Chi tiết tin tức Muốn Hạnh Phúc Ta Phải Tu Hạnh Nhẫn Nhục Và Từ Bi Hỷ Xả 07:10:00 - 28/09/2014
(PGNĐ) - Phật dạy, muốn điều hòa trong cuộc sống này chúng ta phải tập: nhẫn nhục và từ bi hỉ xả, tức là thế gian nói nhẫn nhịn và vui vẻ tha thứ. Sư ông chúng tôi thường nói trước mắt tôi không có kẻ thù, chỉ có những người bạn đã thông cảm và chưa thông cảm với nhau mà thôi.
Nếu muốn chuyển hóa sân giận và đạt được kết quả như ý, điều trước tiên là chúng ta phải tu hạnh nhẫn nhục và quán sát rõ ràng, tất cả người nam là cha ta, và tất cả người nữ là mẹ ta. Ta sống được là nhờ cha mẹ mỗi đời đã sinh ra ta và không quản ngại công lao khổ nhọc để sinh thành nuôi dưỡng. Nếu ta thường xuyên quán chiếu như vậy, ta sẽ thấy rõ chúng sinh trong sáu đường luân hồi đều là cha mẹ của ta tất cả. Do đó, khi thấu hiểu công ơn cha mẹ, ta sẽ bớt tham lam, nóng giận và si mê mà dễ dàng cảm thông và tha thứ cho nhau. Nhờ vậy, ta và người luôn sống với nhau bằng trái tim thương yêu chân thật, biết kính trên nhường dưới và luôn sống vui vẻ thuận thảo với mọi người. Chúng sinh luân hồi trong ba cõi, sáu đường, do nghiệp duyên chi phối nên ta đã từng làm cha mẹ, anh em người thân với nhau. Cũng chính vì thế mà ta phải biết sống yêu thương và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bởi tất cả đều là những người có ân nghĩa với mình. Nhờ quán sát tất cả chúng sinh là cha mẹ nhiều đời, nên ta dễ dàng thông cảm, mà sống với nhau bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Còn chúng ta thì sao, từ sáng sớm cho đến chiều tối, hễ gặp nghịch duyên là lại nổi nóng, thậm chí giận cá chém thớt, chuyện không đâu lại trút đổ lên đầu gia đình người thân. Đó là thói quen thâm căn cố đế của nhiều người, nếu chúng ta không biết tu tập từ, bi, hỷ, xả, thì gia đình sẽ dễ dàng tan nát đổ vỡ.
Còn một pháp quán nữa đó là quán tình thương, nhìn thấy ai cũng nghĩ là người thương của mình nên đã thương thì ta không giận, mà đã giận thì là không thương. Tình thương này không phải tình thương vị kỷ, mà là tình thương không phân biệt màu da, dòng máu, chủng tộc. Nếu ai đã từng có con chung và con riêng với nhau, thì sẽ biết rõ tình thương yêu đó có ích kỷ hay không? Vì lúc nào ta cũng thấy con mình vẫn hơn, nên đôi khi ta phân biệt đối xử hẹp hòi mà làm mích lòng nhau. Quán tình thương sẽ giúp cho ta mở rộng tấm lòng từ bi thương xót bình đẳng, mà biết cảm thông và yêu thương nhau bằng tình người trong cuộc sống. Thường chúng ta có tật hay đòi hỏi, nhất là phái nữ vì nghĩ mình đẹp, mình dễ thương nên được nước làm tới, muốn làm gì thì làm. Phái đẹp hay giận hờn làm eo, làm sách để bắt nạt đấng mày râu. Cách thức chuyển hóa cơn giận mỗi khi có điều gì đó làm ta bực tức, thì ta chỉ cần nói thầm trong miệng giận là ngu, không giận là khôn và như thế cứ lập đi, lập lại nhiều lần. Đây cũng là một phương pháp mà các thiền sinh thường hay dùng để chế ngự cơn giận, khi mới vào chùa tu mỗi khi gặp chuyện bất bình. Cách này tuy đơn giản nhưng lại rất hiệu quả, nhất là đối với người có bản tính nóng nảy, hay để cơn giận lấn át lấy mình. Khi đối diện lỗi lầm hay sai sót của người khác, ta có khuynh hướng hay chỉ trích, giận dữ rồi làm lớn chuyện ra. Khi bình tĩnh lại ta mới thấy ăn năn, hối tiếc nhưng đã quá muộn màng. Hít thở sâu chính là bí quyết giúp ta bình tĩnh sáng suốt để thấy biết rõ trạng thái, cảm xúc bên trong. Việc kiểm soát cơ thể sẽ giúp ta đẩy lùi những cơn giận, không như ý. Thực tế, các thiền sinh khi thực hành những bài tập này, phổi sẽ tiếp nhận một khối lượng lớn dưỡng khí, rồi nhanh chóng lan tỏa khắp cơ thể. Thời gian tĩnh lặng giữa lúc bạn đang tức giận cho đến lúc bạn hoàn thành bài tập này sẽ giúp bạn lấy lại sự bình tĩnh, nhờ vậy tâm tư lắng dịu nên biết cách chuyển hóa và dừng hẳn cơn giận. Mỗi khi thấy mình căng thẳng và sắp nổi nóng, bạn hãy thử thực hành bài tập này xem. Riêng chúng tôi, đây là bài tập mà tôi có thể luyện tập hằng ngày, nó đem lại cho tôi cảm giác an bình thư thái, đồng thời giúp tôi lấy lại trạng thái cân bằng để có cái nhìn toàn diện, đưa ra những quyết định sáng suốt hơn trong cuộc sống. Nóng giận là một thứ tập khí thâm căn cố đế, thuộc căn bản phiền não lâu đời, có gốc rễ sâu xa trải qua từ vô lượng kiếp. Chúng ta có mặt trên cuộc đời, trôi lăn trong sinh tử cũng bởi ba thứ tham sân si, làm nguyên nhân lẩn quẩn trong ba cõi sáu đường. Tập khí nóng giận hầu như ai cũng có, kể cả các bậc hiền Thánh. Vì thế, khi gặp những điều không được hài lòng như ý, ta thường nổi nóng, giận dữ như ngọn lửa cháy phừng bốc lên cao ngọn. Dù ta cố gắng điều phục cơn giận bằng nhiều hình thức, nhưng cũng không thể dừng hẳn cơn giận trong một chốc lát được. Ðạo Phật dạy ta cần phải nhận diện và chuyển hóa cơn sân giận. Khi ta giận ai, có thể nói rõ cho đối phương biết ta đang bực tức, không hài lòng về họ. Ta có nỗi khổ niềm đau riêng của mình, nên ta cần phải trình bày một cách chân tình và thật thà cùng người đang giận. Mình giận họ vì không làm cho mình vừa ý, hài lòng một vấn đề nào đó. Mình cần phải nói rõ lý do để cho họ hiểu và cảm thông với ta nhiều hơn. Hoặc cũng có thể vì sự chấp trước của ta về những sai lầm trong quá khứ. Cho nên ta cần phải thiết lập truyền thông, tìm hiểu cặn kẽ, kỹ càng, để hai bên cùng nhau cảm thông và tha thứ. Ta không nên nuôi dưỡng, chất chứa thù hận trong lòng mà sanh tâm oán ghét dài lâu. Đó không phải là thái độ khôn ngoan hành xử của người Phật tử chân chính. Ta hãy biết rằng, khi người nào có thái độ và hành động làm mình đau khổ bằng sự giận dữ, thì trước tiên ta đã biết người đó tự chuốc lấy đau khổ trước rồi. Do đó, ta cần phải nên cảm thông thương xót nhiều hơn, vì họ đang bị vô minh chi phối, nên họ mới hành động ra nông nổi như vậy. Có thể họ có quá nhiều nỗi khổ niềm đau, bởi do đè nén chất chứa lâu ngày nên lời lẽ không được hay cho lắm. Hạt giống giận hờn của họ luôn ẩn tàng sâu kín tận tâm thức nên ta phải thương yêu họ nhiều hơn là ghét bỏ. Muốn nhận diện được bản chất của sân hận thật không phải dễ dàng. Nó vốn dĩ không hình không tướng, không có chỗ nơi, chỉ đối duyên xúc cảnh mới phát sinh. Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình. Ta phải ý thức được lời nặng nề, cay cú, ác độc chỉ làm cho ta và người khác khổ đau. Mình phải biết sáng suốt trước khi nói và làm bất cứ điều gì, để tránh gây thiệt hại cho người khác. Chỉ cần mình khéo nhận diện mặt mũi trước khi cơn giận nổi lên, thì khả năng nóng nảy sẽ không có còn cơ hội bộc phát. Ta hãy thường xuyên quán chiếu sâu nơi tâm của mình và mọi người thật kỹ. Ta cần lấy gương soi lại mặt mình khi sự bực tức nóng giận nổi lên. Nếu phải nhìn thấy một gương mặt hình thù quỷ quái, hung dữ thì cái nhân hiện tại sẽ cho ra cái quả đời sau như thế. Chắc chắn là ta sẽ trở nên xấu xí bởi những lần sân hận như thế. Nhận thức rõ điều này một phần cũng giúp cho ta bớt đi phần nào sân hận, bởi đâu có ai muốn mình thành một kẻ xấu xí như quỷ La Sát? Tóm lại, muốn chuyển hóa cơn giận hiệu quả, thì ta phải tu hạnh nhẫn nhục và có thể ứng dụng thực tập các nguyên tắc căn bản sau đây: Ta phải thường xuyên giữ chánh niệm tỉnh giác bằng cách theo dõi hơi thở, thở vào mình biết thở vào, thở ra mình biết thở ra. Trước khi nói hay hành động gì, ta phải xem xét kỹ càng liệu điều đó có tính chất nóng giận hay không? Ta hãy thường xuyên quán niệm thực hành trải rộng lòng từ thương yêu đến tất cả mọi người, mọi vật. Hãy mở rộng trái tim để yêu thương, hiểu biết và đối xử với nhau bằng sự cảm thông và tha thứ. Ta hãy quán chiếu thật sâu vào tâm thức, thấy rõ hạt giống sân hận nếu để nẩy mầm nó sẽ làm cho mình và người đau khổ. Chính vì vậy, mình cần nên chuyển hóa ngay từ khi còn trong trứng nước. Muốn nhẫn nhục được trọn vẹn thì ta cần phải có chất liệu của từ, bi, hỷ, xả thì mới chuyển hoá những mâu thuẫn cuộc đời. Tâm từ chỉ có thể xuất phát từ trái tim chân thật. Tâm từ sẽ trở nên trống rỗng, vô nghĩa, nếu nó chỉ nằm trong lời nói lý thuyết suông. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được nó bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì ta sẽ dấn thân đóng góp phục vụ không biết mệt mỏi, nhàm chán vì lợi ích tha nhân. Cuộc đời của chúng ta sẽ vô vị làm sao đâu khi không có tấm lòng từ, bi, hỷ, xả. Nếu chúng ta chỉ sống bằng trái tim, thì con ngưòi dễ dính mắc vào tình cảm riêng tư, một thói quen thường được ví với người phụ nữ. Yêu thương ông bà cha mẹ gia đình người thân con cái của mình không khó khăn gì. Phần đông thế gian này ai cũng đều làm được, trừ một số ít người sống trong vô cảm. Khi Phật nói về tâm từ, Ngài muốn nói đến thứ tình cảm không có sự phân biệt trong trái tim. Tình cảm cao thượng đó, đòi hỏi chúng ta phải biết yêu thương tất cả mọi người như thể người mẹ yêu thương đứa con duy nhất của mình. Tất cả những ai có con sẽ biết được sự khác biệt khi họ yêu thương con mình và con người khác ra sao. Còn phân biệt con mình con người khác là ta đã dính mắc vào tình cảm riêng tư. Ngay khi chúng ta thấy một em bé bị té xe, đang ngồi khóc, tự nhiên là ta sẽ đỡ em bé dậy và bắt đầu hỏi han, an ủi. Hoặc thấy một bà già đi qua đường không người dìu, ta liền đến để giúp bà qua. Có ba trạng trái tâm từ. Thứ nhất là lòng tốt. Chúng ta phải có lòng tốt đối với nhau. Nếu chúng ta không có lòng tốt với nhau, chúng ta sẽ không bao giờ có thể cùng ngồi chung với nhau. Ta sẽ đứng dậy, đi chỗ khác tìm cách lánh xa. Phật dạy chúng ta phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống này từ người nông dân làm ruộng cho đến các ngành nghề chức năng khác đều lệ thuộc vào nhau. Vì lòng tốt là điều kiện tối cần thiết cho cuộc sống, chúng ta không thể thiếu nó, không có nó cuộc sống sẽ trở nên điêu tàn, vô vị. Thứ hai là tình thân hữu là tình cảm thân thiện thấy gần gũi, với một số người như bạn bè, hàng xóm láng giềng, người giúp đỡ chúng ta. Sự thân thiện của chúng ta sống yêu thương và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, nhưng chưa phải là lòng từ thật sự. Nó làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi và thương yêu mọi người, nhưng đó chỉ là lòng ưa thích. Bám víu vào bạn bè, người thân, kẻ giúp đỡ cho ta, thì sự bám víu đó sẽ khiến ta luyến tiếc nhớ nhung rồi đau khổ vì ta sợ mất họ. Do đó tình thương yêu trong sạch không còn nữa. Vì chính sự bám víu đó đã làm cho ta mất đi lòng từ không còn vẹn toàn. Tình cảm gia đình cần được vun bồi bằng trái tim hiểu biết không có điều kiện phân biệt. Vì thương yêu quý mến người thân nên ta dễ dàng củng cố cái tôi của mình, để đảm bảo cho sự sinh tồn. Thứ ba là tình bằng hữu cũng đưa đến sự bám víu, dính mắc. Ta bám víu vào bạn bè sợ mất họ. Ta tốt với bạn bè vì muốn họ mãi là bạn của ta. Nhưng nếu họ đối xử trả lại không được tốt, ta lập tức nghĩ xem có nên tiếp tục làm bạn với họ hay không. Nếu họ bỏ rơi ta, ta sẽ thất vọng tràn trề. Ta cần tập luyện có phương pháp một cách kiên nhẫn và với lòng quyết tâm. Trái tim ta cần được rèn luyện để yêu thương vì nó không phải được tạo ra để lúc nào cũng tràn đầy lòng thương yêu. Nó có thể yêu mà cũng có thể ghét. Nó chứa đầy ý xấu, tham lam, si mê và sợ hãi nhưng nếu như ta không làm giảm bớt sự hận thù và phát triển thêm tình thương bằng cách thay đổi cách cư xử của ta trong đời sống hằng ngày, tâm ta sẽ không thể bình yên hạnh phúc được. Khi ta có thể làm chủ được các ý nghĩ, lời nói, hành động của mình. Ta trở nên tự tin hơn và không sợ hãi điều gì. Ta tự biết mình đã được rèn luyện đến độ sẽ không thể có một phản ứng giận dữ, ghen ghét, dù nhỏ đến đâu có thể xảy ra để làm ta mất đi sự bình yên. Ai cũng có cơ hội để sửa đổi các cách ứng xử của mình với người khác. Chúng ta luôn tiếp xúc, trao đổi với người khác, và lúc nào cũng sẽ có người không đồng ý với chúng ta. Khi đó nếu chúng ta làm thinh, không thèm trả lời, thì đó không phải là phản ứng của lòng Từ. Trái lại nó chỉ đem lại sân hận, bất mãn, lo âu, rồi dẫn đến bất cần, lạnh nhạt. Tất cả những thứ đó không ích lợi gì và cũng chẳng giúp chúng ta thanh tịnh được. Chỉ khi nào ta có thể hành xử với trái tim yêu thương và hiểu biết, thì ta mới thật sự thấy được bình an với chính mình. Chúng ta có rất nhiều điều phải học trong cõi nầy, và có lẽ mục đích của cõi nầy chính là thế, để con người có cơ hội rèn luyện mình thêm. Không phải để chúng ta tìm kiếm sự thoải mái, tiền bạc, của cải, sở hữu. Cuộc đời chính là một trường học, đây là bài học quan trọng nhất, bài học để giúp trái tim ta thêm bao la rộng lớn vì tình người trong cuộc sống. Tình thương của ta càng bao la, ta càng có thể yêu thương nhiều người, cũng như được nhiều người yêu thương lại. Càng cho bao nhiêu, thì ta lại càng được bấy nhiêu. Ai cũng đi kiếm thêm người yêu mình, nhưng không muốn ban phát tình thương cho ai cả. Nếu ta ban phát tình thương đến cho người khác thì tự họ sẽ tìm đến với ta. Không thiếu người yêu thương ta. Ta ban phát cho người khác tình thương không phải vì ta muốn cho, không phải vì họ cần, không phải vì họ đáng để cho, nhưng vì trái tim ta đã được rộng mở, bằng tất cả tấm lòng bao dung và độ lượng. Trong khi người có lòng từ không có gì để mất cả. Nếu họ có bị người khác lợi dụng, thì đó cũng là cơ hội để ta kiểm chứng lại sự tu tập của mình trong nhiều năm qua. Là dịp để chúng ta soi sáng lại chính mình có hành động đúng hay không? Tình thương vô điều kiện luôn tăng thêm sức mạnh cho con người, không phải là sự yếu đuối. Nhưng nếu tình thương đi đôi với đam mê dính mắc, thì tình thương đó sẽ làm cho con người trở nên tham lam và ích kỷ. Một điều lợi ích nữa khi ta có được tâm từ thì “Lửa, thuốc độc, không thể hại tới ta và sau khi chết ta sẽ được bình yên”. Ngày xưa người ta dùng tên lửa, thuốc độc để tấn công huỷ diệt lẫn nhau bây giờ thì không còn nữa mà họ dùng súng đạn, bom nguyên tử, ai có lòng từ rộng lớn thì không bị những thứ này làm tổn hại. Tất cả chúng ta ai rồi cũng sẽ chết. Trước giờ phút sinh ly tử biệt rất quan trọng, vì đó chính là giây phút tái sinh của một đời sống mới, người không có lòng nhân thì khi ra đi rất lo lắng và hoảng sợ không biết mình đi về đâu. Người có tâm từ có thể đón chờ cái chết với tâm tỉnh giác, nên họ chắc chắn sẽ đi đến chỗ thiện lành tốt đẹp. Ta làm gì trong hiện tại bằng hành động tốt hay xấu nó sẽ theo ta đến tận cuối đời, giây phút lâm chung. Các thói quen xấu hoặc tốt sẽ không thể thay đổi một cách đột ngột được ngoài trừ người đó đã có được lòng từ rộng lớn, thì ta sẽ tỉnh thức, không thấy lo lắng sợ hãi, mà lòng tràn đầy bình yên và hạnh phúc. Khi ra đi chỉ có ta mới có thể tự giải thoát cho mình vì đến giờ phút đó ai cũng phải một mình ra đi. Bi là khi chúng ta chia sẻ lòng xót thương với mọi người, thấy khỗ liền giúp và lúc nào cùng cảm thông với nỗi khổ niềm đau của người khác. Bi phát sinh khi ta cảm nhận được sự đau khổ, không như ý của người khác trong chính bản thân ta. Chỉ có như thế ta mới thực sự cảm thông được với người khác. Nếu không, ta sẽ sống trong vô cảm thấy người hoạn nạn dù là người thân yêu, ta vẫn lạnh lùng dửng dưng. Để khi người khác gặp chuyện khó khăn, ta có thể thông cảm và san sẻ với họ, vì ta biết rằng làm người khó có ai được trọn vẹn điều như ý. Sự cảm thông và tha thứ là bước đầu dẫn đến tình yêu thương chân thật. Thường chúng ta dễ cảm thông và chia sẻ với những người thân yêu của ta, như bạn bè, bạn đồng nghiệp, bạn đồng tôn giáo và bạn láng giềng cũng vì sự lựa chọn của cái tôi. Sự lựa chọn nầy đẩy con người ra xa nhau, và dầu họ đi đến đâu trên thế giới nầy, tinh thần chia rẽ cũng đi theo đến đó, khiến cho con người sẽ xâu xé nhau. Chỉ khi nào ta soi lại mình một cách thấu đáo, với lòng thiết tha, thành khẩn, ta mới có thể thật sự hiểu được tình thương chân thật không có bóng dáng của tự ngã. Phật đã giảng nghĩa rõ ràng về bản tánh của chúng ta. Hình tướng của chúng ta đều khác nhau, nhưng tâm sáng suốt, tâm tình thương ai cũng đều có. Chính vì bản ngã này mà chúng ta phải bảo vệ mình, gia đình mình và đất nước của mình. Tâm tư ta luôn chứa đầy ắp bởi tham lam, ích kỷ do sự chấp ngã của cái tôi này, luôn xảy ra trong mỗi chúng ta. Chúng ta không ngừng bảo vệ cái tôi của mình. Nếu ai đó nhìn chúng ta một cách không thân thiện, hoặc tỏ ra không biết ơn, không thương yêu ta giống như ta mong muốn, thì ta sẽ sinh ra thù hằn ghét bỏ. Lòng cảm thông và sẻ chia là một tình cảm xuất phát từ trái tim có hiểu biết, không cần điều kiện gì hết. Ta không cần phải đợi người trả ơn, ta chỉ giúp đỡ vì tình thương của một chúng sinh có tấm lòng. Bởi cuộc đời chúng ta là một chuỗi dài đau khổ vì thân già bệnh chết, cho nên cuộc sống của chúng ta luôn ẩn chứa sự xung đột, bất như ý, bực dọc, lòng mong muốn được có nhiều hơn, muốn không bị mất mát đau thương và mọi thứ sở hữu đều tồn tại mãi. Thật đáng tiếc vì chính người có lòng thương yêu bình đẳng hay cảm thông đối với nỗi đau mất mát của người khác mới thật là người có hạnh phúc thật sự. Phần lớn chúng ta thiếu lòng từ bi, nên hạnh phúc khó tìm thấy ở mọi nơi. Người có lòng từ bi luôn sống có niềm vui, vì khi ấy ta bớt nghĩ đến cái tôi của mình, do đó ít chấp ngã. Người mà quá chấp ngã, không thể có niềm vui vì họ không bao giờ thỏa mãn cái tôi của mình. Khi ta có lòng từ bi rồi ta còn phải biết chia sẻ niềm vui với người khác đó gọi là hỷ. Đối nghịch với hỷ là lòng ganh ghét, tật đố. Chia sẻ niềm vui với người khác là liều thuốc bổ nhiệm mầu chữa bịnh ganh ghét, đố kỵ. Ai đang vướng chứng bịnh nầy là vì họ không biết chia sẻ niềm vui với kẻ khác. Trong cuộc đời này nếu ta biết chia sẻ niềm vui cho người khác thì chắc chắn là ta sẽ có nhiều cơ hội để hạnh phúc hơn. Chia sẻ niềm vui với người khác cũng là một cách chuyển hoá oán giận thù hằn. Không phải chỉ nhớ trong một hoàn cảnh nào đó, hay khi có tai biến, nhưng ta phải luôn nhớ đến chúng vì đó là bí quyết để sống một cuộc đời hạnh phúc và bình an. Phật đã nói: “Ta chỉ dạy một điều, cuộc đời là đau khổ, và cách thức đoạn diệt khổ đau”. Chúng ta phải luôn nhớ rằng chấp ngã là nguồn gốc của mọi đau khổ vì vậy khi ta có được niềm vui tự nơi bản thân mình thì ta phải cố gắng chia sẻ cho người khác để cùng vui theo. Để có được tâm xả không chỉ có quyết tâm muốn được an nhiên tự tại là đủ. Quyết tâm là cần thiết, nhưng nó dễ đưa đến sự đè nén thân tâm. Người bạn cuối cùng của chúng ta là lòng an nhiên tự tại, một trong những tình cảm cao thượng nhất. Đối nghịch với nó là sự lo lắng, bồn chồn, dính mắc vào cái tôi. Sự an nhiên, hay tâm xả cần xuất phát từ bên trong. Khi được ươm trồng tốt, tâm xả là một trong những bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ hoàn toàn. Nhưng nếu chúng ta không bắt đầu thực hành tâm buông xả ngay từ bây giờ, thì đến lúc nào ta mới bình yên, hạnh phúc. Để có được tâm xả, lòng an nhiên thanh thản nhẹ nhàng rồi ta còn phải có sức chịu đựng bền bỉ trong mọi chướng duyên nghịch cảnh. Nếu không biết chấp nhận, ta sẽ khổ đau chính sự đè nén của mình. Đối nghịch với chấp nhận là phản kháng, chống đối, và làm như thế chỉ mang lại đau khổ. Người có được lòng từ, bi, hỷ, xả rồi thì sống một đời bình yên, hạnh phúc mà không vướng bận một thứ gì. Như người chồng thấy mình phải, người vợ cũng thấy mình phải rồi, chẳng ai chịu nhường nhịn ai thành ra gây lộn cãi vả với nhau hoài. Như vậy là có hai quan tài đang chờ đợi ta. Trong cuộc sống, chúng ta cần phải nhường nhịn lẫn nhau chồng nói vợ nghe, chồng có lỗi lầm gì thì vợ tha thứ bỏ qua đó là hạnh nhẫn nhục và có lòng từ, bi, hỷ, xả. Nhưng nếu nhịn nhau mà không chịu tha thứ cho nhau, cứ nhớ cố tật xấu của người ta hoài thì cũng không điều hòa được. Hôm nay nhịn một chút nhưng nếu ngày mai gặp việc thì nỗi tam bành lục tặc. Đó là căn bệnh thâm căn cố đế người ta hay chất chứa trong lòng. Chúng ta nhịn thì phải bỏ qua luôn, đừng nhắc tới nhắc lui hoài, nhịn mà không chịu quên nên cứ nhắc lại chuyện xấu hoài làm người khác bực mình sân si lên. Đó là một sự thật, cuộc sống từ cá nhân cho đến gia đình và xã hội, không bao giờ hoàn toàn hoà hợp theo ý mình, chớ đừng đòi hỏi phải được tốt đẹp hết. Chúng ta phải tập nhẫn nhịn. Bởi vì thói quen nhiều đời của con người ai cũng có sẵn là tính nóng giận, đàn ông hay đàn bà gì cũng biết giận hết. Chính vì vậy chúng ta phải khéo nhẫn nhịn với nhau. Qua sự nhẫn nhịn đó chúng ta còn phải hỷ xả, nghĩa là vui mà bỏ chớ đừng gượng bỏ. Bởi vì chẳng qua ta còn quá khờ dại, nông nổi nên ta mới cãi vã chẳng biết nhường nhịn nhau. Biết rồi thì bỏ hết đừng thèm giận hờn gì nữa. Chớ còn nghĩ mình phải, người kia quấy rồi ôm ấp, mai mốt gặp việc lại cãi nữa, rốt cuộc rồi khổ đau vẫn cứ tiếp diễn. Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, Hỷ là vui vẻ, Xả là buông bỏ không dính mắc mọi trần cảnh. Ban vui cứu khổ và vui vẻ tha thứ bỏ qua sự oán giận thù hằn, cảm thông nỗi khổ niềm đau của người khác gọi là từ, bi, hỷ, xả. Sự vui khổ của người xem như vui khổ của chính mình, chia vui sớt khổ trên tinh thần vô ngã vị tha là lòng từ bi bao la rộng lớn. Vì thế, khi giúp đỡ cho mọi người mà ta không thấy mình là kẻ ban ơn, người là kẻ thọ ơn. Ðây mới thật là tình thương chân thật. Nếu có một điểm nhỏ xíu vì mình là không phải tình thương chân thật. Tình mẹ thương con chưa hẳn là từ bi, vì con không nghe lời mẹ liền giận. Tình thương từ bi là tình thương đồng hóa khổ vui của người như của mình. Cảm thông sự khổ vui của mọi người như thế, khởi tình thương ban vui cứu khổ là lòng từ bi. Cứu giúp để mong đền đáp là sự đổi chác không phải lòng từ bi. Thương yêu để thỏa mãn nhu cầu riêng tư mình, là lợi dụng tình thương, không phải là lòng từ bi chân chính. Muốn phát khởi tâm từ bi rộng lớn, chúng ta phải tập cảm thông sự khổ vui với mọi người. Ðã xem cái khổ của người như của mình, nên nhiệt tình sốt sắng cứu giúp mà không cần điều kiện. Người khỏi khổ là mình an vui, không có một hậu ý nào đối với người mình cứu giúp. Thấy người vui cũng như mình được vui, những cái vui của mình đã sẵn sàng chia sớt với người, bằng cách giải bày, bằng cách nâng đỡ, bằng cách mong mỏi và giúp đỡ sẻ chia. Chúng ta phải lấy cái vui của mình làm cái vui cho mọi người, cái vui của người chính là cái vui của mình. Cùng khổ cùng vui mới là tình thương yêu chân thành. Bởi cảm thông nhau trên nỗi khổ vui, chúng ta mới có nhiệt tình tích cực cùng nhau chia vui sớt khổ. Thông cảm được sự khổ vui của mọi người, chúng ta bắt đầu phát tâm từ bi. Tuy nhiên lòng từ, bi, hỷ, xả là phải không giới hạn, song mới tập từ bi thì xuất phát từ gần rồi lan rộng ra xa. Chúng ta tập cảm thông chia sẻ nỗi khổ niềm đau từ những người thân quen trong gia đình, dần dần lan rộng đến những người xa lạ bên ngoài. Khi lòng từ bi đã tiềm ẩn trong ta, thì mọi sân hận, si mê, tham lam, ích kỷ theo đó mà tiêu diệt. Người từ bi không thể nổi nóng chưởi đánh kẻ khác được. Lửa sân cháy hừng hực, chính là lúc nước từ bi đã khô cạn. Tự người gặp cảnh khổ, người có lòng từ bi còn không nỡ lấy mắt ngó, cần phải tìm đủ mọi cách để giải khổ cho người. Nếu khả năng chúng ta không thể giải cứu được, lòng vẫn xót xa đau đớn. Huống là, đích thân mình làm khổ cho người, lòng từ bi không cho phép dùng ngôn ngữ hành động làm khổ kẻ khác. Người từ bi đâu nỡ tranh giành hơn thua được mất với kẻ khác. Bởi kẻ được thì vui, người mất phải khổ, giành giật nhau là làm khổ cho nhau. Từ bi là ban vui cứu khổ. Con người có lòng từ bi thì mọi hành động có tánh cách tranh đua giành giật không còn nữa. Chính của mình mà còn đem ra giúp đỡ cho người khác, không thể có giành giật của người đem về cho riêng mình. Lòng từ bi này một bề thể hiện tình người trong cuộc sống, chiều theo sở nguyện của người khác. Làm trái ý người là khiến họ đau khổ, thuận hạnh từ bi là không trái ý nguyện của chúng sanh. Hiện tướng dữ để điều phục đưa người về chỗ an vui, là nghịch hạnh từ bi. Hạnh từ bi này vừa mới trông như kẻ ác, nhưng mai kia mới thấy rõ lòng từ bao la rộng lớn của người đó. Người thể hiện lòng từ bi này cần phải sáng suốt, hiểu xa trông rộng biết được tâm ý của người nên mới dùng nghịch hạnh. Dù thuận hạnh hay nghịch hạnh cũng là một nguồn ban vui cứu khổ. Bản chất từ bi là an ổn nhẹ nhàng mát mẻ, nên mọi chúng sanh khi gặp được đều cảm nhận niềm vui. Lòng từ bi của chúng ta được viên mãn khi nào mọi vọng thức phân biệt không còn. Vì vọng thức chạy theo nghiệp phân biệt có yêu có ghét, buồn vui lẫn lộn khó đem tình thương yêu chân thật bình đẳng đến cho chúng sanh. Khi nghiệp thức đã trong sạch, chỉ một tâm thể sáng suốt thênh thang bình đẳng bao trùm tất cả chúng sanh, không phân biệt ta người đây kia, làm gì có thương ghét phát sinh làm dính mắc. Sống với tâm thể này thì hay sáng soi muôn loài vật bằng trái tim hiểu biết. Từ bi là tình thương hoàn toàn không có toan tính, hơn thua, được mất, chỉ thấy người khổ liền giúp. Bọn ma vương ác quỉ sân hận, tham lam, tật đố gặp nước cam lộ từ bi đều chấp tay quì gối qui hàng. Lòng từ bi có mặt ở đâu thì mọi khổ đau đều tan biến hết. Lòng từ bi ngọt ngào như dòng sữa mẹ, từ bi mát dịu như ngọn gió chiều thu, từ bi trong sáng như ánh trăng rằm, từ bi phát sanh muôn ngàn công đức như lòng tốt phì nhiêu nuôi dưỡng vạn vật. Chúng ta tôn trọng kính mến những ai đã mang sẵn lòng từ bi, tán thán ca ngợi ai mới phát tâm từ bi, ước mơ mong mỏi ai sẽ học tập từ bi. Mọi người chúng ta gắng công khơi dậy dòng suối từ bi, để một ngày kia chảy tràn ngập, tưới mát trần gian đang bị nóng bức bởi sân hận, si mê. Hạnh phúc ở nhân gian nếu có, khi nào nguồn nước từ bi tràn về. Tất cả chúng ta đừng mong đấng nào cứu khổ, chỉ chấp tay cầu nguyện mọi người đều phát khởi tâm từ bi rộng lớn, thì ngọn lửa sân hận khổ đau bị dập tắt, khi trận mưa từ được thấm nhuần khắp nhân gian. Phương pháp nhẫn nhịn và từ, bi, hỷ, xả sẽ đưa chúng ta tới chỗ an ổn. Nhẫn nhịn là khéo léo điều hòa ngọn lửa, đừng để nước dập tắt lửa, cũng đừng để lửa đốt cạn nước. Trong gia đình, vì tương lai lâu dài của con cái nên vợ chồng phải biết nhường nhịn nhau. Trong Phật pháp thì biết kính trên nhường dưới và cảm thông tha thứ cho nhau. Nhờ thế mà gia đình và xã hội mới thật sự có bình yên hạnh phúc. Nếu không như vậy thì chúng ta chẳng bao giờ có được niềm vui thật sự. Do biết cuộc đời là mâu thuẫn nên chúng ta phải điều hòa bằng hạnh nhẫn nhục và hạnh từ, bi, hỷ, xả. Muốn được nhẫn nhục, hỷ xả, trước phải có tâm từ bi, thấy tất cả thế giới này đều là bạn, không thấy ai là kẻ thù cả. Không có lòng từ bi thì không thể có sự nhẫn nhịn và cảm thông tha thứ cho nhau được. Cho nên chúng ta đừng thấy ai là kẻ thù cả, chỉ có bạn đã thông cảm và chưa thông cảm với nhau mà thôi. Chính do tâm từ bi phát khởi nên chúng ta mới nhường nhịn, tha thứ cho nhau được. Đó là phương pháp tối ưu để chúng ta điều hòa những mâu thuẫn trong cuộc đời. Tuy biết rằng là khó thiệt nhưng chúng ta phải ráng cố gắng kiên trì, bền bỉ ứng dụng lâu dài, ắt có ngày ta sẽ điều hoà được mâu thuẫn. Tóm lại, muốn cho sự sống bình yên hạnh phúc thì phải hội đủ ba đức tính: từ bi, nhẫn nhục và hỷ xả. Nói theo thế gian là tình thương, nhẫn nhịn, vui vẻ và cảm thông. Chính vì vậy chúng ta nên nhớ vợ chồng có gì trái ý nhau nên thương nhau mà bỏ qua, miễn làm sao gia đình bình yên hạnh phúc, con cái học hành và có sự nghiệp đàng hoàng, khôn lớn nên người là được rồi, những gì riêng tư thì bỏ qua hết. Ở trong gia đình từ cha mẹ, vợ chồng, con cái người thân cũng không giống nhau. Như vậy muốn được bình yên hạnh phúc thì từ lớn đến nhỏ cũng phải khéo léo, điều hòa. Cái khổ lớn nhất là cha mẹ không bao giờ chịu nhịn con cái, vì quan niệm rằng áo làm sao mặc qua khỏi đầu được. Thường thì con cái hay chịu nhịn cha mẹ, chớ cha mẹ không bao giờ chịu nhịn con, mà chắc gì sự hiểu biết của người lớn đã trúng hơn kẻ nhỏ. Nhưng thật ra cha mẹ chỉ sinh ra thân thể này thôi, chớ đâu có sinh được ý thức hành động của con cái. Bây giờ có một phương pháp tối ưu, phương pháp này ít người làm được. Khi thực hiện được thì không còn mâu thuẫn nữa mới là vĩnh viễn bình yên, hạnh phúc. Đây chính là mục đích Phật nhắm đến để dạy chúng ta tu để được giải thoát viên mãn. Trong ta mỗi người chúng ta đều có tâm biết sáng suốt, thanh tịnh mà kinh Phật thường gọi là Phật tính nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, thấy tức biết, nương nơi tai nghe chỉ là nghe, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng vì tánh nghe thường hằng mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Khi ta sống được với tánh biết sáng suốt với tâm chân thật rồi thì không cần nhẫn nhịn hay tha thứ gì nữa. Nhưng nếu hai thứ đó còn thì phải từ bi, nhẫn nhịn, hỷ xả thì cuộc sống mới yên. Bởi vì tâm còn nghĩ thiện tức là còn đối đãi với ác, vì vậy chúng ta phải buông cả hai thiện và ác thì tâm mới yên. Tâm yên đó mới chính là tâm chân thật, còn tâm nghĩ thiện nghĩ ác v.v… chưa phải là tâm chân thật. Được như vậy thì cuộc đời này sẽ hết mâu thuẫn, không còn gì mà chống đối nữa. Song nếu người chưa qua khỏi hai bên thì phải tập tu từ bi, nhẫn nhục và hỷ xả thì cuộc sống mới yên lành. Bước đầu quí Phật tử nên tập từ bi, nhẫn nhục và hỷ xả trước cho cái mâu thuẫn trong mình được điều hòa, cuộc sống được bình an. Lấy đây làm bài học thì có thể nói nghe kêu một chút là có “một triết lý sống bình an”. Vì lâu nay quý Phật tử sống mà không biết mình sống làm sao, cho nên ai cũng nuôi phiền não tham, sân, si trong mình rồi mang lấy đau khổ, kêu trời trách đất hoài. Nếu biết được lẽ sống như vậy thì cuộc sống của ta rất bình yên và hạnh phúc. Chúng ta nếu vượt qua luôn sự đối đãi thì thành Thánh hết rồi, không nói Thánh cũng là Thánh, có việc gì phải phiền muộn khổ đau nữa. Chúng ta còn thương người làm lành thì ghét người làm ác, cho nên còn có hai tức là còn đối đãi với nhau. Chỉ khi nào chúng ta qua được hai bên đối đãi ta người, được mất, hơn thua thì mới hết mâu thuẫn. Ý nghĩa của đạo Phật cao siêu là vậy. Sư ông chúng tôi nói: “trước mặt chúng ta không có ai là kẻ thù” chỉ có người đã thông cảm và người chưa thông cảm mà thôi.
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |