớn hơn nếu không biết cách buông xả. Tuy nhiên, ranh giới giữa việc nhận thức cái tôi tích cực và cái tôi tiêu cực là rất mong manh. Mọi người trong chúng ta, ai ai cũng có “cái tôi” nó là cá tính và bản chất vốn có của mỗi con người. Sự thật khi còn trong bào thai mẹ và khi mở mắt chào đời con người đã hình thành cái tôi nên mới sống được và tồn tại.

Sự suy nghĩ, lời nói, việc làm của mọi người dẫn đến thành công làm cho chúng ta tự mãn và hãnh diện với sự thành công đó chính là lúc cái tôi hiện diện. Khi đó, cái tôi đã phình to ra vì tôi đã thành công hơn những người khác.

Kẻ thù lớn nhất của con người là cái tôi ích kỷ độc tôn muốn chiếm hữu mọi thứ trên đời này, từ ngữ Việt Nam gọi là cái tôi chính mình, tự ngữ Hán Việt gọi là bản ngã. Cái tôi này bắt đầu có từ lúc lọt lòng mẹ, một khi đã huân tập những thói quen dù tốt hay xấu sẽ rất khó sửa đổi, cho nên chúng ta dính mắc vào nó ngày càng sâu đậm hơn.

Mỗi cá nhân đều có những kinh nghiệm, học vấn, quan điểm, cách suy nghĩ riêng và nghề nghiệp tuỳ theo mình chọn lựa. Một khi chúng ta vượt qua chính mình, tức là vượt qua sự lầm chấp thân tâm này làm ngã, khi đó con người mới hoàn toàn thanh tịnh sáng suốt và an nhiên tự tại trước mọi chướng duyên nghịch cảnh của cuộc đời.

Cái tôi là cách mỗi người tự khẳng định mình trước người khác. Cái tôi được thể hiện mạnh mẽ, dữ dội, quyết liệt, rõ rệt,….khi bị đụng chạm, hoặc trong lúc tranh luận đúng sai, hơn thua, ….chính cái tôi giúp mình tự bảo vệ lấy mình. Người có cái tôi quá lớn, là người luôn xem mình là số một, không chịu thua kém bất cứ ai. Họ hay coi thường suy nghĩ, lời nói của người khác, chỉ thấy mình là hơn hết.

Sau khi sắp xếp mọi việc xong xuôi, nhà sư cho gọi chú tiểu đến rồi bảo: Từ nay thầy phát tâm nhập thất khoảng 3 năm để tu tập, cốt để diệt trừ cái bệnh chấp ngã của thầy từ vô thỉ kiếp đến nay. Con ở ngoài ráng cố gắng lo tròn mọi việc để thầy yên tâm tu hành quyết đời này giải thoát sinh tử? Chú tiểu gật đầu dạ lia lịa và nói rằng xin thầy cứ an tâm, mọi việc đã có con lo liệu hết rồi.

Sau 3 năm miệt mài tu tập, nhà sư vô cùng hân hoan mở cánh cửa thất, vui cười nói với chú tiểu rằng: Ta đã thành công rồi. Sau thời gian tu tập vô cùng miên mật, bây giờ ta đã dứt trừ được cái ngã chấp rồi. Bất cứ chuyện gì xảy ra cũng không thể làm cho tâm ta giao động nữa! Con hãy mừng cho thầy có được ngày hôm nay đi! Chú tiểu bỗng dưng trề môi, rồi nói: Thầy mà diệt trừ được chấp ngã thì chẳng khác nào con chó mà chê phân người vậy! Ông thầy nghe chú tiểu nói vậy liền đỏ mặt tía tai và tát cho chú tiểu cái bốp như trời giáng. Chú tiểu đau quá liền hét lớn: Thầy đã diệt trừ được ngã chấp rồi mà?

Qua câu chuyện trên chúng ta đừng vội phê phán hay chê cười nhà sư ấy, chỉ tiếc rằng thời gian 3 năm chưa có là bao so với vô thỉ kiếp từng vọng động phiền não tham, sân, si. Nhà sư ấy chưa hoàn toàn thành công như ý muốn, thật ra tự biết mình còn chấp ngã, và cố gắng thiết lập phương án tu tập để diệt trừ ngã chấp, thì nhà sư cũng xứng đáng là một vị chân tu thạc đức rồi. Nhưng chúng ta đâu thể dễ dàng một sớm một chiều mà có thể giải quyết xong món nợ ngu si chấp ngã từ vô thỉ kiếp đến nay. Quả là khó khăn khi chúng ta thấu đạt được căn bệnh ngàn đời của chính mình là sự ngu si chấp ngã, tức là chúng ta có phần hiểu biết về mình để dần hồi được chuyển hoá.

Trên thế gian này, chiến thắng vạn quân không bằng chiến thắng chính mình, chiến thắng chính mình mới là chiến công oanh liệt nhất! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trở thành bậc đạo sư lỗi lạc là thầy của trời người, vì Ngài đã chiến thắng chính mình bằng sự thật lịch sử cách nay trên 2600 tại Ấn Độ, đã được cả thế giới loài người hâm mộ khát ngưỡng tận cõi lòng. Từ một cương vị Hoàng thái tử có vợ đẹp con xinh thê thiếp đầy đủ, cung vàng điện ngọc, giang sơn gấm vóc và thần dân thiên hạ, chuẩn bị kế thừa ngôi vua.

Nhưng sự giàu sang tột đĩnh quyền cao chức trọng không giúp cho chính mình được bình yên hạnh phúc trọn vẹn, vì những thứ đó sẽ làm cho con người trở nên tham lam và ích kỷ nếu ta không biết cách buông xả.

Tự chiến thắng chính mình, chúng ta chẳng những không làm trở ngại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước mà còn làm tăng thêm sức mạnh nội tâm, để mọi người dễ dàng vượt qua những cám dỗ của cuộc đời. Nói cho rõ ràng hơn mọi sự thất bại trên đời này đều do chúng ta chưa làm chủ được những thói hư tật xấu, những tham muốn thấp hèn của bản thân.

Chiến thắng chính mình tức là ta khắc phục được những thói quen có tính hại người vật qua sự giả dối, lòng sân hận, tính tham lam, sự ganh ghét, tật đố….trên thế gian này hiếm thấy người hoàn thiện toàn diện. Chiến thắng chính mình không có nghĩa là chúng ta tự huỷ diệt bản thân mà là làm cách nào để không còn bị phiền não tham sân si chi phối, trong khi đó ta vẫn sống và làm việc như mọi người.

Chúng ta phải vượt qua kẻ thù nguy hiểm nhất là phải chiến thắng chính mình, ta phải đấu tranh với những thói hư tật xấu và sự tham muốn thấp hèn. Cá nhân chúng ta là tế bào của gia đình là thành viên của xã hội, cá nhân tốt thì gia đình bình yên hạnh phúc, xã hội sống an lạc thái bình.

Chủ nghĩa cá nhân được phát triển mạnh mẽ thì làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội. Cho nên người có hiểu biết chân chính là kẻ tự nhìn thấy khuyết điểm của mình rồi cố gắng ra sức chuyển hóa, để hoàn thiện chính mình nhiều hơn về mọi mặt.

Xã hội ngày nay phát triển toàn diện về tiện nghi vật chất đến mức cao tột, giúp cho con người tiết kiệm rất nhiều thời gian làm việc. Xét về những lời Phật dạy cách nay trên 2600 năm đối với con người trong mọi thời đại đều được lợi ích thiết thực vì tính nhân bản của nó.

KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ CHÍNH MÌNH

Con người luôn hướng ra bên ngoài để tìm kiếm và chinh phục thiên nhiên ngoại cảnh, trong khi đó chính chúng ta chưa làm chủ bản thân mình khi gặp những chướng duyên nghịch cảnh trong đời sống gia đình và xã hội.

Kẻ thù là gì? Là kẻ muốn chống đối, phá đám, làm hại lại người khác. Chữ kẻ thù là ngược lại với chữ “bạn” nghĩa là người thuận theo mình, luôn giúp đỡ mình về mọi mặt vì hạnh phúc của mình. Tuy nhiên, trên thực tế cuộc sống, có những trường hợp tưởng là thù mà thật ra là bạn và ngược lại. Do đó, ta không nên xét hình thức bên ngoài qua lời nói và hành động mà nên tìm hiểu kỹ tâm ý của người đó trước khi kết luận một điều gì.

Chữ chính mình có nghĩa là “Cái Tôi”, “Cái Ta”, “Ta đây”, “Ta là”, “hay còn gọi là bãn ngã...Đây là chữ chính yếu và quan trọng nhất trong câu này vì nếu mình có thể trả lời được cái “chính mình”đó là ai thì ta mới biết thật sự nó là bạn hay là thù. Vậy ta là ai, ta là gì? Chúng ta có bao giờ tự đặt câu hỏi này không? Chúng ta có thể biết có rất nhiều người sống cho đến cuối cuộc đời cũng không hề thắc mắc mình là ai, mình là gì cả.

Con người khác các loài súc vật là ở chỗ chúng ta có lý trí, có hiểu biết, có lương tâm biết phân biệt được đúng sai nên chúng ta không thể buông xuôi cho số phận để tiếp tục trôi mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Ta không nên để cho phiền não tham, sân, si chi phối nữa mà ngay bây giờ phải biết dừng lại, quay trở về chính mình để tỉnh thức, để biết rõ con người chân thật của chính mình, từ đó chúng ta mới thể nhập được chân lý sống mà dấn thân đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Đa số chúng ta chỉ tin rằng mình có một cái tôi thật sự bằng xương bằng thịt độc lập với mọi người khác, có những suy nghĩ riêng biệt, muốn làm gì thì làm, nghĩa là làm chủ được mình, có sự tự do quyết định vận mệnh của mình và đặc biệt là một số người tin là mình có một linh hồn tách biệt với thân xác, khi thân xác này hoại diệt thì linh hồn vẫn còn tồn tại mãi.

Nói cho chính xác hơn kẻ thù lớn nhất của đời mình là chủ nghĩa cá nhân hay bản ngã của chúng ta, tức là cái tôi, cái ta của mình. Vì cái tôi thấy mình là trung tâm của vũ trụ nên từ đó xãy ra tranh đấu xô xác giết hại lẫn nhau. Ta là trên hết, ta là đấng tối cao, khi con người chấp như thế rồi thì nó trở thành một thứ siêu vi khuẩn rất độc hại, mà hay sinh ra các thứ bệnh hoạn rất nguy hiểm như: Bệnh tham lam, ích kỷ, bệnh lười biếng, bệnh bảo thủ độc đoán, bệnh kiêu ngạo, bệnh ham danh vọng quyền lực, ham hưởng thụ quá đáng và tìm cách triệt buộc giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Thế gian thường gọi là chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của nhiều người khác.

Chủ nghĩa cá nhân là đặt lợi ích cho riêng mình, gia đình mình lên trên hết, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Họ không có tấm lòng mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình. Khi cái tôi đã hiện diện trên ngôi quyền lực, thì không việc ác nào mà họ chẳng dám làm, vì ta là trên hết. Cho nên Phật dạy kẻ thù lớn nhất của con người là chấp vào cái tôi thật có của chính mình. Người có địa vị cao trong xã hội sẽ lợi dụng quyền cao chức trọng của mình để quan liêu hách dịch tham nhũng bóc lột, lãng phí của công, thiếu ý thức trách nhiệm.

Kẻ thù lớn nhất của con người chính là ai? Chính là sự sai lầm chấp trước vào bản thân mình có cái thật ngã, nên phát sinh ra chủ nghĩa cá nhân mà làm tổn hại cho cuộc đời. Nếu chúng ta chiến thắng được lòng tham muốn của bản thân mình mà hay giúp người cứu vật với tấm lòng vô ngã vị tha thì không có kẻ thù nào có thể hại được ta. Bằng chứng thiết thực là cuộc đời của đức Phật với vô vàn chuyện oan trái do người đời tìm cách hãm hại. Chính sự bình thản an nhiên tự tại mà không cần minh oan, nhưng vẫn lật tẩy được những kẻ si mê thiếu hiểu biết, vì đức Phật không thấy ai là kẻ thù.

Theo quan niệm thông thường của thế gian, chúng ta được sinh ra đời để tìm kiếm hưởng thụ những gì cuộc sống đã ban tặng cho ta. Cuộc sống thế gian có nhiều mật ngọt làm cho ai cũng có thể đắm say đam mê dính mắc vào nó. Nào sự nghiệp gia đình với tiếng tăm, danh vọng, quyền lực, giàu có và tình yêu… Nhưng đến khi ra đi, chúng ta bỏ lại hết tất cả, nhường lại cho những người còn lại thừa hưởng. Chúng ta bỏ lại trong sự nuối tiếc, vì chẳng ai đem theo được thứ gì. 

Trong quá trính phát triển sự sống gầy dựng giống nòi nhân loại, con người ta luôn tìm kiếm hạnh phúc và hưởng thụ, nhưng chúng ta lại vô tình làm khổ đau cho người khác. Sự tranh giành, bám giữ để lo cho cái ta này dẫn đến tàn sát giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Với những người thiếu hiểu biết, nên không sáng suốt mà nghĩ rằng ta đến với cõi đời này, là để có nhiều hơn trong tham muốn vô cùng tận.

Cuộc sống người thế gian cứ như thế mà tạo ra ba thứ độc hại là phiền não tham, sân, si, càng làm cho ta bị dính mắc vào sự chấp ngã cho thân tâm này là thiệt có. Trong suốt quá trình sống chúng ta tìm cách chiếm đoạt tranh giành tạo ra sự tham đắm vô cùng tận, ta làm hư hại đời sống chung quanh bằng những thói quen và hành động của mình do thiếu hiểu biết hay biết mà cố phạm.

Nắm giữ chất chứa về cho mình thật nhiều, là những thói quen thâm căn cố đế, là nghiệp tập sâu dày của tất cả con người. Từ khi mở mắt chào đời cho đến khi lớn khôn chúng ta sống và làm việc rồi lập gia đình gây dựng giống nòi nhân loại để bảo vệ cái ta ích kỷ này. Cuộc sống bình thường của mọi người là sự phát triển cái ta, cái của ta và bảo vệ cái ta. Chính vì chấp vào cái ta này mà chúng ta đành lòng triệt buộc lẫn nhau để gìn giữ cái ta giả có này.

Cũng chính sự bám víu vào tâm thức này khiến con người bị trói buộc về mặt nhận thức vào đối tượng mình bám víu. Chúng ta càng nắm giữ nhiều chừng nào thì sự dính mắc lệ thuộc vào nó càng lớn, do đó ta khó bề buông xả được, đó chính là thói quen chất chứa từ cái chấp thân tâm này làm ngã.

Cuối cùng, do chúng ta không nhìn thấy rõ bản chất thật hư của thân tâm này mà ta bị lệ thuộc, bị trói buộc bởi nhiều thứ mà ta cho rằng nó là vĩnh viễn của ta ở trần gian này. Tài sản của cải dù chúng ta đã tạo ra nó nhưng thực chất nó không hẳn là của ta. Chúng ta chỉ nắm giữ tạm bợ một thời gian nào đó thôi, và khi ta trút hơi thở cuối cùng thì chúng ta phải bỏ lại hết tất cả.

Càng chấp giữ cái ta và của ta ấy, chúng ta vô tình càng củng cố thêm cái ta của mình. Khi mình đã chấp chặt vào cái ta này thì phiền não tham sân si ngày càng nhiều hơn và sự hoang mang lo sợ khi bị mất mát dẫn đến tổn thương nặng nề. Chúng ta cũng cần phải thấu rõ mọi vấn đề, không nắm giữ ở đây không có nghĩa là không có gì hết mà là sự không dính mắc bám víu vào cái ta và của ta.

Ta vẫn phải ăn uống để sống làm việc, đóng góp phục vụ gia đình và xã hội. Ta có cái nhà để ngủ nghỉ hay để tránh mưa nắng. Ta vẫn có tất cả các thứ để phục vụ cho nhu cầu sự sống, nhưng không dính mắc tham đắm vào nó. Khi có thời gian ngồi suy xét lại, mỗi người chúng ta đã làm thiệt hại nhiều đóa hoa của cuộc đời, của bè bạn, của gia đình người thân, của những tương quan mật thiết trong xã hội, của thiên nhiên hùng vĩ với bạt ngàn điều kỳ diệu chỉ vì sự mong muốn tranh giành chiếm đoạt hưởng thụ cho riêng mình.

Với người có nhận thức sáng suốt và hiểu biết chân chính, họ đến với cuộc đời này để tô điểm làm đẹp thêm cho cuộc đời. Họ đến để học hỏi và sẻ chia, dấn thân và phục vụ, nâng đỡ và cống hiến chứ không phải đến để cai trị con người. Họ ung dung tự tại đi qua cuộc đời này mà không lấy không bỏ, do đó không tranh chấp dính mắc vào cái ta và của ta, nhờ vậy họ đóng góp được nhiều lợi ích lớn lao cho nhân loại.

Càng không bám chấp thì cuộc đời người ấy càng trải rộng trong tự do không bị ràng buộc bởi những thứ mê muội của cuộc đời. Càng có tấm lòng rộng mở thì cuộc đời của chúng ta càng tự do trong đời sống bằng sự bình yên hạnh phúc. Do vô minh che lấp nên ngu si, mê muội chấp thân này làm ta, chấp tâm suy tư, nghĩ tưởng là mình, từ đó thấy biết sai lầm mà gieo tạo các nghiệp thiện ác, tốt xấu.

Chấp thân này làm ta là bệnh thông thường của tất cả mọi người trên thế gian. Chấp tâm này làm ta là các vị tu hành theo quan niệm thần ngã, thấy có một vị chủ tể cố định ban phước, giáng họa như đa thần giáo. Tất cả phàm phu đều chấp thân này làm ngã nên thấy nó thật, nó lâu dài, nó cao quý rồi đam mê, đắm say, tham lam vì nó, nhất là những người có quyền cao chức trọng; từ đó thấy mình là ta, là của ta, thấy mình là trung tâm của vũ trụ nên làm cái gì cũng vơ vét về cho mình và của mình, ai làm trái ý thì sinh thù hận, tìm cách hủy diệt, triệt tiêu.

Thế giới Ta bà từ khi con người có mặt do lầm chấp thân này là thật nên đã nhẫn tâm tranh giành, giết hại lẫn nhau để giành quyền lợi. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ ràng như thế. Trái đất này không của riêng ai mà là phước nghiệp chung của tất cả chúng sinh, con người vì thế cần phải ngồi lại bên nhau để tìm ra biện pháp tốt đẹp nhất nhằm giúp nhân loại đoàn kết, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Nếu mỗi con người thường xuyên quán niệm về thân để biết rõ được bản chất thực hư của nó thì thế giới sẽ không bao giờ xảy ra khủng bố, chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất gây đau thương, tang tóc khổ đau cho nhiều người. Theo triết học Phật giáo, tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian đều không có một chủ thể cố định, chỉ có cái này như thế này thì cái kia như thế kia, chúng nương tựa vào nhau theo nguyên lý duyên khởi mà thành-trụ-hoại-không, hoặc sinh-trụ-dị-diệt. Vậy thân này có thật là ta hay không?

Theo lời Phật dạy, phải hội đủ ba yếu tố mới có thân này. Thứ nhất là tinh cha, thứ hai là huyết mẹ, thứ ba là thần thức của một chúng sinh. Ba yếu tố này đồng thời gặp nhau cùng một lúc, khi đủ nhân duyên sẽ tạo ra một thân mới. Khi người cha giao hợp với người mẹ, tinh trùng của người cha xuất ra (dương) và hòa hợp với noãn bào của người mẹ (âm). Do âm dương hiệp nhau cùng với thần thức của một chúng sinh tạo thành sức mạnh tác động đến chu kỳ thọ thai của người mẹ mà tạo ra thân mới. Khi còn trong bụng mẹ, thai nhi ngày càng lớn dần nhờ thức ăn uống do người mẹ đưa vào, cho đến khi đủ chín tháng mười ngày thì đến kỳ sinh nở.

Đứa bé mở mắt chào đời sống được là nhờ bầu vú mẹ cho dòng sữa ngọt, đến khi biết lật, biết trường, biết bò, biết đòi ăn, biết nói bập bẹ, biết đi, rồi biết kêu “cha”, “mẹ” từng tiếng đều là vay mượn và huân tập từ bên ngoài. Đã là vay mượn thì làm gì có chủ thể cố định, cái gì là thật thì trước sau như một không thay đổi, biến dạng theo thời gian. Vậy mà ai cũng lầm chấp thân này là ta, là của ta, rồi bám víu vào đó mà sinh ra tranh chấp hơn thua, giành phần thắng về mình và triệt buộc lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư của mình.

Thân này được sống còn là do tứ đại bên trong hòa hợp với tứ đại bên ngoài để cùng nhau nuôi dưỡng. Tứ đại gồm có đất-nước-gió-lửa, chất cứng trong người gọi là đất, chất lỏng gọi là nước, sự hoạt động của cơ thể gọi là gió và nhiệt độ nóng trong người gọi là lửa; rồi hằng ngày phải vay mượn thức ăn, thức uống đưa vào, sáng đem vô chiều đưa ra, cứ như thế từ ngày này qua tháng nọ. Chúng ta chỉ làm một việc vay mượn liên tục, hết đưa vô lại trả ra, chúng ta vay mượn thức ăn uống nhưng nếu lỡ đưa vô mà không trả ra thì sao, thì phải tìm cách uống thuốc để tiêu hóa, bằng không thì phải giải phẫu.

Thân này sống được là nhờ bốn chất tứ đại bên ngoài, hằng ngày cơ thể phải nạp vào rồi trả ra, nếu không sẽ làm tứ đại bất an, sinh ra đủ chứng bệnh. Người hay bị cảm lạnh sẽ sinh đau nhức do trong người chất gió quá mạnh, gió thổi thì đất phải rung rinh. Người hay nóng sốt là trong người nhiều lửa nên phải kiếm cái gì mát đưa vào để quân bình lại. Cứ như thế chúng ta cứ mãi điều hòa thân tứ đại này cho nó quân bình thì không bệnh, đến khi trong người không còn thân nhiệt và sự hoạt động của gió thì tứ đại sẽ tan rã, còn gọi là chết; nhưng chết không phải là hết, chết chỉ là sự thay hình đổi dạng tùy theo việc làm trong hiện tại tốt hay xấu mà có thân mới tương xứng như vậy.

Phật dạy có thân thì phải sinh-già-bệnh-chết, con người muốn sống lâu phải luyện trường sinh bất tử để duy trì đời sống được dài thêm, nhưng cuối cùng ai rồi cũng phải chết, từ xưa tới nay chưa ai có thân mà không chết bao giờ.

Chính Phật Thích ca cũng phải xả bỏ thân này năm 80 tuổi. Cái gì thật thì trước sau như một không biến đổi theo thời gian, dù trái đất này có hoại nhưng cái đó không hoại. Thân này do nhân duyên hòa hợp nên vô thường bại hoại, khi đủ duyên thì có thân này, khi hết duyên thì chuyển sang đời khác. Chúng ta thường xuyên quán chiếu thân này như thế để không cố chấp, dính mắc vào cái thấy sai lầm mà làm tổn hại tất cả chúng sinh. Cái lầm thứ nhất của phàm phu là cho thân này là thật, trong khi thân này là hòa hợp vay mượn, không có chủ thể cố định. Cái lầm thứ hai là thân này vay mượn hơi thở hằng ngày, miệng thở ra mà không thở vào coi như chết ngay trong tích tắc, vậy mà ai cũng lầm chấp rằng mình sẽ sống lâu.

Bởi hai cái lầm này mà con người phải chịu khổ đau luân hồi vô số kiếp không có ngày cùng. Có ông già kia đã trên 80 tuổi đang cất nhà, Phật biết được nhân duyên tuổi thọ của ông sẽ mãn phần trong chiều hôm đó nên thương xót mà cho ông biết và tìm cách khuyên nhủ để ông thức tỉnh hồi đầu, ông không lắng nghe mà cứ mải mê chỉ dẫn đám thợ. Ông nói, “hôm nay lão bận quá, phiền Ngài nói tóm lại bằng bài kệ để khi nào lão không còn bận bịu công việc nhà nữa sẽ đem ra thực hành”. Đức Phật nói về bài kệ vô thường để nhắc nhỡ ông lão tỉnh giác. Ông lão miệng tuy khen bài kệ rất hay nhưng hẹn Phật dịp khác rảnh rỗi sẽ tham khảo. Sau đó Phật trở về tịnh xá. Vào buổi chiều, một số tịnh nhân cư sĩ đến báo với Phật ông lão đã bị cây kèo đập vào đầu chết liền tại chỗ.

Bởi do lầm chấp thân này sống lâu nên các phàm phu tục tử cứ mãi bận rộn hết chuyện này đến việc kia mà chẳng lo tu tập để chuyển hóa các phiền não, khổ đau từ chỗ lầm chấp thân này là ta, là của ta. Như ông già đó Phật đã biết trước nhân duyên nên đến khuyên nhủ, tìm cách giúp ông thức tỉnh hồi đầu nhưng ông chẳng chịu nghe, cuối cùng ông bị cây đập đầu chết trong nỗi tiếc nuối khi công việc dang dở. Trường hợp của ông sẽ rất khó đầu thai, nhiều khi thần thức phải vất vơ vất vưởng, quanh quẩn đâu đó vì tiếc nuối việc làm chưa xong. Phật đã biết trước việc sắp xảy ra nhưng vẫn không cứu được ông lão, như vậy là Phật quá dở hay sao?

Chúng ta nên biết, Phật chỉ là vị thầy hướng dẫn, làm được hay không do bản thân ta quyết định. Phật không phải là người ban phước giáng họa, chúng ta cần phải thấu đáo chỗ này kẻo nhầm lẫn với các học thuyết thần ngã. Thân vô thường bại hoại mà chúng ta cứ lầm chấp thân này là ta, là của ta rồi tạo nghiệp thọ khổ làm hại cho nhau. Tất cả mọi người hầu như đều tự xưng là tôi, là ta, là mình, nhưng chẳng ai biết rõ ràng cái gì là tôi, là ta, là mình ở đâu.

Nếu nói cái thân năm bảy chục ký lô này là tôi, là ta, là mình, nhưng xét cho cùng nó sống nhiều lắm 100 năm cũng phải chết. Vậy khi đó thân xác thúi này là tôi phải không? Là tôi làm sao phải được, bởi thân này do nhân duyên hoà hợp nên nó vô thường bại hoại, đủ duyên thì có thân này, hết duyên thì thay hình đổi dạng chuyển sang đời khác. Chính vì thế nên nó sinh-già-bệnh-chết, vậy mà ai cũng lầm chấp thân này là ta, là tôi, là mình rồi làm tổn hại cho nhau.

Chấp tâm làm ngã là căn bệnh thâm căn cố đế của mọi người nên ai cũng thừa nhận cái hay suy tư, nghĩ tưởng, phân biệt, nhận thức, cảm thọ làm tâm mình. Có người nói “tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu”, vậy những lúc không suy nghĩ là ai, chẳng lẽ mất mình hay sao? Cái hay suy tư, nghĩ tưởng có cả trăm ngàn thứ, buồn-thương-giận-ghét, phải-quấy-tốt-xấu, hơn-thua-đúng-sai, thiện-ác-lành-dữ; có lúc hiền như Phật, có khi dữ như cọp, tâm niệm luôn dời đổi liên tục không lúc nào dừng nghỉ. Khi nghĩ thiện là tôi, vậy khi nghĩ ác là ai, không lẽ cái tôi có nhiều thứ như vậy? Mới vừa buồn giận được người xin lỗi lại hoá ra vui, vừa ghét người đó rồi được năn nỉ lại hoá ra thương. Tâm niệm luôn thay đổi triền miên không lúc nào dừng nghỉ, nhưng chung quy cũng nằm trong hai tâm niệm thiện và ác. Từ đó suy ra, tâm niệm luôn thường xuyên thay đổi theo thói quen huân tập hằng ngày.

 Sở dĩ con người tranh đấu, giết hại lẫn nhau là do ngu si, chấp ngã mà ra. Ai cũng muốn mình hơn thiên hạ và tham lam bắt mọi người phải phục vụ cho mình, con người phục vụ cho con người vì có giai cấp chủ và tớ. Theo quan niệm của đấng sáng tạo, mọi thứ đều cố định không thể nào thay đổi, loài vật dùng để cúng tế thần linh và đáp ứng cái ăn cho con người.

 Ai theo truyền thống này sẽ cám ơn thượng đế đã ban tặng cho họ sự sống. Mọi cái, mọi thứ đều do đấng tối cao sắp đặt. Phụ nữ thì có nhiệm vụ sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường, lo mọi việc trong nhà, không được làm việc hay quan hệ bên ngoài. Giai cấp quý tộc thì được quyền ăn trên ngồi trước, bóc lột kẻ cùng đinh, hạ tiện để phục vụ cho mình cũng từ sự phân biệt, tính toán khôn ngoan của ý thức con người.  

Tất cả chúng ta dù lớn hay nhỏ khi có mặt trên thế gian này, ai cũng thấy bản ngã của mình là quan trọng, là hơn hết cho rằng mình là trung tâm của vũ trụ, nên muốn mọi người đều kính trọng quy hướng về mình, còn ta lại coi thường mọi người.

Đó là bệnh chấp thân tâm này làm ngã. Nếu chúng ta còn chấp ngã nặng nề thì chẳng những đối với chân lý, với lẽ thật mình không thấy, không biết mà đối với mọi người chung quanh ta đặt ra nhiều điều bất công, sai lầm khiến cho người, vật sẽ khổ đau vì mình.

Chúng ta chấp ngã được thể hiện qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Trước hết là chúng ta chấp ngã đối với thiên nhiên. Một số người cho rằng thiên nhiên là do trời ban tặng, khi trời mưa thì người ta nói có nước để cho người nông dân làm ruộng.

Con người thường nghĩ trời mưa để mình làm ruộng, trời nắng để mình phơi lúa, tất cả mọi thứ đều để cho mình hết. Cho nên người nông dân khi làm ruộng gặp hạn hán liền than vãn kêu than tại trời đất. Ngược lại khi phơi lúa gặp mưa, chúng ta cũng nổi giận kêu trời nữa, bởi vì ông trời không chịu làm theo ý mình.

Từ chỗ chấp thân tâm này ngã cho nên một số người không biết trách móc ông trời, cho rằng trời sao quá bất công đi ngược lại sự mong muốn của mình. Khi việc gì được như ý thì chúng ta vui vẻ hả ha, thích thú từ khen mình sao quá hay, đến khi việc gì trái ý thì chúng ta lại tức giận đổ thừa tại bị thì là…. Vì không hiểu thấu lý nhân duyên nên chúng ta chấp chặt vào cái ta này mà bắt trời đất phải vì chúng ta. Cho nên bắt cả trời đất thiên nhiên đều phải hướng về mình, muốn cái gì trời đất cũng phải chiều theo mình. Bởi chúng ta chấp ngã cho mình là trung tâm của vũ trụ nên không thấy được lẽ thật của cuộc sống.

Kế đến là chúng ta nói về sự chấp ngã đối với muôn loài vật. Bởi chúng ta quen chấp ngã nên con vật nào mình nuôi, cũng đều bắt nó phải làm nô lệ để phục vụ việc làm  cho mình khi cần thiết. Như có người nuôi chó nói là để giữ nhà, nuôi mèo để bắt chuột, nuôi gà để báo thức, nuôi trâu bò để kéo xe và cày ruộng. Chúng ta nói nuôi chó để giữ nhà, vì loài chó hay sủa người lạ đó là thói quen của nó chớ nó đâu có ký hợp đồng với mình là giữ nhà như hợp đồng bảo vệ gác cửa. Lỡ hôm nào bị mất đồ ta lại đổ thừa cho con chó tại sao mày ngu quá vậy rồi đánh nó, chúng ta xử sự như vậy có vô lý không? Con người hơn các loài vật là do có sự hiểu biết nhưng chỉ thấy cái ngã của mình là trên hết nên ép bức các loài vật để phục vụ cho riêng mình.

Bây giờ tới những con vật không do mình nuôi, như cá, tôm, cua và các loại thú rừng… Những con đó khi chúng ta giăng bẫy đánh bắt để ăn thịt, thì ta cho rằng là vật dưỡng nhân, trời sanh ra nó để phục vụ cho con người. Song những con vật đó nó có đồng ý để nuôi mình  không? Hay là chúng ta ỷ sức mạnh để bắt chúng, con cá, con cua khi bị bắt làm thịt, nó cũng giãy giụa tìm cách thoát thân nhưng không được nên nó phải chịu chết. Chẳng qua vì nhu cầu ăn uống của chúng ta nên mình phải làm như vậy, chớ có ai sanh nó ra để cho con người ăn đâu.

Chỉ vì các loài vật nhỏ quá, không đủ sức chống lại con người dù là những con vật lớn mạnh hơn, con người dùng mưu mẹo để bắt, giết nên chúng đành phải chịu chết dưới tay con người. Nếu những loài vật đó biết nói tiếng người thì nó sẽ kiện loài người tội giết hại vô cớ. Con người vì sự sống của thân này mà ta đành lòng giết hại một cách tàn nhẫn các loài vật có bao giờ chấp nhận sanh ra để cho mình ăn đâu. Con người vì lòng tham lam ích kỷ tự đặt ra những điều kiện như vậy để ăn thịt chúng sanh.

Nhiều người khi ăn thịt cá cảm thấy ngon lành, không chút thương tiếc. Khi đói mình bắt những con vật để ăn, chúng ta phải hiểu rõ đây là do sức mạnh của con người dùng sức mạnh và trí khôn đàn áp nó, chớ không phải nó sẵn sàng tự nguyện nuôi mình. Phật vì lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh nên khuyên người xuất gia không được sát sinh hại vật để ăn. Còn người Phật tử tại gia tuỳ theo khả năng mà cố gắng gìn giữ cho trọn vẹn. Như vậy ý nghĩa “vật dưỡng nhân” không phải là chân lý mà do một số người lợi dụng có quyền thế áp đặt ra, chính vì vậy nó không phải là lẽ thật. Vì chấp thân tâm này làm ngã mà mình đặt ra những điều vô lý để phục vụ lợi ít cho một số người. Đó là chúng ta nói về bản ngã của con người đối với thiên nhiên và các loài vật.

Kế đến là chúng ta nói đến sự chấp ngã của con người đối với con người. Vì thấy mình là cao sang quyền quý và cho phép mình được ăn trên ngồi trước nên một số người có thế lực sẽ đặt ra giai cấp cao thấp để bóc lột những người khác.

Theo lịch sử Ấn Độ cổ xưa, người Ba Tư cổ đại nay là Iran thuộc giống dân da trắng xâm lăng toàn thắng, dân gốc Ấn Độ là da đen. Để nắm quyền cai trị phân biệt chủng tộc giai cấp, một số người có quyền thế họ chế tác ra luật manu cho rằng trời Phạm thiên sanh ra vạn vật. Theo tập cấp phong kiến cổ xưa, ai sanh ra thuộc giai cấp nào thì trước sau phải chịu như vậy không thể nào thay đổi được, giống như tổ chức của các loài ong, loài kiến.

Bốn giai cấp này được sắp đặt và hình thành theo hệ thống pháp lý hẳn hòi  dựa theo truyền thống xa xưa, có một đấng tối cao ban phước giáng họa trên thế gian này là đấng Phạm Thiên. Vậy phong kiến là gì? Phong kiến là phong chức cấp đất và phong kiến còn mang ẩn nghĩa là một tổ chức được sắp đặt theo loài ong, loài kiến.

Trong tổ của loài ong cấp nào việc đó, ong thợ chỉ một việc xây tổ, ong nước chuyên đi lấy nước, ong mật chuyên đi hút mật hoa, ong thầy thuốc chuyên lo pha chế mật hợp với từng loài, ong bảo vệ có trách nhiệm giám sát tuần tiểu cẩn thận, ong đực lo truyền giống, ong cái lo đẻ trứng. Chỉ một con ong cái, nhưng có cả hàng trăm con ong đực, nên ong cái được tôn vinh là ong chúa. Ong chúa được ăn một loại thức ăn đặc biệt, gọi là mật ong chúa. Khi ong chúa đến chỗ mật để ăn thì tất cả ong dân đều quỳ mọp hết, tỏ vẽ cung kính khép nép và sợ sệt.

Một con ong chúa, có khả năng sinh nhiều trăm ngàn con ong con. Trong tổ thiếu ong gì, ong thầy thuốc chế thức ăn để ong chúa ăn và đẻ ra thứ ong đó. Như tổ thiếu ong hút mật, thì ong chúa đẻ nhiều ong hút mật. Đặc biệt là đẻ ong chúa con, lâu lắm mới đẻ một lần, mỗi lần chỉ ba trứng. Nhưng thật dã man thay, ong chúa biết được giờ ong chúa con nở, nên ong chúa mẹ đã đến nằm chờ sẵn, trứng thứ nhất vừa nở ra, ong chúa mẹ liền cắn chết ong chúa con. Kế đến ong chúa con thứ hai, tiếp tục được sinh ra và vẫn bình yên vô sự.

Đây là điều kỳ lạ của loài ong, nhưng chị ong chúa con thứ hai này nằm chờ sẵn, đợi đến cô em ong chúa thứ ba vừa chào đời liền cắn chết. Dã man thay, gia đình loài ong là thế đó.

Tuy nhiên, con người thì khôn hơn, nên lợi dụng quyền thế sắp đặt chẳng khác nào loài ong, dưới danh nghĩa một đấng tối cao có quyền ban phước giáng họa để áp đặt và cai trị. Con người ngày xưa với thiên hình vạn trạng, so với bầu vũ trụ bao la này thật là nhỏ bé, nên không đủ sáng suốt biết rõ sự thật trước những hiện tượng như sấm sét, sóng thần, động đất, hõa hoạn, lũ lụt, dịch bệnh đã cướp đi nhiều sinh mạng của con người mà không ai tìm ra nguyên nhân, nên đành chấp nhận xuôi tay phó mặc cho số phận thượng đế đã an bài.

Ngày xưa người có quyền hành thế lực lợi dụng con người thiếu hiểu biết, nên đã đặt ra đấng quyền năng và tự xưng mình là thiên tử, tức con trời được đấng tối cao sai xuống trần gian để trị vì thiên hạ.

Ngày nay nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người ngày càng văn minh hơn nên đã phát hiện mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này đều do nhiều nguyên nhân hợp lại, không có cái gì do một nhân mà hình thành. Chính khoa học đã làm sáng tỏ học thuyết nhân quả nhà Phật, “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”. Không có gì là cố định cả, không ai có quyền ban phước giáng họa, giả sử nếu có thượng đế thì chỉ là thượng đế tối cao của chính mình. Mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa, tại sao không ban phước lành hết cho tất cả chúng sinh để cùng nhau chung hưởng sự bình yên, an vui hạnh phúc.

Theo truyền thống cổ xưa phong tục tập quán của người Ấn Độ luôn quan niệm rằng con người và vạn vật do đấng Phạm thiên sanh ra, ai như thế nào thì trước sau phải chịu như vậy. Giông giống như tổ chức của loài ong, chỉ có ong chúa mới định đoạt tất cả, mạng sống tất cả loài ong đều do ong chúa sắp đặt, không có ong dân nào có quyền làm khác. Con người có phước hơn các loài vật nhờ sự học hỏi, tư duy, suy xét, quán chiếu, các loài vật thì sống theo bản năng do sự tạo nghiệp nhân nào quả nấy nên chịu quả cố định, hay còn gọi là định nghiệp, nghiệp không thể thay đổi.

Con người ai sanh ra trong giai cấp nào thì phải chịu số phận của giai cấp đó, cụ thể như thời Phật còn tại thế và cho đến ngày nay vẫn còn như vậy ở đất nước Ấn Độ, phân chia ra làm bốn giai cấp:

     1-Giai cấp Bà La Môn giáo nay là Ấn Độ giáo.

      2-Giai cấp Sát Đế Lợi.

      3-Giai cấp Tỳ Xá.

      4-Giai cấp Thủ Đà La.

Ngoài ra còn có hạng người không được xúc chạm gọi là Chiên Đà La, hạng người này không được học hành, không có các quyền lợi về văn hóa kinh tế, nhu cầu sống bị mọi người xa lánh, coi thường, khinh rẻ, không gia đình không nhà cửa, không thân bằng quyến thuộc, bệnh tật, thất nghiệp, bị xã hội ruồng bỏ, sống lang thang vất vưỡng thiếu thốn khó khăn và đói rét.

Bà La Môn giáo thuộc quyền giai cấp giáo sĩ chuyên lo nghi lễ cúng tế cầu nguyện, hướng dẫn tu tập phạm hạnh, chuyên làm văn hóa chế tác luật lệ. Giai cấp này họ thường tự hào rằng, họ được sanh ra từ miệng đấng Phạm thiên. Miệng dùng để ăn uống nói năng giao thiệp, thuyết pháp hướng dẫn chỉ dạy cho tất cả mọi người nên giai cấp này được ăn trên ngồi trước, từ vua quan đến thứ dân đều phải tôn sùng và kính trọng.

Sát Đế Lợi là giai cấp vua quan nắm quyền sinh sát trong tay, muốn giết ai thì giết còn gọi là giai cấp chiến sĩ, võ tướng quý tộc. Nắm quyền cai trị điều hành xã hội, coi đất nước giống như lãnh thổ riêng của mình. Giai cấp này họ tự hào rằng được sanh ra từ hai vai của đấng Phạm thiên. Thân thể gồm có đầu mình và tứ chi, đôi vai luôn gánh vác hết cơ thể. Họ cho rằng mình là thiên tử tức con trời, được sai xuống đây để trị vì thiên hạ và thế là họ muốn làm gì thì làm, không ai có quyền ngăn cản.

Tỳ Xá là giai cấp thợ thuyền, buôn bán, làm ăn có nhiệm vụ cung cấp nhu cầu cần thiết cho cả nước, về phương tiện sinh sống đảm bảo an sinh cho hai giai cấp trên và họ tự hào được sinh ra từ bụng Phạm thiên, bụng là một chi phần tiêu thụ và dung chứa thức ăn để nuôi cơ thể. Vì được sinh ra từ bụng cho nên họ phải có nhiệm vụ, đáp ứng chu toàn đời sống no đủ cho mọi người giai cấp nắm quyền.

Thủ Đà La là giai cấp nô lệ phục dịch vô điều kiện sống rất cực khổ và bần cùng, họ được mệnh danh sinh ra từ hai bàn chân của đấng Phạm thiên. Hai bàn chân trong con người phải chịu hết toàn thân, bao nhiêu nặng nhọc hai bàn chân phải chấp nhận gồng gánh hết. Họ làm lụng vất vã nhọc nhằn nhưng cơm không đủ no áo không đủ mặc, lại bị đánh đập một cách vô tội vạ.

Ngày nay nếu ai có dịp đi Ấn Độ sẽ thấy rõ hơn những gì Phật nói cách nay mấy ngàn năm bây giờ vẫn tồn tại, thậm chí còn chia chẻ tỉ mỉ hơn hệ thống phân biệt khi xưa. Các giai cấp này theo học thuyết cha truyền con nối, không được chung đụng lẫn nhau. Người thuộc hai giai cấp dưới có nhiệm vụ phục tùng hai giai cấp trên vô điều kiện, cho nên cuộc sống của họ lúc nào cũng nhọc nhằn, khổ sở, nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn đủ thứ.

Đây là quan niệm theo xưa của thể chế phong kiến đất nước Ấn Độ còn ảnh hưởng đến ngày nay, họ thống trị con người như cách sống của loài ong, loài kiến. Quan điểm trên cho rằng nếu người giàu sẽ giàu mãi theo cách thức cha truyền con nối. Con vua thì được làm vua con sãi ở chùa thì quét la đa?

Ai lỡ sinh ra trong gia đình người nghèo sẽ nghèo cùng mãi mãi dù có cố gắng làm ăn và tệ hại hơn là loài súc sinh sẽ mãi là loài súc sinh để phục vụ ăn uống và làm việc cho con người. Nói như vậy có đúng không theo đạo lý làm người? Thực tế trên đời này thường cho ta thấy, có người thuở nhỏ bần cùng nghèo khó, nhưng khi lớn lên do siêng năng chăm chỉ tinh cần, tích cực làm việc, biết tiết kiệm và đáp ứng đúng nhu cầu sống của xã hội, nên hiện tại đã trở nên giàu có. Ngược lại có người đang giàu, nhưng do phung phí trác táng ăn chơi, hoặc công việc làm ăn bị thua lỗ, con cái bất hiếu phá sản cuối cùng thân bại danh liệt trở thành kẻ nghèo khổ, vậy giàu hay nghèo là do phước nghiệp và sự siêng năng tinh cần của người đó thì làm gì có giai cấp cố định như quan niệm khi xưa! Còn nếu bảo rằng tất cả đều do số mệnh đấng Phạm Thiên đã định sẵn thì vô tình phá huỷ đạo lý nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, nên Phật dạy rằng:

Nếu do sự sắp đặt của đấng tối cao đối với bầu vũ trụ bao la này, thì tại sao con người lại giết hại lẫn nhau, trộm cướp, tà dâm, lường gạt, giả dối, sân hận, phỉ báng thô lỗ, khao khát, thèm thuồng, hiểm độc và hiểu biết sai lầm cho nên không biết nhận định đúng sai. Nếu ai đó lỡ làm việc xấu ác hại người vật thì đổ thừa số mệnh tôi là như thế, nên không biết hổ thẹn sám hối, ăn năn chừa bỏ để làm mới lại chính mình. Còn người nghèo dù có cố gắng làm việc thì vẫn nghèo vì số phận đã được sắp đặt và an bài. Nghèo cùng khốn khổ là do không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người hoạn nạn, hoặc do nhân trộm cướp lường gạt của người khác, làm biếng ăn không ngồi rồi, làm ít mà ăn nhiều, lãng phí của chung của mình thì bo bo nắm giữ keo kiệt, bỏn sẻn, hà tiện, rít rắm nên đời này phải chịu nghèo khổ.

Đạo Phật không chấp nhận học thuyết cái gì cũng đổ thừa cho số phận, nên cuối cùng cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi. Trong khi đó mọi người có khả năng làm được tất cả, nếu người đó có ý chí và quyết tâm cao, thì không gì không thể làm được. Họ không biết rằng cuộc sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên, mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này, đều nương nhờ lẫn nhau không có một sự vật nào tách rời nhau mà bảo tồn sự sống. Nó là một dòng chuyển biến, chuyển biến liên tục trong từng phút giây. Con người từ khi mở mắt chào đời là đã chịu sự chi phối của nghiệp nhân quá khứ, rồi dần dần lớn khôn huân tập những thói quen mới.

Nếu sống gần gũi và học hỏi bắt chước người có nhân cách đạo đức, luôn làm những điều thánh thiện giúp ích cho nhân loại, thì phẩm chất của người đó trở nên tốt đẹp, cao quý có thể làm lợi ích cho nhiều người. Trái lại nếu sống gần gũi người xấu ác, bị nghiệp ác chi phối, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, phẩm chất và nhân cách người này trở nên thấp kém luôn làm khổ mình, khổ người. Như thế, cuộc sống của chúng ta đâu có gì là cố định, nó sẽ chuyển biến đổi thay tùy theo hành động của mỗi người nếu biết tu thân, tu giới, tu tâm niệm rộng lớn.

Hiện tại thế giới chiến tranh hỗn loạn, con người độc ác với nhau, bệnh tật nghèo đói, thiếu thốn khó khăn, chết chóc hoạn nạn, chẳng lẽ ông trời lại tạo ra như thế? Còn nếu chúng ta chấp nhận cuộc sống không có nhân quả nghiệp báo, đành phó thác đời mình cho số phận, chẳng cần phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời. Trong khi đó, con người có khả năng suy xét nhận định phát minh tư duy sáng tạo làm được nhiều việc không thể nghĩ bàn, làm gì có ai sắp đặt, nếu có thượng đế, thì chỉ là thượng đế của chính mình, mình làm tốt được hưởng phước báo, làm ác chịu quả khổ đau.

Cuối cùng là dòng Thủ-đà-la, giai cấp hạ tiện, tức dân nô lệ thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này đi tới đâu phải rung chuông để cho các giai cấp trên tránh, vì họ sợ nhìn phải dòng Thủ-đà-la sẽ nhớp nhúa tới mắt họ.

Như vậy luật này do ai đặt ra? Có phải do những người khôn ngoan, có thế lực tự họ đặt ra để áp đặt những kẻ dưới quyền phục vụ nô lệ cho họ? Họ bắt những người cùng đinh, thợ thuyền, mua bán làm ra của cải để nuôi dưỡng, cung kính, thờ phụng mình. Vì cái gì biết bày ra để bóc lột mọi người?

Do sự chấp thân tâm này làm ngã thấy mình là chúa tể quyền năng vì muốn thụ hưởng cho riêng mình và dòng dõi nhà mình, nên những người có quyền thế đặt ra những điều luật như vậy để cai trị con người. Rõ ràng mọi sự bất công đó là vì chúng ta căn cứ trên nền tảng của sự chấp ngã mà ra. Muốn sung sướng, muốn được ăn trên ngồi trước, muốn được thụ hưởng lâu dài nên người ta đặt ra những luật lệ để khống chế những kẻ yếu thế hơn phục vụ họ vô điều kiện. Ngày hôm nay ai có dịp tham quan đất nước Ấn Độ sẽ thấy những gì Phật dạy năm xưa vẫn còn đó cho đến tận bây giờ.

Thời phong kiến quân chủ, mấy ông vua tự xưng là Thiên tử. Thiên tử là gì? Là con trời. Vì trời sanh ra muôn vật nên trời là trên hết, vua là thiên tử tức con trời, muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong,  ai không được lòng vua thì bị hạ xuống, không ai có quyền ngăn cản, không ai có quyền làm trái lại. Ở ngôi vị cao, có quyền lực họ tự đặt ra như vậy rồi bắt mọi người phải tuân phục theo họ vì sự làm chấp bản ngã là thật ta.Từ sự chấp ngã của con người cho nên có những quan niệm sai lầm phát sinh để bảo vệ cai tôi ích kỷ đó.

Do thấy biết sai lầm nên con người mới chấp ngã mà dần hồi phá huỷ sự sống của muôn loài vật. Cho nên kẻ thù lớn nhất của đời người là lầm chấp thân tâm này là thiệt, từ đó chúng ta mới sinh ra giết hại lẫn nhau để bảo tồn mạng sống này. Muốn phá trừ chấp ngã đức Phật dạy chúng ta phải biết quán sát và ứng dụng lý nhân duyên. Vì từ thiên nhiên cho tới muôn vật trên thế gian đều tùy thuộc vào lý nhân duyên. Nếu thấu tột được lý nhân duyên, chúng ta sẽ không còn chấp ngã nữa và thành tựu vô ngã, vị tha.

 

NGU DỐT LỚN NHẤT CỦA CON NGƯỜI LÀ DỐI TRÁ

Từ ngàn xưa cho đến nay, nhân loại luôn tìm cách làm thay đổi đời sống con người, thay đổi hoàn cảnh, nhưng chưa ai hoàn toàn hạnh phúc trọn vẹn, trên cuộc đời này ngoại trừ chư Phật chư vị Bồ tát, thánh nhân đã lìa khỏi dục vọng. Khi đau khổ, con người thường đổ lỗi cho người khác, tại người này, tại người kia làm cho tôi khổ, tại hoàn cảnh gia đình và xã hội, ít ai dám chấp nhận là do mình tạo ra.

Đức Phật dạy, vì vô minh không thấy đúng lẽ thật về tất cả mọi hiện tượng sự vật mà con người phải chịu phiền não khổ đau trong luân hồi sinh tử. Nói theo từ ngữ Việt Nam là ngu dốt, không hiểu rõ lý duyên sinh, lý nhân quả, từ đó con người sinh khởi các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến…rồi dẫn đến khổ đau.

Có một câu chuyện dân gian đáng để cho chúng ta suy gẫm về nghĩa lý sâu xa của nó: “Một ông nhà giàu nọ đi ăn giỗ cùng người đầy tớ. Sau khi ăn uống xong, thấy bánh ít chủ nhà đãi ngon quá, ông nhà giàu khởi lòng tham nên lén lấy mấy cái bánh ít đưa cho đầy tớ bỏ vào giỏ xách mang về cho ông.

Người đầy tớ cứ ngỡ là ông chủ cho mình, bèn lấy ra ăn hết sạch. Trên đường trở về nhà, ông nhà giàu đi trước, người đầy tớ từng bước theo sau hộ tống. Ông nhà giàu thấy vậy tức quá quay lại mắng người đầy tớ:

- Tao đâu phải là tù binh mà mày đi theo sau áp giải. Người đầy tớ nghe chủ trách mắng bèn xin lỗi và tiến lên đi song song với ông chủ. Ông nhà giàu lại càng bực tức hơn, nên quát lớn rằng:

- Bộ tao với mày là bạn bè hay sao mà mày hiên ngang, đi ngang hàng với tao, hả? Người đầy tớ lúc bấy giờ nghe ông chủ nói thế, sợ quá bèn vội vàng đi nhanh trước ông như người dẫn đường. Ông nhà giàu thấy thế bực mình quá, đạp vào mông người đầy tớ một cái rồi mắng:

- Bộ mày là cha tao hay sao mà dám đi trước mặt tao? Người đầy tớ lúc này tiến thối lưỡng nan chẳng biết phải đi như thế nào cho đúng, bèn chấp tay lại thưa: - Dạ thưa ông chủ, xin ông mở rộng lòng từ bi mà dạy con phải đi như thế nào mới đúng ạ?

Lúc này trong lòng ông nhà giàu lửa sân đang cháy bùng lên, nên nói bánh ít của tao đưa mầy đâu rồi? Dạ, con tưởng ông cho nên con ăn hết rồi. Qua câu chuyện trên đã nhắc nhở cho chúng ta điều gì? Tại sao ông nhà giàu có thái độ khó chịu như thế là do người đầy tớ đi không đúng phép hay do người đầy tớ ăn hết bánh của ông? Ai cũng thấy rõ, ông nhà giàu từ ngu si chấp ngã mà sinh ra tham lam rồi bực tức nóng giận khi mất phần ăn của mình.

Nếu chúng ta nhìn người khác với cái tâm tham lam, ích kỷ, ganh ghét, tật đố, với cái tâm đầy thành kiến, giận hờn thì mình không thấy rõ, hiểu rõ được sự thật, những gì mình đang thấy, đang nghe, đang tiếp xúc. Nếu chúng ta nhìn người khác với cái tâm vẩn đục như thế, thì mình thấy ai cũng xấu xa lầm lỗi, thấy ai cũng ngu dốt dù thực tế họ rất dễ thương, họ có nhiều điểm đáng cho chúng ta yêu quý, họ có nhiều điều hay đáng cho mình học hỏi. Thế giới con người ngày nay phát triển, tiến bộ, so với thời xa xưa gấp trăm vạn lần, đem lại sự văn minh vật chất tột đỉnh. Mặc dù được như thế, nhưng con người vẫn phải đối mặt với nhiều hiểm họa khổ đau do bạo động, khủng bố, chiến tranh, thiên tai sóng thần, động đất, bão lũ có thể dẫn đến bị hủy diệt toàn cầu do vũ khí nguyên tử hạt nhân sản xuất và xử dụng lạm phát.

Nói tóm lại, sự ngu dốt của con người là do vô minh làm nhân phiền não mà con người phải chịu khổ đau bế tắc chứ không phải do những điều kiện, khách quan bên ngoài. Vô minh phiền não chính là cái gốc, từ sự lầm chấp cái tôi này là cội nguồn của muôn sự khổ đau. Nếu chúng ta biết cách buông xả trong từng phút giây thì phiền não, vô minh không thể tác động được nên ta sống bình yên hạnh phúc. Đức Phật đã thấy rõ lý duyên sinh trùng trùng duyên khởi làm nhân cho nhau lớp lớp, chằng chịt đan xen, xuyên suốt trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai chứ không phải chỉ trong một đời này. Nhân đưa đến quả, quả lại làm duyên cho nhân, vừa là nhân của cái này cũng là quả của cái khác, vô số nhân, duyên, quả hình thành nên đời sống con người và bầu vũ trụ bao la này.

Vì ngu dốt tức là vô minh, không thấy được lý duyên sinh nhân quả, không thấy vạn pháp vô ngã nên sinh khởi ra các sự dối trá lường gạt rồi bóc lột chiếm hữu người khác. Khi hiểu được bản chất và những quy luật của đời sống, chúng ta sẽ cố gắng rèn luyện tu tập để không bị sa ngã bởi dòng đời vẫn đục, nhờ vậy con người sẽ biết cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau để sống hạnh phúc hơn.

Ngu dốt là sự không hiểu biết của con người, cho nên ngu dốt cũng đem tới nhiều tai hại cho bản thân, gia đình và xã hội, nghĩa là ta sống chung với nhiều người ngu dốt thì phải gánh lấy mọi hậu quả không thể lường trước được. Có thể nói ngu dốt là đồng nghĩa với si mê không có kiến thức, không hiểu biết chân chính, không tin sâu nhân quả về mối quan hệ trong thế giới mà mình đang sống, ngu dốt cũng có thể là cố chấp không chịu học hỏi hay lắng nghe.

Chính vì lẽ đó, con người ngu dốt vì thấy biết sai lầm mà đưa tới hành động tội lỗi làm tổn thương người và vật. Ngu dốt sẽ dẫn dắt chúng ta vào con đường tối tăm, khi ta sống trong sự vô minh che lấp thì suốt cuộc đời chịu đau khổ lầm mê mà không biết chừng nào mới thoát ra được.

Người không học thức đương nhiên là ngu dốt, nhưng người thiếu học hỏi, không chịu lắng nghe, không chịu bàn bạc tham khảo, cố chấp, độc đoán cũng là thuộc hạng siêu ngu dốt, vì ta là kẻ đang nắm quyền hành trong tay.

Cho nên chúng ta không biết phát huy con người tâm linh, không có ý chí mạnh mẽ thì không thể nào vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà vươn lên làm mới lại chính mình. Một người không có trí tuệ thì không sao có nhận thức đúng đắn, nhưng có trí tuệ mà cố chấp không chịu buông xả thì ta sẽ bị vấp ngã trở lại. Khi chúng ta đã đánh mất con người tâm linh của chính mình, thì ta sẽ bị sa đoạ khổ đau bởi si mê nghiện ngập đủ thứ.

Không có gì giá trị và đẹp bằng sự thật. Trong thực tế của cuộc sống ít ai dám nói sự thật, phô bày sự thật, cho nên sự thật dù có xấu đến mấy nhưng nó vẫn đẹp hơn sự dối trá. Không có gì đẹp và cao thượng bằng sự thật. Sự thật thì không thể nào né tránh được, nhưng người ta vẫn cố tình che giấu vì sợ bị mọi người biết.

Có những sự thật mà chỉ khi nào con người ta đủ lớn khôn và có sự hiểu biết chân chính nhờ biết nghiệm xét và tư duy thì mới hiểu hết được giá trị thật của nó. Vì cuộc đời không chỉ có màu hồng mà lúc nào bên cạnh nó vẫn có những màu đen đan xen lẫn nhau. Người có học thức cao càng khéo léo che giấu, bưng bít những sự thật không được trong sáng, lành mạnh vì ai cũng thích được khen hơn là bị chê.

Dối trá có nghĩa là lừa lọc người dưới nhiều hình thức nhằm mục đích lường gạt, bằng cách ngọt mật chết ruồi. Con người ta vì lòng tham nên dễ bị người khác gạ gẫm, dụ dổ bằng lời ngon tiếng ngọt nhằm biến họ trở thành nạn nhân bị lừa đảo.

Ngược lại với sự dối trá là lời nói chân thật phát xuất từ đáy lòng nên không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi để lợi dụng người khác, không phải là lời nói hoa mỹ để làm xiu lòng người, không phải là lời nói tâng bốc khách sáo để làm cho đối phương thích mà hàm chứa dụng ý bên trong. Lời nói ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên thanh thản cho người nghe.

Ta chỉ cần sơ ý lỡ một lời nói, có khi hỏng cả việc lớn. Chỉ cần ta lỡ một lời nói, thì tai nạn ùn ùn kéo đến chỉ vì người nghe hiểu lầm, cho nên tìm cách hãm hại ta. Chính vì vậy chúng ta phải cẩn thận trong lời nói bởi vì con người thích được khen ngợi tâng bốc nhiều hơn là bị chê bai. Tai họa xảy đến, thường do lời nói mà gây nên tác hại. Dối trá ở đây có nghĩa như lừa lọc, nói dối để vụ lợi cho mình, để mưu cầu điều tốt đẹp cho  mình hoặc che giấu đi cái gì xấu xa của mình nhằm qua mặt người khác. Thói dối trá là hành động lường gạt có chủ đích vụ lợi cho mình. Chưa cần nói về khía cạnh đạo đức, việc nói dối hẳn nhiên sẽ gây ra sự sai lệch và hậu quả của nó thì tùy từng trường hợp sẽ khác nhau.

Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi trên thế gian này, con người thường hay tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói. Hai người nói chuyện với nhau một lúc dù là thân thương như vợ chồng, nếu không nhường nhịn nhau, không biết nhượng bộ nhau, chắc chắn sẽ đưa đến tranh chấp cãi vã lời qua tiếng lại cuối cùng giận hờn nhau rồi lâu ngày dẫn đến đổ vỡ.

Một lời khen ngợi thật lòng luôn tăng thêm giá trị trong cuộc sống làm cho người cảm nhận được niềm vui để mà sống tốt hơn. Một lời nói nịnh hót thường là dối trá, nhằm trục lợi cho riêng mình mà làm hại nhiều người khác, nói một lời khen ngợi thật lòng luôn giúp cho người ta càng ngày càng sống tốt hơn. Ngược lại một lời nói nịnh hót để lấy lòng cấp trên vô tình làm cho người đó luôn sống trong gian dối để lường gạt người.

Ta hãy nên nói thật lòng bằng một lời khen ngợi đúng cách, giúp cho người đó vui vẻ mà sống tốt hơn. Lời nói thật lòng cao quý bao nhiêu thì lợi nói nịnh hót, dối trá thấp hèn bấy nhiêu. Người có trí tuệ là người không bị lầm lẫn, không bị mê hoặc, vì những lời nói ngọt ngào, đầu môi chót lưỡi, không bị bực bội vì những lời nói thẳng thắn trực tính.

Thường những lời nói đường mật ngọt ngào, chót lưỡi đầu môi, đôi khi dẫn dắt chúng ta đến cạm bẫy không ngờ, đến chỗ tan nát hạnh phúc gia đình, đến chỗ thân tàn ma dại, đến chỗ thân bại danh liệt, đến chỗ tán gia bại sản, đến chỗ tiêu tan sự nghiệp, có khi chết chẳng kịp ngáp, chẳng kịp hiểu tại sao? Những lời nói thật thà ngay thẳng, tuy không được khéo léo làm vui lòng người, nhưng thường giúp đỡ chúng ta tỉnh ngộ, thoát khỏi những cơn mê lầm, không còn vướng vào vòng si mê tội lỗi.

Khi ta thường xuyên biết quay lại chính mình, ta sẽ dễ dàng bình tĩnh thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, ta mới có thể làm chủ được lời nói, kiểm soát được hành động và chế ngự được tư tưởng của mình. Còn khi tâm loạn động, chúng ta càng nói càng tức giận thêm, càng làm càng sai trái thêm, càng suy nghĩ càng rối trí thêm.

Lời nói dối trá là những lời nói sai sự thật hòng để lừa bịp hoặc dụ dỗ người khác để cho người ta ham mà tin theo. Chính vì tâm tham muốn quá đáng mà ta có thể dùng miệng lưỡi ngọt ngào, để làm họ xiu lòng mà tin theo ta. Như vậy, chúng ta đồng ý với nhau rằng lời nói rất là quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn lao, trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người chúng ta.

Nếu người nào cảm thấy cuộc đời nhiều đau khổ, lắm thương đau, không vui vẻ, chẳng bình yên, tức là chính người đó cần phải điều chỉnh lại lời nói, cho vừa dễ nghe, cho vừa dễ thương. Tại sao như vậy? Bởi vì, chính người đó cũng muốn nghe những lời nói dễ nghe dễ thương như vậy. Hoặc là, người đó cần phải điều chỉnh lại âm thanh, cho vừa đủ nghe, để khỏi làm phiền lòng người khác, đang cần sự yên tĩnh, để tâm hồn được thanh tịnh, hay để nghỉ ngơi được thoải mái.

Tại sao lời nói của ta khó nghe, người đời thường gọi là nói đâm hơi, nói móc họng, cho nên không có ai muốn kết bạn với mình, không có ai dám làm thân với mình, không có ai dám tâm sự với mình. Tại sao như vậy? Bởi vì, sống ở trên đời đâu có ai thích bị người khác trêu ghẹo, nói móc nói méo đời tư để cho mọi người đều biết.

Có những lời nói có thể đem lại an vui, hạnh phúc cho nhiều người. Có những lời nói có thể đem lại sự tan nát hạnh phúc gia đình của người khác. Có những lời nói, làm cho người nghe, cảm thấy vui tươi khỏe khoắn. Có những lời nói khiến cho người nghe, cảm thấy khổ đau phiền muộn bực tức mà dẫn đến mất ăn mất ngủ.

Lời nói phát xuất từ tâm thanh tịnh trong sáng có thể giúp người cứu vật và cũng có những lời nói có thể hại người một cách dễ dàng vì lòng tham của mình. Như lời nói của một vị luật sư có thể cứu người thoát khỏi tội oan nếu vị ấy có lương tâm đạo đức. Ngược lại họ sẽ rút ruột kẻ bị hại và ăn tiền của kẻ phạm pháp. Do đó làm nghề luật sư phải giữ giới không nói dối hại người thì mới xứng đáng làm nghề luật sư.

Một vị bác sĩ khéo léo khuyên nhủ, an ủi động viên, giúp đỡ bệnh nhân yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua hiểm nghèo sớm được bình phục. Bằng như ngược lại, một lời nói vô ý, có thể làm cho bệnh nhân hoảng loạn sợ hãi, bệnh tình càng thêm trầm trọng.

Cũng như lời nói của một nhà ngoại giao, có thể đem lại hòa bình cho hai nước và cũng lời nói đó đem lại chiến tranh hận thù cho nhau. Con người vì sao không ưa thích nhau, mà hay làm mích lòng nhau, chỉ vì không nói lời tế nhị dịu dàng, ngay cả người thân và gia đình không biết kính trên nhường dưới cũng vì chấp trước cho rằng mình đúng người sai.

Cuộc sống xã hội luôn tồn tại song song hai mặt tốt và xấu. Dối trá là những hành vi, cử chỉ hay lời nói sai sự thật nhằm mục đích lường gạt người khác. Con cái nói dối cha mẹ, bỏ bê việc học hành để được tự do kết bạn với người xấu. Học trò nói dối thầy cô giáo để vui chơi thoả thích. Người chồng lừa dối vợ để đi dan díu với người khác.

Khi dối trá con người có suy nghĩ tới hậu quả của nó không? Vì khi đó họ chỉ nghĩ tới cái lợi ích cá nhân trước mắt, mà bất chấp sự thiệt hại của người khác. Những người nắm cán cân công lý nếu dối trá sẽ dẫn đến tham nhũng, lãng phí của công làm thiệt hại tài sản chung cho đất nước.

Do đó, người"dối trá" sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng làm mình mất nhân cách đạo đức và làm tổn thương hại nhiều người khác. Trước hết, sự dối trá của chính mình sẽ đánh mất đi niềm tin, sự tin tưởng của nhiều người khác dành cho mình. Vì ta biết rằng một lần làm cho người khác không tin thì vạn lần sau sẽ bị bất tín.

Chính vì sự bất tín đó chúng ta khó được người tin tưởng giao trách nhiệm quan trọng. Dối trá là hình thức lường gạt người khác đã là nguy hiểm rồi vì dẫn đến nghi kỵ thù địch lẫn nhau, ta có thể lừa dối người khác nhưng không thể lừa dối chính mình.

Ngược lại với sự dối trá là tôn trọng sự thật nhờ vậy bảo tồn được sự tín nhiệm của nhiều người khác và tránh nghiệp báo đau khổ. Dối trá giờ đây đã trở thành căn bệnh hiểm nghèo lan tràn khắp các nơi vì lòng tham muốn quá đáng, nên chúng ta dối gạt người khác, nó là một thói quen xấu làm tổn hại mọi người.

Các nhà lãnh đạo gian dối để bóc lột tham nhũng của chung, tham ô lãng phí làm cho người dân phải chịu thiệt thòi. Các nhà kinh doanh vì lòng tham quá đáng nên đã quảng cáo sai sự thật tạo sự hấp dẫn cho người mua. Thói quen dối trá là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức trong đời sống xã hội chỉ vì con người không chịu tin sâu nhân quả và tin có luân hồi sống chết.

Hành động dối trá chính là biểu hiện của lối sống thiếu trung thực, nhằm đạt được mục đích lợi ích cá nhân. Vậy nguyên nhân phát sinh của thói dối trá là gì? Từ sự lầm chấp cho thân tâm này là thiệt tôi nên thấy biết sai lầm mà gian dối lường gạt người khác. Có thể thấy thói quen gian dối lường gạt người khác dưới nhiều hình thức, người có địa vị thì lợi dụng quyền cao chức trọng, người kinh doanh quảng cáo sai sự thật, làm hàng giả, nói chung tất cả vì lòng tham của chính mình mà chúng ta gian dối lừa đảo người khác.

Những kẻ dối trá thường có suy nghĩ nông cạn, chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt mà không nghĩ hậu quả lâu dài về sau. Vì lợi ích bản thân và gia đình,  họ sẵn sàng làm những việc xấu ác miễn được lợi cho mình thì thôi, còn ai khổ đau mặc kệ. Họ sẽ dần hồi đánh mất hết danh dự và sự nghiệp, cuối cùng phước hết hoạ đến chịu khổ vô cùng.

Trước tiên chúng ta cần nhận thức rõ về sự nguy hại của việc dối trá nhằm trục lợi cho chính mình bằng nhiều hình thức. Chính vì vậy, ngay khi còn ở tuổi học trò, mỗi học sinh cần phải rèn luyện nói lời chân thật, trung thực trong khách quan.

Trong xã hội việc kinh doanh, cạnh tranh để nâng cao chất lượng sản phẩm nếu không trung thực, thật thà thì ta sẽ quảng cáo sai sự thật để thu hút khách hàng. Trong quyền lực họ vẫn thường lợi dụng lòng tin của mọi người để trục lợi cá nhân, lừa đảo kiếm tiền hay tham nhũng, che giấu tội ác trước pháp luật bằng cách dối trá.

Tính trung thực cần được chú trọng giáo dục trong gia đình và xã hội, rèn luyện ngay từ những ngày còn cắp sách tới trường là thành thực với chính bản thân mình. Thảng thắn, thành thật, trung thực, dũng cảm nhưng phải biết chân thành, khéo léo. Cuộc sống này nêu không có sự trung thực thì con người ta sẽ làm tổn hại cho nhau vì quyền lợi riêng tư.

Sự dối trá chính là nguyên nhân, mầm mống gây ra các vụ tiêu cực trong xã hội, làm băng hoại đạo đức, bao che trù dập làm mất lòng tin, đời sống tốt đẹp của mọi người. Nhất là những người nắm cán cân công lý, phải là người có trách nhiệm bổn phận cao, liêm chính, chí công vô tư, thì mới có thể giúp cho đất nước ngày càng đi lên, tiến tới công bằng, dân chủ, văn minh, bền vững và lâu dài.

Đức tính trung thực và thành thật là điều mà mỗi người cần phải rèn luyện trau giồi nhờ tin sâu nhân quả. Vậy sao ta không rèn luyện nó ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để khi ra đời ta sẽ xem nó là một trong những điều cần thiết nhất để bước vào cuộc sống hiện đại ngày nay. Người trung thực là người thật thà, ngay thẳng chân thành trong cách đối xử với mọi người, luôn nhìn nhận khách quan về các sự việc trong cuộc sống, luôn tôn trọng và bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải.

THẤT BẠI LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ TỰ ĐẠI

Người cống cao, ngã mạn là người đã coi trọng cái tôi của mình lên trên hết. Nó là biểu hiện sự so sánh của tâm hơn thua và bằng để phân biệt đúng sai với mọi người, đặc biệt là không chịu nhún nhường bất cứ một ai. Người tự tin chính mình là người biết nhìn lại mình từ ý nghĩ, lời nói cho tới hành động nên không bao giờ cống cao ngã mạn khinh thường người khác.

Người tự cao là người luôn khinh thường người khác vì nghĩ mình giỏi hơn người. Loại người thứ nhất, họ biết nhìn lại mình, nên họ sẽ cẩn thận hơn với những gì họ nói và làm để không làm tổn hại một ai cả. Còn loại người thứ hai, họ sẽ làm bất cứ điều gì để chứng minh cho người khác thấy rằng họ đang tài giỏi hơn mọi người. Từ đó dẫn đến chủ quan mà quyết định sai lầm, do không có suy nghĩ chính chắn.

Chúng ta đừng bao giờ sống mà tự cao quá mức, sẽ dễ dàng dẫn đến thất bại vì không có sự học hỏi tìm hiểu những thành công của những người khác. Người ta có thể yêu thương đùm bọc giúp đỡ người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình sau khi vấp ngã, chứ ít ai san sẻ hay bảo vệ người cho mình là giỏi hơn hết. Chúng ta sẽ cô độc trong cuộc sống mà chính chúng ta đã tạo ra.

Người ngã mạn thường khinh thường người khác với tâm lý cố chấp, bảo thủ và độc đoán, cho rằng mình hơn người. Cống cao, ngã mạn, khinh người là con đẻ của sự chấp ngã thân này là thật ta và của ta. Có nhiều người trình độ hiểu biết có hạn chế, nhưng vẫn nghĩ rằng mình hơn người khác về mọi mặt, nhưng vì chấp ngã, tự ái nặng nề, nên họ lúc nào cũng thấy mình hay, mình giỏi hơn thiên hạ nên dễ dàng coi thường người khác. Từ chỗ thấy mình hơn do chấp vào cái tôi này mà ta đã tạo ra bao phiền muộn khổ đau cho nhiều người.

Trong ngôn ngữ của thể chế độc tôn, con người ta bắt buộc phải tôn vinh người có quyền hành cao nhất và xem mình là kẻ hèn mọn, thấp kém. Tất cả mọi người từ quan quân sĩ tướng đều quỳ mộp xuống để thưa hỏi hay trình bày một điều gì!

Người cống cao, ngã mạn khi làm việc nào đó được thành công thì họ lên mặt hống hách, họ tự thấy mình là người tài ba, lỗi lạc bậc nhất. Nên họ dễ coi thường và khinh khi kẻ khác nên dẫn đến nhiều người không ưa thích. Như chúng ta đã biết, ngã mạn là một trong sáu món căn bản phiền não, đó là tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến, có gốc rễ sâu dày từ si mê, chấp ngã mà ra.

Chúng ta muốn diệt trừ nó hoàn toàn thì phải không còn chấp trước dính mắc thân tâm này làm ngã, tất cả mọi hiện tượng sự vật cũng không thật thể, ngoài ra chúng ta phải cố gắng nỗ lực tu học buông xả từng ý niệm khi vừa phát sinh. Nếu chúng ta tôn trọng quá mức đối với một người nào đó, dễ sinh niệm tự hào, tự cao, tự đại.  

Phật dạy trong mỗi người chúng ta nếu ai chấp ngã nặng sẽ có 3 dạng tâm lý ngã mạn:

Ngã mạn tuổi trẻ, ngã mạn không bệnh và ngã mạn sự sống. Tuổi trẻ thường có thái độ chủ quan, bảo thủ sai lầm nên dễ cống cao ngã mạn. Trong 10 điều tâm niệm nói nếu thân không bệnh thì tham dục dễ sinh, do đó người không bệnh dễ sinh tâm lý bám víu vào thân thể cho rằng nó mạnh khoẻ hoài hoài. Và cuối cùng dẫn đến ngã mạn sự sống là cậy sống lâu mà làm việc xấu ác làm tổn hại cho người và vật.

Cả ba loại ngã mạn này ngày càng làm cho con người ta thêm say mê đắm nhiễm vào chúng, rồi từ đó càng bị sa đọa dính mắc vào những nghiệp xấu ác bởi thấy mình là hơn hết. Ngã mạn tức là hình thái chấp thủ vào cái tôi và cái của tôi, mà sinh ra cống cao, tự đại thấy mình hay tài giỏi hơn mọi người.

Con người sở dĩ được gọi là con người là do có nhận thức sáng suốt, biết suy xét tìm tòi và biết ứng dụng linh hoạt theo hoàn cảnh cuộc sống mà duy trì giềng mối đạo đức. Nếu một người nào không có hiểu biết gì, hoặc hiểu biết không đúng bản chất cuộc sống dễ dẫn đến nói năng, hành động làm đau khổ cho nhiều người khác!

Vì thế, mỗi con người chúng ta cần phải học hỏi, trau giồi trí tuệ bằng cách thường xuyên nghiệm xét quán chiếu để biết rõ được bản chất của cuộc sống. Nhất là đối với tuổi trẻ còn đang trong giai đoạn học hỏi cần phải suy xét tìm tòi, trải nghiệm chân lý sống bằng nhận thức sáng suốt để tiếp nhận ánh sáng trí tuệ mà biết cách soi sáng muôn loài vật. Tuy con người cần phải thường xuyên học hỏi chiêm nghiệm thực tế cuộc sống để trau giồi trí tuệ, nhưng chúng ta cần phải biết trí tuệ là gì?   

Tuổi trẻ trí óc còn minh mẫn vì chưa trải nghiệm nhiều trong cuộc sống, nên trong lòng còn rất trống trải, chính vì vậy mà tuổi trẻ rất khát khao những lời chỉ dạy của cha mẹ thông qua học đường và xã hội truyền đạt lại. Như cơ thể chúng ta bao tử trống rỗng đang đón chờ những thức ăn đưa vào để nuôi dưỡng thân này, tuy nhiên nếu chúng ta không biết mà đưa vào những loại thức ăn chứa nhiều chất độc, sẽ không tiêu hoá được nên làm hại dạ dày và làm ảnh hưởng đến cơ thể.

Trí óc của các bạn trẻ cũng lại như thế, nếu tiếp thu những hiểu biết không chân chính sẽ làm cho đời sống cá nhân mình trở nên sa đoạ, hư hỏng làm tổn hại cho gia đình và người thân. Ngược lại, nếu tuổi trẻ biết tin sâu nhân quả, sống có nhân cách đạo đức nhờ vậy có cơ hội làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Cha mẹ thường hay nhín ăn, bớt mặc, dành dụm tiền bạc của cải để cho con cháu sau này là đúng tinh thần trách nhiệm và bổn phận. Nhưng nếu chúng ta không giáo dục để cho con cái có nhận thức sáng suốt, hiểu biết về nguyên lý sống để tránh ác làm lành thì vẫn còn là một khiếm khuyết lớn.

Có nhiều bậc cha mẹ để lại sự nghiệp cho con bằng tiền bạc vật chất của cải, con chưa được hưởng đã qua tay người khác, nên dành để tài sản chưa phải là kế lâu dài cho con cháu. Sự quan trọng và chắc chắn là trí tuệ; dạy dỗ cho con cháu được trí tuệ chân chánh là kẻ làm cha mẹ biết nghĩ đến sự nghiệp lâu dài cho con cháu. Trí tuệ không ai có thể cướp được, cũng không ai lường gạt được, nó lại soi đường cho mình, cho mọi người khỏi sa chân vào hầm hố, nên rất quí báu.

Cha mẹ phải có trách nhiệm bổn phận đối với con cháu là lẽ đương nhiên, nhưng các thầy cô giáo cũng có trọng trách rất quan trọng trong việc giáo dục học đường? Giáo dục học đường đã trải qua nhiều thời đại, để lại cho thế hệ sau những tư tưởng, kinh nghiệm sống, người làm thầy cô giáo có bổn phận trách nhiệm truyền đạt những kiến thức để tuổi trẻ ngày nay cùng học hỏi và trau giồi.

Như chúng ta đã biết, có cuộc sống đầy đủ về phương diện vật chất mà thiếu đi phần tinh thần tức sự nhận thức sáng suốt, hiểu được nguyên lý sống của cuộc đời mà dấn thân đóng góp phục vụ tốt cho gia đình và xã hội! Phật dạy: Nỗi khổ của các chúng sinh bị thiêu đốt ở địa ngục, nỗi khổ con trâu bò chở nặng, nỗi khổ đói khát triền miên của loài quỉ đói chưa gọi là thật khổ, chỉ có ngu si không biết đường tìm về cội nguồn của bình yên, hạnh phúc mới thật là khổ.

Chúng ta muốn thoát khỏi khổ đau của sinh, già, bệnh, chết, thì cần phải có sự suy xét quán chiếu tìm tòi để phát sinh trí tuệ mà thấy biết đúng như thật. Nhiều người thông minh khôn ngoan mà gian dối, xảo quyệt, họ lợi dụng sự hiểu biết của mình để lừa bịp người khác, nên càng làm tổn hại cho mình và người.

Như có một hạng người họ rất thông minh, học rộng nhớ nhiều, họ tưởng là họ tài giỏi không còn ai có thể hơn họ, do đó sinh ra tâm cống cao ngã mạn khinh khi mọi người. Họ khinh khi và xem thường tất cả mọi người. Đi đâu họ cũng coi mình hay hơn thiên hạ, nên dễ làm mích lòng người khác vì tâm hơn thua quá lớn. Người cống cao ngã mạn luôn khinh thường người khác nên chúng ta khó bề góp ý mở mang phát triển, họ như hòn đá cứng nằm giữa đường làm chướng ngại vật cho mọi người.

Người tự cao, tự đại thường kiêu căng, hách dịch hay kể công giúp đỡ người khác muốn đoạn trừ nó, chúng ta phải gắng sức quán chiếu xem xét để thấy rõ thân này vô thường không thực thể, mới có thể lần hồi dứt trừ được tâm kiêu mạn. Chúng ta phải hằng tỉnh giác, quán chiếu để thấy rõ bản chất tự tánh của nó là không.  

Ngày xưa trong pháp hội của Lục Tổ có vị tăng tên Pháp Đạt xuất gia lúc bảy tuổi, thường tụng kinh Pháp Hoa, đến lễ tổ mà đầu không sát đất. Tổ mới quở: “ Lễ mà đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ, chắc ông có cái gì cao siêu mầu nhiệm nên mới kiêu mạng như vậy.

Pháp Đạt thưa: Tôi tụng kinh Pháp Hoa đã hơn ba ngàn bộ. Vị tăng Pháp Đạt nghe đồn rằng Lục Tổ được truyền trao y bát, tăng ni các nơi đến tham vấn và lễ bái tổ rất đông. Pháp Đạt tuy lễ lạy nhưng không phục tổ, vì nghĩ rằng tổ chưa chắc hơn mình, cho nên tuy có lễ mà trong lòng không tôn kính, do đó đầu lạy không sát đất.

Tổ mới bảo rằng: Dù ông tụng đến muôn vạn bộ kinh, hiểu ý kinh mà chẳng cho là hơn người, ắt cùng ta sánh vai, nay ông chấp trước vì sự nghiệp tụng kinh nhiều mà trọn không biết lỗi, ông hãy lắng tâm để nghe ta nói kệ đây:

       Lễ để cốt chặt cờ ngã mạn

      Tại sao đầu ông không sát đất

      Có ngã thì tội liền sanh

      Quên công thì phước bao la không cùng.

Lễ lạy để tỏ lòng tôn kính và khiêm tốn thấp mình trước người đức hạnh để chúng ta được học hỏi thêm những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, nhằm dẹp bỏ tâm cống cao ngã mạn của mình. Pháp Đạt vì còn thấy mình hơn tổ nên lạy đầu không sát đất, bị tổ quở nếu thấy mình hơn người vậy lạy làm chi cho mắc công vô ích. Như chúng ta đã biết người ngồi nhận lễ là tạo nhân duyên tốt cho người học đạo, dẹp trừ bớt tâm ngã mạn. Người tu mà không khiêm tốn học hỏi, lễ kính người đạo cao đức trọng, thì thử hỏi làm sao giải trừ được phiền não và bệnh cống cao ngã mạn.

Khi chúng ta ngã mạn lúc nào cũng thích so sánh mình với người khác rồi tự cho mình là hay, giỏi, tốt hơn kẻ khác. Ta hay ỷ mình có nhiều tiền của, giàu sang hơn người, ta có bằng cấp, có địa vị cao trong xã hội mà kiêu căng tự đắc, khinh thường tất cả mọi người không biết người lớn kẻ nhỏ. Vì cống cao ngã mạn nên chúng ta không chịu lắng nghe, không chịu học hỏi nên dễ dàng bị thất bại.

  Khi ngã mạn ta hay có tâm khinh thường đối với những người thua mình về học thức, địa vị, gia tài, sự nghiệp. Đối với người có học thức, tài sản, địa vị bằng mình thì ta lại cho là mình hơn người đó. Còn đối với người thực sự hơn mình thì ta cứ cho là mình hơn họ. Vì ta cố chấp nhận lầm thân năm uẩn này là ngã, dựa vào ngã mà khởi kiêu mạn. Ta cho rằng tất cả mọi người khác không ai bằng mình và hơn mình. Một số người tu hành chưa tới đâu nhưng vì lợi dưỡng nên ta dối nói chứng đạo để được nhiều người cung kính cúng dường. Có những người lại khéo léo hơn, nên khiến người khác lầm tưởng là mình tu hành chân chính, đây cũng thuộc loại tăng thượng mạn. Đối với nhiều người, mình còn kém xa họ về mọi phương diện mà ta lại cho là thua ít, hoặc không thua gì hết. Ta không có tấm lòng từ bi rộng lớn, mà hay tự xưng là mình là người có đức độ, thí dụ như xưng mình là vô thượng sư, bậc chân sư, giáo chủ, v.v...

 Tóm lại, ngã mạn là hay luôn so sánh, so đo xem mình hơn hay thua kẻ khác, nếu thấy mình thực sự hơn thì thích thú khoe khoang, nếu thua thì không nhận là mình thua mà đổ thừa thế này, thế nọ nói mình bằng hoặc hơn.  Những hình thức ngã mạn rất nhiều và vi tế, người tu cần phải đề cao cảnh giác. Nhiều người vào chùa tu còn nặng nề chấp ngã nên muốn được thầy thương yêu, ưu đãi, để ý tới mình. Nếu sư phụ chú ý và khen ngợi huynh đệ của mình thì ta buồn. Đây là một việc hết sức mâu thuẫn, đi tu mà chỉ thích người khác khen tặng.

 

Bản thân chúng ta ai cũng có những suy nghĩ, nói năng và hành động khác nhau tùy theo năng lực của mỗi người. Có người quá mặc cảm tự ti luôn nghĩ mình là người thấp kém, nên không có cơ hội để phấn đấu vươn lên đành chịu chấp nhận số phận đã an bài. Có người thì tự phụ nghĩ rằng năng lực của mình hơn hẵn nhiều người khác nên chẳng cần tìm cầu học hỏi, do đó vấp phải nhiều lỗi lầm đáng tiếc. Đó là hai căn bệnh trầm kha của thế giới con người làm ảnh hưởng lớn đến đời sống an sinh xã hội.

 

Mặc cảm tự ti là tự đánh giá thấp chính mình nên không phát huy được khả năng làm việc tốt trong mọi hoàn cảnh, tự ti mặc cảm hoàn toàn khác với khiêm tốn. Khiêm tốn là nhúng nhường, không khoe khoang. Khiêm tốn là một đức tính tốt, giúp chúng ta thân thiện sống được lòng với mọi người, được mọi người ủng hộ nên rất dễ thành công trong mọi lãnh vực. Ngược lại kẻ tự ti thương không dám tin tưởng vào sự hiểu biết của mình, không tự tin mình có đủ năng lực để làm những việc có lợi ích cho xã hội. Họ hay tránh xa những chỗ đông người, thường rút vào phía sau hậu trường. Không dám mạnh dạn nhận lãnh trách nhiệm được giao vì sợ mình không làm được việc, sợ thất bại mà mất mặt với thiên hạ.

 

Tự phụ là thái độ đề cao quá mức bản thân, tự cao tự đại đến mức xem thường nhiều người khác, tự phụ hoàn toàn khác với tự hào. Tự hào là niềm kiêu hảnh, hãnh diện về bản thân vì đã thành công, niềm vui sướng hạnh phúc khi bản thân mình làm được một điều gì đó. Ngược lại kẻ tự phụ luôn tự đề cao quá mức về bản thân mình do chủ quan, nên thường bị thất bại trong cuộc sống. Người tự phụ hay tự cho mình là đúng ở mọi việc nên họ không bao giờ nghe những sự góp ý của người khác. Khi làm được việc gì đó lớn lao thậm chí tỏ ra coi thường, lên mặt với người khác, tự cho mình là học cao hiểu rộng nên không lắng nghe các bậc đạo cao đức trọng.

 

Người khiêm tốn là người có lễ nghĩa, biết kính trên nhường dưới bình đẳng tôn trọng lẫn nhau luôn thấp mình đối với mọi người. Tại sao trăm sông đều chảy về biển cả? Vì biển thấp, sông cao, nên nước các sông phải đổ về biển. Tâm khiêm tốn giống như biển cả bao la thấp mình chờ đợi, khiến trăm sông cao vót đem nước về biển cả mênh mông.

 

Có một loài hoa không tên lại hay mọc những nơi râm mát, thường ẩn mình trong chỗ không có gió. Thân cây ngoằn ngoèo, đầu hơi chúc xuống, hình như không muốn mọi người biết đến. Nhưng nó lại một loài hoa đẹp hương thơm ngào ngạt, hấp dẫn lạ thường. Đây là một loại hoa hiếm thấy ở đời, có nét đẹp khiêm tốn giản dị nhưng nở hoa rất nhiều. Các loài hoa khác thường tranh nhau vươn mình ra ánh sáng để khoe sắc đẹp hương thơm của mình, ngược lại thì nó lại ẩn mình nơi râm mát, lặng lẻ ban tặng cho đời những cánh hoa thơm ngào ngạt.

 

Chúng ta muốn thưởng thức hương thơm của hoa bay ngược chiều gió, thì phải rèn luyện tu chí quán thấy thân này chỉ giả có không thực thể. Con người cũng vậy, muốn làm món quà vô giá để ban tặng cho đời, thì hãy nên khiêm tốn để trưởng thành trong cuộc sống. Ngược lại với khiêm tốn là kiêu mạn. Vậy kiêu mạn là tự cao hay khinh khi người khác, do có chút danh vọng quyền lực và thành công trên trường đời, nên tự cao tự phụ khinh khi người khác là hiện tượng khá phổ biến trong xã hội hiện nay.

Khiêm tốn là một đức tính tốt thể hiện một người có nhân cách đạo đức, là nghệ thuật sống, là nền tảng vững chắc giúp mỗi người chúng ta đóng góp xây dựng và phát triển sự nghiệp bền vững. Người khiêm tốn là người có ý thức và sự hiểu biết nhờ biết cách buông xả sự chấp trước về thân này, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người khác.

Khiêm tốn sẽ chỉ cho ta thấy những thiếu sót của bản thân mình để sửa đổi, không tỏ ra kiêu căng tự mãn, nên lúc nào cũng bình tĩnh lắng nghe những ý kiến đóng góp của mọi người xung quanh. Khiêm tốn giúp cho con người ta không kiêu căng ngạo mạn khi đứng trên đỉnh cao của quyền lực, danh vọng nhờ vậy họ làm được nhiều việc lợi ích và được nhiều người ủng hộ. Nhưng trái lại, những kẻ tự mãn, tự cho mình là tài giỏi nên ít thành công trên trường đời danh vọng, do đó dễ dàng gặp thất bại vì bị sự ganh ghét đố kỵ của nhiều người.

Đối với người thế gian cho dù chúng ta có tài giỏi đến mức nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn phải tiếp tục học hỏi không ngừng để mở mang hiểu biết nhiều hơn nữa; có như thế, ta mới đạt được nhiều thành công trong tương lai. Đối với người tu ta càng phải khiêm tốn thấp mình để được lắng nghe, học hỏi và biết cách buông xã do chấp thân tâm này làm ngã mà sống đời an vui, giải thoát.

 

AN ỦI LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ BỐ THÍ.

 

Tại sao an ủi lớn nhất của đời người là bố thí, vì người nghèo đang thiếu thốn, khó khăn được sự giúp đỡ, họ có thể vượt qua cơn hoạn nạn. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia chính là gieo những hạt giống thiện lành, giống như người gửi tiền ngân hàng tuy hiện tại hình như không có tiền nhưng khi cần xài thì rút ra. Như vậy khi chúng ta làm những việc thiện lành như bố thí tiền bạc, tài sản, chia sẻ những ưu tư, những khổ đau của người khác là chúng ta đang tu phước.

 

Bố thí theo nghĩa sâu xa là buông xả mọi dính mắc về vật chất lẫn tinh thần. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia cho người khi cần thiết nhưng vẫn có sự tính toán. Khi chúng ta  cho đi một vật gì là biết chắc mình sẽ nhận lại được tương đương hoặc nhiều hơn thế nữa, và như vậy, trong đó có sự căn nhắc lợi hại.

 

Chúng ta cho đi một vật gì mục đích là để cầu phước báo hiện tại và mai sau, hoặc vì muốn đáp lại lòng tốt của người khác; như vậy, ý nghĩa cho ở đây là để trau đổi hai chiều. Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bổng dưng mà có, mà đó là kết quả việc tu nhân, tích đức của họ trong nhiều đời trước. Chính vì vậy trong cuộc sống này, không có việc gì là ngẫu nhiên, đương nhiên, khi không hay tự nhiên mà thành.

 

Muốn được giàu sang, quyền quý, sung túc đầy đủ trong tương lai, thì hiện tại ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính lúc nào cũng phải tin sâu nhân quả, tin mình làm lành được hưởng phước, vậy muốn được giàu sang, nhiều của cải mà hiện thời ta không biết làm phước thì e rằng không thể có được.

 

Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là vì lợi ích chúng sinh, muốn giúp cho mọi người chuyển hoá kiếp nghèo khó thì ta phải biết bố thí, cúng dường. Phật dạy chúng ta phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình, để giúp đỡ sẻ chia cho người khác, không nên sống trong vô cảm ai khổ đau mặc kệ.

 

Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại, với quan niệm ai cũng là người thân, người thương, nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

 

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào có thể tách rời đời sống xã hội mà tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài, giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ, người nghèo hèn khốn khổ, đói rách thiếu thốn lang thang; kẻ sang người hèn, kẻ xấu người đẹp, kẻ ngu người trí, kẻ chết yểu người sống thọ, người an vui hạnh phúc, kẻ bất hạnh khổ đau…

 

Phật dạy: Người đủ ăn đủ mặc là người có phước đức, vì thế nên ít lo nhờ vậy mà dễ tu. Vậy thế nào là người có phước đức? Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính, lễ phép với người trên, thương yêu, đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành, trong tình thương yêu nhân loại vì tình người trong cuộc sống bằng trái tim hiểu biết.

 

Ngay nơi hiện tại chúng ta không làm phước, mà muốn mai sau được phước thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước nên bây giờ phải chịu kiếp nghèo khổ. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước. Hiểu được điều này, mỗi người chúng ta cần phải cố gắng gieo trồng phước đức để cuộc sống ngày thêm hoàn thiện hơn.

 

Một ngày chúng ta sống trên đời là một ngày ta phải sống có ích cho mình và người mà không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, bất hòa, xung đột lẫn nhau là vì thiếu phước đức.

 

Vậy thế nào là phước? Phước là những hành động, lời nói, ý nghĩ đem đến an vui hạnh phúc cho mọi người trong hiện tại và mai sau. Người làm phước là người biết làm những điều thiện lành tốt đẹp, luôn giúp mọi người khi gặp khó khăn nên ai cũng ưa thích gần gũi, quý mến, tôn trọng. Chính nhờ sự gần gũi đó, chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ cho nhau, sẵn sàng dấn thân phục vụ thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

 

Phước giúp chúng ta chuyển hoá được những nghiệp xấu ác có tính cách làm tổn hại người và vật của nhiều kiếp, phước có công năng giúp ta sáng suốt, để giảm bớt việc làm sai trái trong cuộc sống. Có những việc chúng ta tưởng chừng như không thể nào cứu vãn nỗi, vậy mà nhờ có phước rồi cũng vượt qua hết tất cả. Trong sáu hạnh Ba La Mật gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, thì bố thí là hạnh đầu tiên để giúp chúng ta từng bước thăng tiến trên con đường Phật đạo.

 

Con đường tu tập của quý Phật tử không chỉ giới hạn vào việc tu phước, vào việc làm lành tránh ác để kiếp sau khá hơn kiếp trước, vì như thế vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh tử của thế giới tương đối, chưa phải là mục đích chính của đạo Phật.

 

Chúng ta thử đặt vấn đề nếu trong hiện tại chúng ta chỉ lo tu phước mà không tu tuệ, do nhân tu phước ở kiếp này mà đời sau có nhiều của cải, quyền cao chức trọng, kẻ hầu người hạ, giầu sang sung sướng. Do được hưởng phước báo đó mà con người ta dễ dàng buông lung sa đoạ trong dục lạc. Khi ấy thì dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo, cũng khó làm cho họ nghe theo vì họ đang trong cơn say sưa mê đắm với dục vọng.

 

Chính vì vậy mà đức Phật thường khuyên nhủ chúng ta phước huệ song tu để thành tựu đạo pháp. Nếu chúng ta giàu sang sung sướng, mà không có nhận thức sáng suốt, không giữ gìn giới hạnh trang nghiêm, thì trong tương lai phước hết hoạ đến sẽ gặt quả báo xấu tuỳ theo nghiệp đã tạo.

 

Việc gieo trồng phước đức rất quan trọng, trong đó có hạnh pháp thí gồm có truyền giảng chánh pháp cho người nghe hay trợ duyên cho việc chuyển lăn bánh xe pháp, làm cho Phật pháp ngày càng lan rộng. Làm phước bằng cách ấn tống kinh sách, phát hành băng đĩa Phật phát, tài trợ cho quý Tăng, Ni sinh đi học, hay cúng dường cho những khoá tu học tại các chùa. Gieo nhân duyên nghe Phật pháp giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, hiểu biết được nguyên lý sống của xã hội là công đức cao nhất trong các hàng bố thí. Cho người miếng ăn xong rồi hết đôi khi khiến họ thêm ỷ lại, cho pháp thí quả báo trong hiện tại và mau chuyển hoá được nghiệp tập xấu ác.

 

Ngày xưa, khi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng pháp, Ngài đến gặp Vua Lương Võ Ðế. Trong lúc tìm hiểu trao đổi Phật pháp, nhà vua hỏi: "Trẫm một đời cất chùa, độ tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có được công đức chăng?" Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời rằng không có công đức gì cả! Nhà vua như bị tát gáo nước lạnh vào mặt, bởi vì Ngài nghĩ rằng việc làm đó là công đức tối hậu.

 

Có người nói rằng vua Lương Võ Ðế không đích thân ra công thực hiện những việc làm đó, mà chỉ sai người khác làm nên không có công đức gì cả. Sau này có người đem sự việc đó thưa hỏi Lục Tổ Huệ Năng và được Lục Tổ chỉ dạy như sau: Quả thực là không có công đức gì cả. Vua Lương Võ Ðế vì lầm chấp sự làm phước là viên mãn mà không dùng trí tuệ để buông xả phiền não tham sân si, vì vua còn thấy mình giúp.

 

Cất chùa, độ tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, tất cả chỉ là những việc làm bên ngoài, có thể giúp ích cho nhiều người, là những việc làm bên ngoài xã hội bằng tình người trong cuộc sống.

 

Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ hỏi tiếp. Tại sao không công đức? Tổ đáp: Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệp ở cõi trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.

 

Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả, nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt nhưng vẫn chưa nhận ra yếu chỉ tu hành. Bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.

 

Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Vua Lương nghĩ rằng, cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức, nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình, mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật.

 

Bởi vì nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Nhà vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh, vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Còn chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các vọng niệm phải quấy, tốt xấu, đúng sai, ta người để sống lại với tâm sáng suốt của mình hay còn gọi là Phật tính.

 

Người đến với đạo Phật có hai hình thức: tại gia và xuất gia. Song xuất gia là số ít, người tại gia là số nhiều là nền tảng của đời sống gia đình và xã hội. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy người xuất gia nêu cao tinh thần dấn thân phục vụ vì Tam Bảo, còn người tại gia ngoài việc lo cho gia đình và xã hội, thấu hiểu lý nhân quả, nghiệp báo cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu học và hành trì.

 

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm. Bởi Ngài là vua một nước, trăm công, ngàn việc, nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.

 

Công đức là do tu tâm mà được; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết.

 

Còn những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của trời, người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ, song hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình, sanh tâm cống cao, ngã mạn, nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn họ mà còn sanh tâm coi thường khinh rẽ họ, không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu nữa.

 

Chính vì vậy, là người Phật tử chân chính, chúng ta phải biết quân bình phước huệ song tu, một mặt tích lũy phước báu, một mặt buông xả phiền não. Nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật, dù có bố thí đúng dường, làm nhiều phước thiện, cũng đều là công đức cả, vì họ làm trong vô tâm, làm mà không chấp trước việc làm của mình.

 

Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích, không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu mọi người biết làm phước và tu tâm, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

 

Phước Huệ song tu vẫn là điểm then chốt cho người học Phật nhưng chúng ta đừng bao giờ xem nhẹ việc làm phước, vì có phước và biết cách sắp xếp thời gian để huân tu trí tuệ, là tiến trình cho con đường hành Bồ tát đạo đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

 

Nhờ bố thí nhiều đời, nên chúng ta gặt hái được nhiều phước báo, do đó chúng ta tín tâm Tam Bảo, tin sâu nhân quả mà cố gắng duy trì phát tâm học chánh pháp, tu hạnh buông xả nên từng bước chuyển hoá được phiền não tham sân si. Mười phương chư Phật thành tựu đạo giác ngộ giải thoát cũng từ hạnh bố thí làm nền tảng.

 

Như chúng ta đã biết, bố thí vẫn là điều kiện quan trọng thiết yếu cho người Phật tử, nhờ vậy ngày càng phát triển tâm từ bi rộng lớn. Chính vì vậy mà người cho được nhiều hơn người nhận. Bởi vì người nhận chỉ được chút vật chất, nhưng người cho được cả một niềm vui tinh thần, vì giúp được người khác vơi bớt nỗi khổ niềm đau.

 

Công đức có khả năng giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, chuyển hoá phiền não tham sân si. Công đức là công phu tu tập bên trong, nhờ hành trì theo lời Phật dạy, luôn luôn giữ gìn giới luật, niệm Phật, Bồ tát, tu tập thiền định, nhờ vậy phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật để buông xả vọng niệm.

 

Những việc làm này đem lại lợi ích cho nhiều người như vậy, tất nhiên sẽ giúp cho chúng ta thật nhiều phước đức. Tuy nhiên, nếu chúng ta giúp người mà mình không biết tu tâm dưỡng tính, thì ta sẽ dính mắc vào việc làm của mình nên thấy có ta giúp, người là đối tượng giúp và vật thí.

 

Nếu như bố thí, cúng dường mà tâm không mong cầu gì cả, cúng chùa để chùa có thêm phương tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để người qua cơn khó khăn, túng thiếu, không đắn đo, không suy nghĩ, không tính toán gì thêm nữa thì chúng ta sẽ chuyển hoá được phiền não tham sân si.

 

Tâm cầu danh của chúng ta sẽ giảm bớt, tâm chấp ngã cũng nhẹ hơn trước. Chúng ta không làm những việc ác, mà hay làm tất cả việc thiện, nhưng không chấp chặt vào những việc làm đó thì tâm ý của ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là ta biết tu tâm dưỡng tính, vửa biết làm phước vừa biết tu tâm. Khi làm việc thiện nếu ta chấp chặt vào đó thì tâm của mình sẽ bực dọc, bất an, khó chịu khi bị người khác phê bình, chỉ trích.

 

Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình rồi từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc.

 

Còn phước đức là diệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất, tinh thần giúp người bớt khốn khổ v.v…tạo nên những nhân tốt.

 

Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dật ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.

 

Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.

 

Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu, do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo, nên không buồn đau sầu khổ. Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức, đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.

 

Còn công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét, cho người tu hành chân chính dù có bị đói khát, thiếu thốn nhưng không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó. Và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức.

 

Giúp đỡ sẻ chia, giúp ta thiết lập tình thương, trên cơ sở đó tạo ra mối quan hệ tương quan, tương duyên trong xã hội cộng đồng nhằm phát triển tốt đẹp về mọi mặt bền vững và lâu dài. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải làm như thế nào để tạo ra phước báo nhằm hoàn thiện chính mình và đóng góp lợi ích cho nhân loại.

 

Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bât hạnh của tha nhân là hạnh lành đầu tiên mà đức Phật lúc nào cũng nhắc đến. Bản chất của con người là luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa, không bao giờ thấy đủ, không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có. Muốn được sống an lạc hạnh phúc, ta hãy nên bằng lòng với những gì mình đang có và cố gắng duy trì gìn giữ và phát triển. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều mà không được như ý chỉ thêm nhiều phiền muộn đau khổ mà thôi.

 

Nói tóm lại, người Phật Tử chân chính phải nên biết bố thí là nấc thang đầu tiên để san sẻ nỗi khổ niềm đau cho những người bất hạnh, nó là niềm an ủi lớn lao trong cuộc sống, là nhịp cầu kết nối yêu thương bằng tình người trong cuộc sống.

 

Tiến xa hơn một bước nữa, bố thí là biết buông xả sự lầm chấp thân tâm này này làm ngã, từ đó có ngã sở là của ta nên bị trói buộc bởi phiền não tham sân si. Bố thí trọn vẹn khi mình giúp ai mà không thấy có người giúp, đối tượng được giúp và vật thí giúp, bố thí như vậy có năng lực giúp ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng đến bờ giác ngộ, giải thoát.

 

Chúng ta xây dựng và phát triển gìn giữ chùa, đóng góp tham gia các hoạt động xã hội, giúp cho mọi người có điều kiện để học hỏi tu tập, nhằm chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thanh an vui hạnh phúc, đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

 

ỨNG DỤNG LÝ NHÂN DUYÊN ĐỂ THẤU TRIỆT LỜI PHẬT DẠY.

Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này. Nhờ suy xét, quán chiếu và tìm tòi chúng ta hiểu được lẽ thật đó, nên sẽ bớt dính mắc chấp trước vào thân tâm này là ta và của ta. Một hình ảnh sống động trước mắt về nước bản chất của nó là tánh ướt, tuy nó có thể thay hình đổi dạng chuyển biến tùy theo thời gian, hoàn cảnh. Nếu chúng ta để nước với nhiệt độ trung bình, không quá nóng cũng không quá lạnh thì trước sau nó vẫn là nước.

Nhưng, nếu chúng ta muốn nước trở thành khối lại bằng cách để nó vào tủ lạnh, nó sẽ thành khối nước đá đông đặc. Nếu chúng ta muốn nước bốc thành hơi thì phải dùng lửa đốt để tạo duyên nóng cho nó bốc hơi. Như vậy nước ấy không cố định là nước mãi mãi khi ở thể lỏng thì gọi là nước, khi ở thể hơi thì gọi là mây, khi ở thể đặc thì gọi là đông lạnh, nhưng bản chất của nước vẫn là tánh ướt.

Định nghĩa: Nhân là nguyên nhân có năng lực phát sinh, duyên là phần phụ để hỗ trợ cho nhân phát sinh ra tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này. Nhân duyên được hình hành theo nguyên lý, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái cái diệt, khi đủ duyên thì mọi vật hình thành, khi hết duyên thì sự vật ấy sẽ không còn.     Chúng ta thử suy gẫm về cái nhà coi, cái nhà không tự là cái nhà, mà phải có nhiều vật dụng, gỗ, đinh, sắt, gạch, cát, xi măng, người thợ mộc, thợ hồ và nhiều phương tiện khác hợp lại mới tạm gọi là cái nhà.

Con người cũng vậy, thân này do bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp lại mới hình thành. Vì ta không thấy, không biết đúng đắn nên nhận định sai lầm, rồi chấp trước vào đó mà sinh ra đủ thứ phiền não, nên chấp nhận sống trong biển khổ, sông mê.  Chính vì vậy, tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp lại mà thành, không có cái gì do một nhân mà có thể hình thành. Ai “ngộ” được lý nhân duyên thì sự tu hành sẽ không còn khó khăn gì nữa.

Thí dụ: Hạt lúa là nhân, nhưng phải có người gieo trồng, có đất, có nước, có phân bón không khí, ánh sáng mặt trời nhờ những duyên đó kết hợp lại làm cho hạt lúa nẩy mầm, ra lá, lớn lên rồi những bông lúa nặng trĩu chờ ngày thu hoạch. Như cái chén ta dùng để ăn cơm, đất là nhân, người thợ, khuôn, nước, lửa nung là phần phụ phối hợp với nhau làm thành cái chén.

Nhờ áp dụng lời Phật dạy, ta có thể chuyển nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, chuyển ba nghiệp xấu ác thành hiền thiện, đạo đức. Trong kinh Phật nói, “thấy được lý nhân duyên là thấy chánh pháp hay thấy đạo”. Thấy được như vậy là người có trí tuệ, là người có chánh kiến, nên làm việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh là trên hết.

Sự thật, muôn loài, muôn vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, không có một vật nào chỉ do một nhân mà hình thành. Tất cả đều phải trải qua tiến trình diễn biến của nhân quả. Cho nên, “cái này có, cái kia có, cái này không, cái kia không”. Không có cái gì chỉ do một nhân mà thành được, nếu có ai nói một nhân mà thành, thì người ấy chưa hiểu thấu lý nhân duyên quả.

Nhờ biết rõ thân này do nhân duyên hòa hợp mà thành, từ thân người, thân thú, hay mọi cảnh vật cũng đều như vậy. Cho nên, trong kinh Kim Cương nói, “ Phàm cái gì có tướng đều hư vọng, giả có, có mà không thật thể nên gọi là giả có”.

Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân, người thương của mình, nên không sanh tâm ganh tỵ, tật đố, điều đó sẽ giúp cho cuộc sống của ta được bình yên, hạnh phúc từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.

Nhờ hiểu được và thông suốt lý nhân duyên, ta sẽ nỗ lực vươn lên làm mới cuộc đời và tự tin chính mình có đầy đủ khả năng vượt qua mọi bất hạnh, khổ đau. Nó giống như một lu nước, muốn nước bốc hơi, ta phải đun lên, tạo độ nóng thì nước sẽ bốc hơi. Không có cái gì là do ngẫu nhiên hay tự nhiên mà hình thành được. Nếu muốn nước đông lại thành đá thì ta tạo duyên lạnh, muốn nước trở lại trạng thái bình thường thì ta tạo duyên ấm. Nước không cố định một thể mà nó được thay đổi tuỳ theo sự tác động của “duyên”.

Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày, mỗi người chúng ta sẽ thấy rõ ràng mối tương quan chằng chịt nhân quả. Sự sống này muốn tồn tại và phát triển rất cần sự nương nhờ lẫn nhau. Hiểu được như vậy, ta mới có bổn phận và trách nhiệm đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ với nhau bằng tất cả tấm lòng. Nếu ai đó chỉ dùng quyền lực để áp đặt, thì sẽ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, gây ra ân oán, hận thù, rốt cuộc làm đau khổ cho nhau.

Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày, ta sẽ thấy rõ ràng sự sống trên đời này là vô thường, luôn chuyển biến, đổi thay không ngừng nghỉ. Vì vô thường cho nên vô ngã, tuy vô ngã nhưng có tinh thần chuyển biến liên tục.

Cái suy nghĩ của con người cũng vậy, tuy không có chủ thể cố định, nhưng có tâm thức liên tục trôi chảy không dừng. Vì vậy, khi ta nghĩ tốt, lúc ta nghĩ xấu, trong một ngày có không biết bao nhiêu suy nghĩ, suy nghĩ liên tục không dừng, không mất. Do đó, lý vô ngã của nhà Phật chỉ cho ta thấy sự nhận chịu liên tục chứ không phải vô ngã là không ngơ, không biết gì.

Và cũng nhờ sự chuyển biến liên tục này mà ta mới tu tập được, nếu cái ngã là một chủ thể thường hằng bất biến, không thay đổi được, thì dù ta có tu tập làm mới cuộc đời, làm mới lại chính mình, cũng không lợi ích gì. Lý nhân duyên cũng cho chúng ta biết rằng khi có nhân mà  không đủ duyên thì sự việc ta đang muốn cũng không thể hình thành được. Ví dụ như chúng ta có đủ gạo, nước, củi, nồi, nếu chúng ta muốn ăn cơm thì phải có lửa và người nấu cơm hoặc nếu thiếu một duyên nào. Lý nhân duyên cho chúng ta biết rằng cuộc sống của ta có tốt, xấu, giàu, nghèo đều là do nhiều nhân duyên biết kết hợp hài hoà. 

Lý nhân duyên giải thích cho chúng ta biết như hai người cùng tu chung một pháp môn mà người này đạt được kết quả tốt đẹp còn người kia thì thêm nhiều phiền não! Tất cả đều do nhân duyên, duyên đầy đủ thì mau sớm hình thành và ngược lại.

Khi hiểu được lý nhân duyên rồi, chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh  theo ý muốn của mình. Muốn có căn nhà để ở thì phải có nhiều duyên hợp lại, gạch, ngói, cát, đá, xi măng, cây, sắt thép và con người. Không có gì do một nhân mà có thể hình thành.

Do đó, Phật dạy ai tin và hiểu thấu lý nhân duyên thì có thể chuyển nghiệp xấu thành tốt, chuyển hoạ thành phúc, chuyển nghèo khổ thành giàu có chính là nhờ lý nhân duyên này. Chúng ta có thể làm mới lại chính mình từ một con người tầm thường trở thành người sống có ích cho xã hội.

Muốn sống tốt để phục vụ mọi người, chúng ta ần phải gần bạn hiền, thầy giỏi, gần những vị tu hành chân chính, có lời nói chân thật, có sức thuyết phục lòng người đúng theo tinh thần nhân quả. Nếu chúng ta muốn trở thành người xấu, thì, trộm cắp, giết hại lường gạt của người khác rồi vui chơi trác trác và giao du với kẻ ác. Do đó, nếu chúng ta biết tạo duyên tốt thì ngày càng được tiến bộ hơn, ngược lại tạo duyên xấu thì bị sa đoạ và chịu khổ đau.

Nhờ đức Phật đã trải nghiệm qua thời tu hành trong kiếp hiện tại và nhiều đời hành đạo Bồ tát, đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng lý nhân duyên là một lẽ thật mà ngày hôm nay các nhà khoa học đều công nhận. Lẽ thật đó công bằng, thực tế, không có một đấng nào ban phước giáng hoạ vì bản ngã cá nhân. Nếu chúng ta hiểu được lý nhân duyên thì từ thiên nhiên cho đến muôn loài vật, đều theo ngyên lý trùng trùng duyên khởi tương quan mật thiết với nhau.

Chính con người do thấy biết sai lầm nên tưởng mình là thật ta, thấy mình là trung tâm của vũ trụ nên càng chấp ngã nặng nề gây khổ đau cho nhiều người khác. Hiểu được lý nhân duyên chúng ta mới cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời, chúng ta sẽ tự cải thiện đời sống của mình bằng cách tinh cần siêng năng, nhờ vậy từ nghèo khổ có thể trở thành giàu có.

Nếu chúng ta cứ nghĩ rằng có một ông trời ban phước giáng hoạ, thì ta sẽ ỷ lại mà trở thành kẻ yếu đuối nhu nhược, chỉ biết dựa dựa dẫm vào người khác, mà không biết phấn đấu vươn lên. Nhất là những đứa con ỷ lại vào cha mẹ dễ trở thành kẻ hư hỏng. Ngoài ra khi hiểu được lý nhân duyên, chúng ta sẽ bớt chấp ngã và dễ cảm thông tha thứ với mọi người. Nhờ quán sát lý nhân duyên nên con người bớt si mê chấp ngã mà dần hồi thành tựu đạo vô ngã, vị tha.

Hiện nay các nhà khoa học chế biến được những máy móc tinh vi hay đồ dùng đẹp đẽ, đều ứng dụng lý nhân duyên. Đó là lẽ thật. Vì như tất cả chúng ta đều biết khi phân tích con người, ai cũng hiểu thân này do bốn thứ đất, nước, gió, lửa hợp thành. Nếu nhìn theo y học bây giờ, con người có thể phân tích ra thành rất nhiều chất. Thiếu những chất ấy thân này sẽ sanh bệnh. Vì thế khi biết thân mình thiếu chất gì người ta bồi bổ thêm chất ấy. Phân tích cho tới cuối cùng, con người có trăm ngàn muôn ức tế bào. Những tế bào đó có chức năng riêng, mỗi thứ đều có công việc riêng của nó.

Lý nhân duyên là một chân lý sống cho cuộc đời, không ai có thể phủ nhận được. Chính vì vậy người nào sống đúng như lý nhân duyên là người biết sống hoà hợp, thương yêu đoàn kết giúp đỡ mọi người bằng trái tim hiểu biết.

Thấy được lý nhân duyên là chúng ta nhìn đúng với các nhà khoa học thời hiện đại. Khoa học phân tích tất cả mọi hiện tượng sự vật không có cái gì tự có và cũng không có cái gì là do một nhân mà hình thành. Tất cả đều do nhiều yếu tố hợp lại. Khoa học thấy tột được lý nhân duyên, nên mới phát minh được những máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại để phục vụ đời sống con người mà những người thời xưa không bao giờ tin được.

Rõ ràng những nhà khoa học biết ứng dụng lý nhân duyên, nên mới có thể chế tạo ra phi cơ bay trên không, tàu thủy đi dưới biển, hoặc xe hơi chạy nhanh ngoài đường phố. Nhưng đáng tiếc, con người chỉ ứng dụng lý nhân duyên trong cuộc sống vật chất, mà ít ai ứng dụng lý nhân duyên trong đời sống tinh thần, để mình biết cách làm chủ bản thân mà không làm đau khổ cho người và vật.

Như tâm thức của chúng ta là một dòng chuyển biến liên tục, tuy không có chủ thể cố định nhưng nó vẫn thay đổi liên tục khi thì nghĩ thiện, khi thì nghĩ ác. Bởi tâm thức suy nghĩ liên tục nên nó không bao giờ mất hẳn, hễ tạo nghiệp thì sự liên tục đó dẫn tới thọ quả báo khi đủ nhân duyên.

Hiểu được lý nhân duyên, biết thân này từ duyên sanh nên chúng ta không si mê chấp ngã làm khổ đau người khác. Một số người hiểu lầm, cho rằng sau khi chết, linh hồn hoặc sanh lên cõi trời, hoặc xuống địa ngục trước nhau như một không hề thay đổi. Ai làm người chết sinh làm người trở lại, thú vật lại tiếp tục sinh trở lại làm thú vật. Đạo Phật không thừa nhận có một linh hồn cố định. Nếu vậy chúng ta tu hành  làm chi cho vô ích, bởi có tu cũng vẫn như vậy.

Nhà Phật gọi là tâm thức vì nó biến chuyển thay đổi theo thời gian tuỳ theo duyên tốt xấu, còn linh hồn thì trước sau như một. Tâm thức thì luôn chuyển biến, thay đổi do con người biết suy tư nghĩ tưởng. Khi còn nhỏ tâm thức chúng ta được huân tập có giới hạn nên hiểu theo kiểu trẻ con, khi lớn được học hỏi, nghiệm xét tâm thức ta hiểu biết theo sự phát triển của cuộc sống. Người hay siêng năng chăm chỉ học hành thì sẽ giỏi hơn những người khác, do đó tâm thức lúc nào cũng sáng suốt và thông tuệ hơn những người không chịu khó siêng năng cần mẫn.

Tâm thức của chúng ta luôn luôn chuyển biến theo sự suy nghĩ, nhận thức ngày càng được tinh thông hơn. Còn linh hồn thì ở một chỗ vì nó nguyên vẹn, nên có cố học cũng không giỏi, không học cũng sáng suốt. Do đó, nếu ai chấp vào có một linh hòn cố định thì chúng ta sẽ nghèo dốt mãi mãi không thể giàu có và tu học để chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc.

Hiểu được và thấu tột lý nhân duyên là chúng ta phá được mê lầm, chấp ngã từ vô thuỷ kiếp đến nay. Vì ngu si chấp ngã là nhân dẫn đến làm khổ người và vật. Phá được chấp ngã thì mọi sự bất công và khổ đau sẽ hết. Tóm lại, hiểu và ứng dụng lý nhân duyên của nhà Phật, ta sẽ bớt tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi, ti tiện, oán giận, hờn dỗi, bớt si mê chấp ngã, mọi người sẽ thấy đúng lẽ thật qua lý nhân duyên, do đó chúng ta sẽ sống yêu thương hơn.

Khi hiểu được lý nhân duyên, ta sẽ có bổn phận, trách nhiệm đóng góp, sẻ chia và nâng đỡ tha nhân, góp phần làm giảm bớt khổ đau cho nhân loại, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, để mình và người được sống an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin