Chi tiết tin tức

Phật giáo Việt Nam: Lịch sử và hiện tại

22:11:00 - 03/11/2021
(PGNĐ) -  Chặng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dài so với lịch sử Phật giáo đã 2.000 năm có mặt ở Việt Nam. Song 40 năm qua, Giáo hội đã có những bước phát triển quan trọng, tạo nên mốc son mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam trong lịch sử

Phật giáo có mặt ở Việt Nam chính xác vào thời gian nào, còn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy vậy, từ khi gặp được người Việt, Phật giáo đã hòa quyện và gắn bó, thăng trầm cùng lịch sử dân tộc.

Thời Hai Bà Trưng (40-43)

Phật giáo đã đóng vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ vào lịch sử giữ nước, giành độc lập dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt còn ghi, vào năm 40-43 sau Công nguyên, nhà Đông Hán (Trung Quốc) xâm lược và đô hộ Giao Chỉ (Việt Nam). Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống ách cai trị của giặc phương Bắc. Trong tám vị nữ tướng dưới trướng Hai Bà, có năm vị là Ni sư. Ngày nay ở đền thờ Hai Bà Trưng tại Mê Linh còn lưu danh tám vị nữ tướng. Ni sư Phương Dung, một trong năm vị Ni là nữ tướng của Hai Bà hiện được thờ ở chùa Yên Phú, Thanh Trì, Hà Nội [1].

Thời Tiền Lý (544-602)

Lý Bôn (503-548) đã lãnh đạo khởi nghĩa đánh bại giặc Lương từ phương Bắc, lập nước Vạn Xuân (544-602). Lý Bôn tự xưng Hoàng đế, tức vua Lý Nam Đế và tuyên bố quốc hiệu Vạn Xuân, cho dân xây chùa thờ Phật đặt tên là chùa Khai Quốc (mở nước). Sau nhiều lần trùng tu, đổi tên, hiện chùa mang tên Trấn Quốc, là di tích lịch sử đặc biệt ở Hà Nội. Lập quốc, dựng chùa đặt tên là chùa Khai Quốc, đủ thấy Phật giáo có ảnh hưởng lớn tới mức nào trong đời sống người Việt giai đoạn đó [2].

Thời Đinh – Tiền Lê (968-1009)

Đinh Bộ Lĩnh (924 -979), xưng đế và lập nên nhà Đinh (968-980), đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ tập quyền ở nước ta. Đinh Tiên Hoàng đã mời nhà sư Ngô Chân Lưu (933-1011) ra giúp vua, giúp nước, tôn sư làm Khuông Việt Đại sư. Vua còn mời nhiều bậc cao Tăng Phật giáo đứng ra giúp vua từ nội trị đến ngoại giao,… Đó là sự khẳng định vai trò quan trọng của Phật giáo trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Nhà Đinh vắn số, nhà Tiền Lê thay thế (980-1009). Vua Lê Đại Hành (941-1005) tiếp tục truyền thống tôn trọng Phật giáo, các nhà sư được vua tin tưởng ủy thác nhiều trọng trách. Điều này cho thấy các nhà sư thời bấy giờ không chỉ thông kinh sử mà văn chương nghệ thuật cũng rất giỏi, thể hiện văn hóa Phật giáo thời bấy giờ rất phong phú. Các nhà sư đã khéo vận dụng đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị, ngoại giao của đất nước [3].

Nhà Lý (1010-1225)

Khởi nghiệp từ Lý Công Uẩn (974-1028). Trong những năm đầu ra Thăng Long, vua không cho xây tông miếu mà cho dân xây mới 8 ngôi chùa trong kinh thành và ven đô, lại sức cho quan nha đôn đốc dân tu sửa các ngôi chùa để thờ Phật “lấy triết lý Phật giáo mà cố kết nhân tâm, vun bồi trí đức để dân cường nước thịnh”. Dưới triều Lý, Phật giáo phát triển rực rỡ cùng với sự hưng thịnh của đời sống xã hội. Người hiền, tài được trọng dụng, văn có Văn Miếu – Quốc Tử Giám, võ có Giảng Võ đường để đào tạo và tuyển lựa nhân tài thực học phục vụ quốc gia.

Nhà Trần (1225-1400)

Tiếp nối truyền thống, dòng chảy Phật giáo thời kỳ này phát triển rực rỡ hơn các triều đại trước. Trong nước, từ vua quan tới thứ dân đều biết Phật pháp. Trần Nhân Tông (1258-1308), vị vua thứ ba của triều Trần, ngoài đời là người nhân từ thương dân, rất nghiêm khắc trước sai trái của bất kể vua quan, trong đạo là người đắc đạo. Ngài chống gậy trúc đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ mê tín dị đoan, lấy tư tưởng “hòa quang đồng trần”, theo tinh thần Phật giáo để đoàn kết cùng nhau xây dựng cuộc sống. Ngài còn đi tới tận Chiêm Thành để thực hiện đoàn kết lân bang. Với công hạnh ấy, Ngài đã được nhân dân tôn vinh là Phật Hoàng (Vua đời – Vua đạo) [5].

Thời Lý – Trần là thời kỳ ảnh hưởng của Phật giáo thấm đẫm trong nhân gian, từ vua tới quan đều sống theo tâm đạo. Nhiều bậc hiền tài, trước tác văn hóa, kinh sách Phật giáo đã ra đời trong thời gian này, như nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn nhận xét: “Thời Lý, Trần là thời thuần hòa, nhà có cửa không cần đóng” [6].

Thời Hậu Lê (1427-1789)

Cả dân tộc Việt và Phật giáo trong thời kỳ này đều có những thăng trầm khá đặc biệt, sau khi trải qua giai đoạn xâm lược và đô hộ của nhà Minh với chính sách đồng hóa hà khắc. Một mặt, chúng đốt sách, diệt trừ tầng lớp trí thức bản địa, phá hủy các công trình văn hóa kiến trúc lớn, hòng tiêu diệt nền văn hóa Đại Việt hưng thịnh từ những triều đại trước. Mặt khác, chúng đề cao tư tưởng Nho giáo tuân phục, gây khó khăn cho Phật giáo, hòng triệt tiêu nền tảng tư tưởng của Đại Việt. Phật giáo thời Hậu Lê gặp nhiều khó khăn nhưng phát triển khá mạnh ở các vùng nông thôn. Bởi binh hỏa quân thù nên chư Tăng Ni lánh chốn đô hội, về vùng thôn quê, rừng núi ở ẩn. Nơi đó họ dốc lòng dạy Phật pháp, người nông phu hay anh lính đều được Sư dạy chữ để đọc kinh Phật, từ đó mà thêm nhiều người biết chữ, tiếp thêm sức sống cho nền văn hóa Đại Việt.

Thời Nguyễn (1802-1945)

Tính từ khi vua Gia Long (1762-1820) lên ngôi (1802). Tuy nhiên ngược dòng lịch sử, thì từ Nguyễn Hoàng (1525-1613), vị chúa Nguyễn đầu tiên, đã đặt nền móng cho vương triều Nguyễn định đô ở Huế ngày nay. Tại chùa Thiên Mụ (Huế), hiện có tấm bia ghi những điều chúa Nguyễn Hoàng dạy con cháu: “Sống phải cư Nho, mộ Thích”, có nghĩa sống phải cư xử theo đạo Nho, có trên dưới tôn ti trật tự, có nguyên tắc xã hội, gia đình, cha con, vợ chồng,… Mộ Thích là mến mộ triết lý của Phật Thích Ca: đức hiền lành, tâm từ bi, trí sáng suốt, sống trong lục hòa, chính tín, nhân quả thì việc gì cũng an vui tốt đẹp [7].

Thời đại Hồ Chí Minh (1945-nay)

Cách mạng tháng Tám (1945) đã đánh đuổi thực dân Pháp, lật đổ chế độ phong kiến ở Việt Nam. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Các tôn giáo được hưởng thành quả độc lập không bao lâu thì quân Pháp trở lại. Sau khi Pháp thất bại, đến lượt Mỹ âm mưu đặt ách thống trị lên miền Nam Việt Nam.

Trải qua 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đại thắng mùa xuân 1975 đã đưa lịch sử nước ta bước sang trang mới, thời kỳ hòa bình, thống nhất. Ngày 07/11/1981, tại thủ đô Hà Nội, Đại hội Thống nhất Phật giáo cả nước đã khai sinh ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Từ đây, Phật giáo Việt Nam có cơ duyên để thể hiện truyền thống Phật giáo yêu nước gắn bó cùng với dân tộc. Đến nay, qua 40 năm, GHPGVN đã phát huy truyền thống tốt đẹp, với nhiều hoạt động “lợi đạo ích đời”, đi đầu gương mẫu trong đoàn kết các tôn giáo, góp phần cùng nhân dân cả nước bảo vệ và xây dựng đất nước phát triển. Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Phật giáo Việt Nam thời đại nào cũng gắn liền với lịch sử dân tộc, thời nào Phật giáo cũng xuất hiện điển hình thật đáng trân trọng, là tấm gương giúp đời, hộ quốc an dân” [8].

Chặng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dài so với lịch sử Phật giáo đã 2.000 năm có mặt ở Việt Nam. Song 40 năm qua, Giáo hội đã có những bước phát triển quan trọng, tạo nên mốc son mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Chặng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dài so với lịch sử Phật giáo đã 2.000 năm có mặt ở Việt Nam. Song 40 năm qua, Giáo hội đã có những bước phát triển quan trọng, tạo nên mốc son mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam hiện nay

Từ khi thành lập, với hoạt động tích cực, GHPGVN đã tạo nên nhiều thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp cho xã hội. Trong 40 thành lập GHPGVN đã thể hiện ba nội dung nổi bật:

Thứ nhất, thống nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo cả nước trong một tổ chức, thống nhất đường hướng hành đạo. Chín tổ chức hệ phái Phật giáo gồm: Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam; Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam; Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh; Giáo hội Thiên Thai giáo Quán Tông; Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam; Hội đoàn kết Sư sãi Yêu nước Tây Nam Bộ; Hội Phật học Nam Việt, tham gia trong một tổ chức chung là GHPGVN.

Thống nhất về tổ chức là một mốc son quan trọng trong tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam. Từ đây, Phật giáo Việt Nam sinh hoạt trong tổ chức chung, cùng nhau thực hiện một đường hướng hành đạo được Tăng, Ni, Phật tử tham gia tổ chức GHPGVN lựa chọn là “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

Thứ hai, giảm thiểu, loại trừ dần yếu tố cực đoan phản động ra khỏi tổ chức Phật giáo. Sau 30/4/1975, đất nước độc lập, nhưng hậu quả của chiến tranh vẫn còn đó. Đối với Phật giáo trong thời chiến tranh, chức sắc, tín đồ Phật giáo tuyệt đại đa số ủng hộ chính nghĩa và cách mạng. Song một số ít người, do hoàn cảnh, bị lôi kéo, phải ngả theo phía đối lập. Khi hòa bình lập lại, một số ra nước ngoài, một số còn ở lại trong nước. Thành lập tổ chức chung GHPGVN giúp loại trừ yếu tố cực đoan ra khỏi Phật giáo.

Thứ ba, thống nhất Phật giáo cả nước thực hiện đại đoàn kết để bảo vệ và xây dựng đất nước. Với đường hướng “Đạo Pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, GHPGVN đã quy tụ tập hợp đông đảo chức sắc, tín đồ, quần chúng tín tâm với Phật giáo, thực hiện tinh thần nhập thế: cứu độ chúng sinh là cúng dường chư Phật, Phật giáo đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện xóa đói giảm nghèo, giúp nhau cùng phát triển. Hoạt động ấy của Phật giáo là tấm gương sáng để các tôn giáo cùng thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, cùng toàn dân đoàn kết thực hiện công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.

Một số thành tựu nổi bật của Phật giáo Việt Nam 40 năm qua

Năm 1981, GHPGVN thành lập, hiến chương Giáo hội đã khẳng định: “Sự thống nhất của Phật giáo Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc: Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức; đồng thời vẫn tôn trọng và duy trì các truyền thống Hệ phái, cũng như các pháp môn và phương tiện tu hành đúng chính pháp”. Hiến chương đã được Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn tại Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981. Tại Điều 1 của Quyết định, khẳng định: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và ngoài nước” [9]. Với tổ chức chung GHPGVN đã có một số thành tựu nổi bật của Phật giáo Việt Nam trong 40 năm qua.

Về cơ sở thờ tự và số lượng Tăng, Ni: Năm 1981, khi thành lập GHPGVN có gần 12.000 ngôi chùa, trên 26.000 Tăng Ni tham gia sinh hoạt trong tổ chức. Đến năm 2021, GHPGVN đã có trên 18.500 ngôi chùa, trên 54.000 Tăng Ni tham gia.

Về tổ chức: Đại hội nhiệm kỳ I (1981-1986), cấp Trung ương, Hội đồng Chứng minh có 50 thành viên, Hội đồng Trị sự 50 thành viên. Giúp việc cho Hội đồng Trị sự ở Trung ương có 06 ban; cấp địa phương có 27 tỉnh, thành phố có Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh. Tới Đại hội nhiệm kỳ VIII (2017-2022), Hội đồng Chứng minh có 96 vị, Hội đồng Trị sự có 225 vị chính thức, 45 vị dự khuyết. Với 13 ban, viện giúp việc cho Hội đồng Trị sự. Năm 2014 đã có 63/63 tỉnh thành phố có tổ chức Phật giáo cấp tỉnh, trên 68% cấp huyện, thị trực thuộc tỉnh có tổ chức Phật giáo cấp huyện.

Đào tạo tăng tài: Trước khi thành lập GHPGVN, Phật giáo cả nước chỉ có một Học viện Phật học, giảng sư có trình độ tiến sĩ chưa tới mười vị. Sau 40 năm, GHPGVN hiện có bốn Học viện Phật giáo Việt Nam tại: TP. Hà Nội; Thừa Thiên Huế; TP. Hồ Chí Minh và TP. Cần Thơ; một trường cao đẳng Phật học, bảy lớp Cao đẳng Phật học, ba mươi mốt trường Trung cấp Phật học, hàng trăm lớp Sơ cấp Phật học. Mỗi năm trong nước đào tạo trên 5.000 Tăng, Ni sinh các cấp, đã có trên 250 vị tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ từ nước ngoài về nước phục vụ Giáo hội và xã hội. Cùng với hệ thống đào tạo trong nước, Tăng Ni sinh Việt Nam du học sau đại học ở nước ngoài tới nay có trên 1.000 vị.

Hoạt động Phật giáo quốc tế: 40 năm qua, GHPGVN có nhiều hoạt động quốc tế trong và ngoài nước. Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam ở nước ngoài kết hợp với trong nước vận động xây dựng nhiều chùa và 22 tổ chức Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài, trực thuộc GHPGVN như: Lào, Ba Lan, Séc, Nga, Ukraina, Pháp, Campuchia, Hội Du học sinh Phật giáo Việt Nam tại Ấn Độ,…

GHPGVN tham gia nhiều tổ chức quốc tế như: Tổ chức châu Á vì hòa bình (ABCP), thành viên sáng lập Thượng đỉnh Phật giáo thế giới, tham gia Diễn đàn Phật giáo thế giới tại Trung Quốc, là thành viên Vesak của Liên Hợp Quốc. Trong nước vào các năm: 2008, 2014, 2019, GHPGVN và Nhà nước ta đã tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (Đại lễ Vesak) ở Hà Nội, Bái Đính (Ninh Bình), Tam Chúc (Hà Nam) mà Việt Nam trong vai trò là Chủ tịch Đại lễ. Năm 2010, Việt Nam đăng cai Đại hội lần thứ 11 Hội nghị “Những người con gái của Đức Phật” tại TP. Hồ Chí Minh,… Hoạt động quốc tế Phật giáo đã góp phần khẳng định, chứng minh chính sách cởi mở và thực tế tự do tôn giáo ở Việt Nam, đoàn kết với Phật giáo và nhân dân thế giới, mở rộng đối ngoại nhân dân,…

Thông tin, báo chí Phật giáo: GHPGVN TW có website, chương trình truyền hình Phật giáo, bốn tờ tạp chí. Địa phương có báo Giác Ngộ của Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh và nhiều tờ nội san của các Ban Trị sự Phật giáo địa phương. Ban Truyền thông của GHPGVN mới được thành lập trong nhiệm kỳ gần đây nhưng có rất nhiều hoạt động truyền thông phong phú, thiết thực và hiệu quả. Đặc biệt, website GHPGVN trong mấy năm gần đây được đánh giá là trang có thông tin cập nhật phong phú, có sức ảnh hưởng lớn, uy tín trong thông tin xã hội. Truyền thông Phật giáo đã kịp thời chuyển tải nhiều thông tin đến trong và ngoài nước, góp phần tích cực vào thông tin về đất nước con người Việt Nam trong đời sống hôm nay.

Hoạt động xã hội: Trong tổ chức GHPGVN, nhiều vị cao Tăng, nhân sĩ, trí thức Phật giáo tham gia tích cực các lĩnh vực xã hội cũng như các tổ chức chính trị xã hội. Nhiều vị được nhân dân tín nhiệm bầu vào Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Từ ngày thành lập Giáo hội đến nay, hàng vạn Tăng Ni tiêu biểu đã tham gia vào các tổ chức xã hội Thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc,… các cấp từ địa phương đến trung ương. Tham gia Quốc hội, đại biểu tiêu biểu của Phật giáo từ khóa I (năm 1946) đến khóa V (năm 1976) có 11 vị, từ khóa VI (năm 1981) đến khóa XV (năm 2021) có 42 vị [10].

Hoạt động từ thiện: Nếu tính theo thời gian, nhiệm kỳ thứ I chưa được tổng kết chi tiết; nhiệm kỳ thứ II (1987-1992), thông qua hoạt động của Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, từ thiện GHPGVN mua công trái được 4,6 triệu đồng và hai lượng vàng; nhiệm kỳ III (1992-1997), Phật giáo cả nước vận động được hai tỉ đồng; nhiệm kỳ VII (2017- 2022) tính đến 2020 đã quyên góp trên 512 tỉ đồng. Đặc biệt, trong bối cảnh cả nước thực hiện giãn cách để phòng chống dịch bệnh COVID-19, Phật giáo Việt Nam đã huy động nguồn lực to lớn, gồm tiền tài, vật chất, tình nguyện viên tham gia chống dịch. Hành động đẹp ấy đã trở thành tấm gương sáng trong đời sống xã hội [11].

Sự tôn vinh và những phần thưởng cao quý

Đối với GHPGVN, Nhà nước đã tặng Huân chương Hồ Chí Minh lần hai vào năm 2011 nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội (lần thứ nhất vào năm 1992, tại Đại hội kỳ III của GHPGVN). Nhiều GHPGVN ở địa phương cũng được tặng các danh hiệu thi đua và phần thưởng cao quý.

Đối với cá nhân, trong 40 năm hoạt động của GHPGVN, nhiều bậc cao Tăng, nhân sĩ trí thức Phật giáo đã được xã hội tôn vinh, được Nhà nước ghi nhận và trao tặng các danh hiệu cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập và nhiều hình thức khen thưởng động viên xứng đáng đối với những cá nhân trong Giáo hội đã có đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Một số hạn chế trong hoạt động của Giáo hội

Bốn mươi năm qua, GHPGVN đã có rất nhiều thành tựu được đánh giá cao, nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế trong hoạt động, xin đề cập tới ba hạn chế cơ bản:

Thứ nhất, quản lý hoạt động của Giáo hội. Theo truyền thống Phật giáo, Đức Phật không khuyến khích hình thành tổ chức lớn, mà chỉ hình thành Tăng đoàn từ bốn người trở lên để nương tựa nhau, lấy giới luật làm cương yếu. Trong quá trình phát triển, Phật giáo hình thành hệ phái, các sơn môn, chứ không thành tổ chức với quy mô lớn. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy Giáo hội, quản lý và điều hành các hoạt động Phật sự dù đã 40 năm nhưng so với một số tổ chức tôn giáo khác vẫn còn rất mới, ít kinh nghiệm. Việc quản lý Giáo hội đang có xu hướng “thế tục hóa”, xuất hiện biểu hiện buông lỏng quản lý ở một số nơi làm ảnh hưởng tới hiệu lực quản lý hành chính đạo theo quy định của Giáo hội.

Thứ hai, chưa phát huy được quan hệ của tổ chức Giáo hội và hệ phái, sơn môn. Theo truyền thống, ngoài giới luật chung của Phật giáo, trong hệ phái, sơn môn còn có những quy định riêng để quản lý Tăng, Ni của từng hệ phái, sơn môn gọi là thanh quy, môn quy,… Giống như “quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, thanh quy hay môn quy trong Phật giáo là hết sức quan trọng để duy trì giới luật tại nơi tu, nơi ở cụ thể của từng cá nhân, theo “nếp nhà”. Từ cụ thể thấp nhất đó để giám sát tu tập, khuyến tấn tu học làm sáng rõ sơn môn. Trong Giáo hội hiện tại, thanh quy của một số sơn môn có biểu hiện bị xem nhẹ, một số cá nhân không chú trọng vào sơn môn mà chú trọng vào tổ chức GHPGVN, dẫn tới tình trạng sơn môn không giám sát được cá nhân mà Giáo hội cũng không đủ sức giám sát. Điều đó đã tạo một số sơ hở cho cá nhân lợi dụng để tự do, phóng túng trong sinh hoạt, dẫn tới vi phạm giới luật.

Thứ ba, năng lực quản lý toàn diện hoạt động chưa ngang tầm với tầm vóc của tổ chức GHPGVN. Trong 40 năm hoạt động, Giáo hội đã có nhiều điều chỉnh bộ máy quản lý, thường xuyên kiện toàn với bộ máy hành chính đạo khá quy củ. Những quy định như hiến chương, nội quy của các cơ quan trực thuộc luôn được bổ sung, điều chỉnh để đáp ứng hoạt động trong điều kiện mới. Song quản lý và điều hành hoạt động của Giáo hội vẫn còn một số lĩnh vực chưa hiệu quả, cần cải thiện.

Trong tổ chức GHPGVN, nhiều vị cao Tăng, nhân sĩ, trí thức Phật giáo tham gia tích cực các lĩnh vực xã hội cũng như các tổ chức chính trị xã hội.

Trong tổ chức GHPGVN, nhiều vị cao Tăng, nhân sĩ, trí thức Phật giáo tham gia tích cực các lĩnh vực xã hội cũng như các tổ chức chính trị xã hội.

Kết luận

Chặng đường 40 năm của GHPGVN không dài so với lịch sử Phật giáo đã 2.000 năm có mặt ở Việt Nam. Song 40 năm qua, Giáo hội đã có những bước phát triển quan trọng, tạo nên mốc son mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Sự ra đời của Giáo hội đã khẳng định tầm vóc của Phật giáo Việt Nam trong gắn bó và đồng hành cùng dân tộc. Sự lựa chọn đường hướng “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” là quyết định đúng đắn để những giá trị tốt đẹp của Phật giáo phát huy trong thời đại ngày nay, thực hiện đúng phương châm mà cha ông ta từ ngàn xưa đã vận dụng qua “dựng đạo để tạo đời”. Thành tựu của GHPGVN góp phần cùng dân tộc bảo vệ và xây dựng đất nước trong 40 năm qua là không thể phủ nhận. Song, trong thành tựu đáng tự hào ấy, đâu đó vẫn còn bộc lộ những hạn chế, làm ảnh hưởng tới nội lực tổ chức GHPGVN. Nhìn lại chặng đường 40 năm đã qua, chúng ta tự hào về thành tựu đã cống hiến cho đạo pháp và dân tộc, đồng thời cũng nhìn nhận những hạn chế để khắc phục, nhằm không ngừng xây dựng một tổ chức Phật giáo vững mạnh, xứng đáng với truyền thống của một tôn giáo “hộ quốc an dân” luôn gắn bó đồng hành cùng dân tộc. Để Phật giáo thực sự là tôn giáo gương mẫu đoàn kết các tôn giáo và toàn dân góp phần tích cực xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp.

Để giúp GHPGVN thực hiện hiệu quả hoạt động Phật giáo theo tâm nguyện của các bậc cao tăng tiền bối, đúng với phương châm “tốt đời đẹp đạo”, về phía Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn nữa chính sách và pháp luật đối với tôn giáo, nhằm tạo môi trường chung, theo hướng cụ thể, bình đẳng cho các tôn giáo. Đồng thời, quan tâm đúng mức đối với lĩnh vực quản lý nhà nước về tôn giáo, để GHPGVN vững mạnh đúng với hạnh nguyện chung của Tăng, Ni, Phật tử và nhân dân là “tốt đời đẹp đạo”.

Chú thích:

[1] Thích Trí Quảng (2012), “Ni giới Việt Nam trong lịch sử dân tộc”, Báo Giác ngộ.

[2] Thích Thanh Nhã (2012), “Chùa Trấn Quốc”. Nxb. Tôn giáo.

[3] Khánh Bình, “Phật giáo Việt Nam dưới thời Ngô, Đinh và Tiền Lê”, Vườn hoa Phật giáo, truy cập 10/2021, từ www.vuonhoaphatgiao.com/lich-su/phat-giao-viet-nam/phat-giao-viet-nam-duoi-thoi-ngo-dinh-va-tien-le/.

[4] Hội Văn nghệ Bắc Ninh (2016), “Lý Vạn Hạnh và Phật giáo thời Lý”, lưu hành nội bộ.

[5] Ban Trị sự Phật giáo Quảng Ninh (2014), “Hội thảo Trần Nhân Tông”, lưu hành nội bộ.

[6] Phúc Nguyên, “Phật giáo và những ảnh hưởng Phật giáo dưới thời Trần”, Di sản văn hóa nhà Trần ở Đông Triều, truy cập 10/2021, từ nhatranodongtrieu.vn/bvct/chi-tiet/16/phat_giao_va_nhung_anh_huong_cua_phat_giao_duoi_thoi_tran.html.

[7] Thích Trí Tựu trụ trì chùa Thiên Mụ, Văn bia chùa Thiên Mụ Huế.

[8] Phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại Đại hội Thống nhất Phật giáo (4-7/11/1981).

[9] Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

[10] Ban Tôn giáo chính phủ (2014), Niên giám chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo là Đại biểu Quốc Hội từ khóa I đến khóa XIV, Nxb. Tôn giáo, 2014.

[11] GHPGVN, “Báo cáo Công tác Phật sự năm 2020”, 06/2021.

Tài liệu tham khảo:

1. Phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại Đại hội Thống nhất Phật giáo 04-07/11/1981.

2. Ban Tôn giáo Chính phủ, Báo cáo công tác năm 2020; Báo cáo sáu tháng đầu năm 2021.

3. Ban Tôn giáo chính phủ (2014), Niên giám chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo là Đại biểu Quốc Hội từ khóa I đến khóa XIV, Nxb. Tôn giáo, 2014.

4. Ban Trị sự Phật giáo Quảng Ninh (2014), “Hội thảo Trần Nhân Tông”, lưu hành nội bộ.

5. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, “Báo cáo công tác Phật sự năm 2020; Báo cáo sáu tháng đầu năm 2021”.

6. Hội văn nghệ Bắc Ninh (2016), “Lý Vạn Hạnh và Phật giáo thời Lý”, lưu hành nội bộ.

7. Thích Trí Quảng (2012), Ni giới Việt Nam trong lịch sử dân tộc, Báo Giác Ngộ.

8. Thích Thanh Nhã (2012), Chùa Trấn Quốc, Nxb. Tôn giáo.

9. Thích Trí Tựu trụ trì chùa Thiên Mụ, Văn bia chùa Thiên Mụ Huế.

10. Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, số 83/BT ngày 29/12/1981.

11. Khánh Bình, “Phật giáo Việt Nam dưới thời Ngô, Đinh và Tiền Lê”, Vườn hoa Phật giáo, truy cập 10/2021, từ www.vuonhoaphatgiao.com/lich-su/phat-giao-viet-nam/phat-giao-viet-nam-duoi-thoi-ngo-dinh-va-tien-le/.

12. Phúc Nguyên, “Phật giáo và những ảnh hưởng Phật giáo dưới thời Trần”, Di sản văn hóa nhà Trần ở Đông Triều, truy cập 10/2021, từ nhatranodongtrieu.vn/bvct/chi-tiet/16/phat_giao_va_nhung_anh_huong_cua_phat_giao_duoi_thoi_tran.html.

Tiến sĩ Bùi Hữu Dược, Nguyên Vụ trưởng Vụ Phật giáo – Ban Tôn giáo Chính phủ

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin