Từ hai bài phú Nôm - nghĩ về pháp phương tiện truyền giáo lý đạo Phật của Sơ tổ Trúc Lâm
21:33:00 - 27/11/2019
(PGNĐ) - Với các tác phẩm văn học trong Di sản của Điều Ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông để lại cho hậu thế là rất quý giá.
Ảnh minh họa
Trong số những bài thơ hướng về Phật giáo của Trần Nhân Tông theo các nhà nghiên cứu văn học cũng như Phật giáo có thể chia làm hai loại: Loại bài thứ nhất thiên về bộc lộ những cảm hứng, chiêm cảm do tác động từ đối tượng (cảnh sắc) và qua đó thơ thể hiện chất suy tư, tình cảm, chiêm nghiệm của mình trước cảnh sắc đó như các bài: Đề Cổ Châu hương thôn tự (Đề làng hương Cổ Châu), Đề Phổ Minh tự thủy tạ (Đề nhà thủy tạ chùa Phổ Minh), Đại Lãm Thần Quang Tự (Chùa Thần Quang trên núi Đại Lãm)…; loại bài thứ hai bày tỏ trực tiếp quan niệm của Sơ tổ về các mối quan hệ hữu - vô hay những lời giảng giải dưới hình thức hỏi đáp có nghĩa như những công án phân biệt mê ngộ bằng thơ như Tán Tuệ Trung Thượng sĩ (Ca ngợi Thượng sĩ Tuệ Trung), Hữu cú vô cú (Câu hữu câu vô), Sư đệ vấn đáp (Thầy trò hỏi đáp)…
Còn đề cập về hai bài phú nôm: Cư trần lạc đạo và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học) cho rằng: “Điều cần chú ý là chính nhờ Phật giáo, nhờ đời sống tu hành, sự đắc đạo và chất thi ca mà Trần Nhân Tông có được hai tác phẩm Nôm nổi tiếng đó là: Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Cả hai tác phẩm trường thiên đều bằng chữ Nôm, giữ vai trò định giá tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông cũng như khơi mở cho bộ phận thơ Nôm dân tộc phát triển thời bấy giờ”.
Ảnh minh họa
Trước khi tìm hiểu nội dung của hai bài phú thơ Nôm nói trên của Trần Nhân Tông, đây là những tác phẩm thơ nôm được coi là xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn học chữ nôm ở nước ta, chúng ta hãy điểm qua đôi nét về hình thức của thể loại này.
Như chúng ta đã biết, phú là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn xuôi và văn vần, được viết ra để tả phong cảnh, kể sự việc, bàn chuyện đời, gửi tâm sự, hay nói cái chí của mình…Phú có loại một vần (độc vần) có loại nhiều vần (liên vần). Những bài phú dài thường nhiều vần. Những bài biền phú, câu chữ thường đối xứng về thanh điệu, về ngữ nghĩa theo thứ tự trong câu.
Ở Trung Quốc, phú bắt đầu xuất hiện từ thời Chiến Quốc (403 - 221- TCN) khởi nguồn từ Kinh Thi và Sở từ. Ở Việt Nam, các tác giả Hán Nôm sử dụng thể phú rất sớm. Bài Bạch Vân chiếu xuân hải phú của Khương Công Phụ (780 - 805) được coi là tác phẩm văn học thành văn trong dòng văn chữ Hán xuất hiện sớm nhất ở nước ta.
Vào thời Lý - Trần phú được phổ cập rộng rãi trong cả nước. Đến thời Trần Anh Tông (1293 - 1314) thể loại phú trở thành một môn thi bắt buộc trong các kỳ khoa cử tuyển chọn nhân tài. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Trú phần khoa mục chí còn ghi lại: “Anh Tông (tức vua Anh Tông con trưởng kế ngôi của TNT) năm Hưng Long thứ 12 (1305) tháng 3 thi học trò trong nước, lấy Tam khôi, Hoàng giáp và Thái học sinh 44 người. Phép thi, trước thi ám tả…kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên, lấy 4 chữ “tài, nạn, xạ, trì” làm vần, phú dùng 8 vần”.
Do thể loại phú với đặc điểm cho phép thể hiện được tư tưởng, tình cảm lớn lao hào hùng, những sự vĩ đại, nên phú đã trở thành một trong những loại thể được các tác giả thời đó dùng để sáng tác.
Nhận xét về phú đời Trần, học giả Lê Quý Đôn (1726-1784) viết: “Văn thể phú về triều nhà Trần, phần nhiều khôi kỳ hùng vĩ, lưu loát đẹp đẽ (1). Theo Đại Việt sử ký toàn thư (QIV) chép rằng: “Phú chữ Nôm thời Trần đã được sử dụng nhiều, nước ta làm thơ phú bằng quốc ngữ (tức chữ nôm) bắt đầu từ đấy”. Theo các nhà nghiên cứu, dấu tích xưa nhất về chữ nôm xuất hiện trong khoảng đầu thế kỷ XI. Còn chữ nôm, nhiều thế hệ người Việt từ thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XX đã sử dụng để sáng tác, tạo nên những tác phẩm có giá trị trong nền văn hóa Dân tộc.
Về văn bản Nôm cổ nhất còn lưu lại đến nay là 3 tác phẩm Nôm đời Trần, được ghi lại trong cuốn Thiền tông bản hạnh, bản in năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745) (2) gồm các tác phẩm:
1. Cư trần lạc đạo phú.
2. Đắc phú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông.
3. Vịnh Hoa Yên tự phú của Đệ tam tổ Huyền Quang.
Trở lại với hai bài phú Nôm Cư trần lạc đạo và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca của Phật hoàng Trần Nhân Tông chúng ta thấy: với Cư trần lạc đạo phú, Sơ tổ nhấn mạnh nội dung phú ở cõi trần vui đạo. Qua mười hội và ngay từ câu mở đầu của mỗi hội đều thấy rõ nét nghĩa của sự tỉnh thức, phát hiện, đúc kết với các từ ngữ thật gần gũi dễ hiểu như: Biết vậy…, Tìm xem…, Vậy mới hay…, Vậy cho hay…, Thực thế…; Chưng ấy… và nhiều từ khác trong bài với ngữ nghĩa “nôm na” chẳng cần văn hoa mà dễ hiểu đã nói nên được cũng như thể hiện được nhãn quan và thức tâm của Thiền qua những câu chữ trong bài phú nói trên của Trần Nhân Tông giúp ta hiểu được những ý chỉ sâu xa nhất ở đó. Trong một giây phút đốn ngộ ấy, đức vua Trần Nhân Tông đã tỏ được ánh sáng của Đức Phật. Rồi trên đường dẫn đạo Trần Nhân Tông trở thành vị Sơ tổ của Thiền phái Trúc lâm. Bằng trí tuệ Bát nhã ấy, Sơ tổ muốn thức tỉnh mọi người tìm lại cái đã mất- tức Phật tâm của mình.
Ảnh minh họa
Tìm hiểu về phái Thiền nhập thế Trúc lâm Yên Tử, đã có người đặt câu hỏi: Vì sao Điều Ngự Trần Nhân Tông đã viết hai bài phú bằng chữ Nôm? Và câu trả lời có lẽ chẳng làm ai bất ngờ và dễ hiểu đó là Sơ tổ muốn dùng chữ Nôm bởi điều đó không chỉ đem đến lòng tự tôn dân tộc, mà chữ Nôm với nghĩa tự (nôm na) dễ hiểu để tiếp dẫn Phật pháp vốn trừu tượng khó hiểu, nhằm giúp con dân đất Việt dễ dàng đến với giáo lý đạo Phật. Đọc hai tác phẩm thơ nôm này, chúng ta càng thấy rõ dụng ý phương tiện truyền Pháp của Sơ tổ.
Trong Hành trạng của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Nhân Tông viết:
“Một hôm ta (tức Trần Nhân Tông) hỏi về cái gốc của tôn chỉ Thiền. Thượng sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được”. Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo thờ Người làm thầy”. (Tuệ Trung Thượng sĩ theo bề bậc còn là bác của Trần Nhân Tông).
Cư trần lạc đạo phú gồm 10 hội. Để tiện việc theo dõi tìm hiểu chúng tôi sẽ chuyển đến đạo hữu và bạn đọc nguyên văn mười hội này ở phần cuối bài viết. Ở đây chỉ xin đề cập (hội thứ 2 và hội 5).
Ở hội thứ 2, chúng ta thấy Cư trần lạc đạo phú, đức Điều Ngự đã chỉ ra chốn Cực lạc chẳng ở đâu xa! Từ sự thấu hiểu đạo trong lòng của chính mình:
“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc”.
Trần Nhân Tông như khuyên mọi người phải tự giải thoát, và muốn giải thoát rốt ráo thì phải thoát ra ngoài sự vật (tức vô trụ tam giới) để chân tâm được trong sáng, để Phật tính mỗi người được mở thông (câu thông) với cảnh giới thanh tịnh.
Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lầu quý nữa thiên cung.
Dầu hay mến thủa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác”.
Đến hội thứ 5, Trần Nhân Tông nêu tư tưởng cốt lõi của Thiền học là:
“Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt;
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta”
Nghĩa là: Trở về với cái gốc của mình, đến khi giác ngộ thì Phật ở tâm mình. Đây chính là thông điệp thứ nhất mà Trần Nhân Tông muốn gửi đến mọi người. Tác phẩm Cư trần lạc đạo phú là một bản hòa ca về con người biết vui với đạo khi đang sống giữa cõi đời mà không xa lánh nó. Đi hết mười hội của bài phú là đến lời kệ có ý nghĩa tóm lược, tổng kết toàn bộ nội dung bài phú. Đây là sự bày tỏ giáo lý Phật giáo, là lời đúc kết tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông.
Ảnh minh họa
Chúng ta cùng đọc và suy ngẫm lời kệ đúc kết có ý nghĩa tóm lược này của bài phú:
Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên,
Đói thì cứ ăn, mệt ngủ liền.
Báu sẵn trong nhà thôi tìm kiếm,
Vô tâm trước cảnh hỏi chi thiền.
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề chốn tác miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)
(Huệ Chi phiên âm từ chữ Nôm)
Đói thì ăn, mệt thì nghỉ, tùy theo duyên trên cõi đời này. “Duyên” là mối quan hệ giữa con người và sự vận động của thế giới khách quan vũ trụ nói chung. Trong bài kệ tóm lược Trần Nhân Tông như nhắc nhở mọi người hãy thuận theo sự vận động của quy luật tự nhiên (tức quy luật cuốn hút vật lý âm dương) của trái đất này (kể cả con người và vạn vật) cũng như trong tam giới.
Như vậy, cũng có nghĩa là tinh thần “nhập thế” bao trùm hay nói rõ hơn đó là Thiền nhập thế “tích cực” theo phương pháp “biện tâm trí tuệ” (3); khác với thiền quán tưởng mục đích nói chung là (tìm cầu những điều xa lạ) thiếu thực tế cả về nội dung và hình thức. Phải chăng nhờ có thiền nhập thế, thiền “biện tâm” như vậy, mà con người được đặt trong mối tương quan giữa đời và đạo trong việc vận dụng và phát huy khả năng bản thể tánh người và tánh Phật tùy theo hoàn cảnh.
Chính vì lý do Phật giáo Trúc lâm nhập thế dung thông “vô ngại” như thế mà quân dân Đại Việt thời Trần đã chiến thắng vẻ vang ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông hung hãn nhất lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Đó là thông điệp mà đức vua Trần Nhân Tông gửi mọi người hãy thuận theo lẽ tự nhiên, sống với tinh thần và tư tưởng Thiền “tích cực”.
Cùng với tư tưởng thiền trong tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú”, thì Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, với hình thức thơ trường thiên gồm 84 câu thơ thể 4 chữ, đức Điều Ngự Trần Nhân Tông cũng khuyên nhủ mọi người trở về với thiên nhiên để được thuần hậu, hỷ lạc, từ bi. Và ngài cũng chỉ ra mối quan hệ giữa Cái thân - Chủ thể con người với cảnh giới tự nhiên về cảm nhận bản thể, bản chất sắc thân.
Ảnh minh họa
Cảm nhận trở về với thiên nhiên thuần hậu:
"Khất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn rừng hủ hỷ,
Làm bạn cùng ta.
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỷ xả.
Để gần với đạo Thiên hơn, Sơ tổ nói rõ:
“Niềm lòng vằng vặc,
Giác tính quang quang.
Chẳng còn bỉ thử,
Tranh nhân chấp ngã.
Xướng khúc vô sinh,
Am Thiền tiêu sái (3).
Cảm nhận về bản chất sắc thân: “Sinh có nhân thân…
Kiến chốn dưỡng thân…
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân…
An thân lập mệnh,
Thời tiết nhân duyên…
Thân này chẳng quản,
Bữa đói bữa no…
Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư”
Bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca được Trần Nhân Tông viết sau khi xuất gia lên Yên Tử. Kết thúc khúc ca thành đạo này là bài kệ biểu cảm khái quát tâm thức con người đạt đạo, thấu hiểu lẽ chân như và trở lại hòa nhập trong cuộc sống đời thường:
Kệ rằng:
Sống yên giữa cảnh lặng lòng không,
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông.
Dưới gốc giường thiền, kinh một quyển,
Thanh nhàn hai chữ, đáng muôn đồng.
(Cảm tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong suy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thụ hạ nhất kim quyển,
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn kim)
(Huệ Chi phiên âm từ chữ Nôm)
Nhân tưởng niệm 711 năm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, đọc lại hai bài phú (thơ Nôm) của Sơ tổ Trúc lâm, chúng ta càng thấy bất ngờ và kinh ngạc bởi cách đây gần 800 năm với tư duy thời quân chủ. Nhưng kết quả pháp phương tiện mà Sơ tổ lựa chọn truyền giáo lý đạo Phật đến nay vẫn làm không ít thức giả, kẻ tu hành đương đại khi tìm hiểu Di sản và di huấn của ngài luôn bất ngờ, bởi ở đó, đường linh chánh pháp mà Sơ tổ Trúc lâm dầy công xây dựng - nuôi dưỡng mạng mạch Phật pháp luôn tàng ẩn và tiếp nối giữa truyền thống và hiện đại.
Từ tinh hoa tiềm ẩn và mạch nguồn trí tuệ ấy, đã dẫn dắt dòng thiền Nhập thế Trúc lâm Yên Tử mang đậm bản sắc Dân tộc Việt; đồng thời cũng là điểm hội tụ và tiếp nối dòng Thiền tông thanh tịnh - Thích Ca Văn.
Lưu ý: (Để giúp cho việc đọc, tìm hiểu và đối chiếu, dưới bài viết này, chúng tôi chuyển đến đạo hữu và bạn đọc nguyên văn hai bài phú nói trên của Sơ tổ Trúc lâm).
Ghi chú:
(1) Lê Quý Đôn - Kiến văn tiểu lục - Nxb KHXH 1977.
(2) Theo dẫn luận trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu – Nxb KHXH 1993.
(3) Những bản dịch về 2 bài phú thơ nôm được trích từ (Tổng tập văn học Việt Nam - tập 2 - Nxb KHXH 1997)
- Thiền học đời Trần (nhiều tác giả) - Nxb Tôn giáo 2003 - HT.Thanh Từ chủ biên)
Cư Trần Lạc Đạo (nguyên văn)
Bài Cư Trần Lạc Đạo là của một vị vua xuất gia viết, đó là vua Trần Nhân Tông. Sau khi xuất gia, vua có hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Bài này là trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, và trong địa vị văn học, đây là sáng tác tiếng Nôm đầu tiên tại Việt Nam. Cư Trần Lạc Đạo là một bài phú gồm mười Hội, trình bày phương pháp tu tập của Trúc Lâm Đại Sĩ.
HỘI THỨ NHẤT
Mình ngồi thành thị; nết dùng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý; thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý; biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm!
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng; liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục; nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam.
Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu; kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.
HỘI THỨ HAI
Biết vậy! Miễn được lòng rồi; chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an; nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương; dừng hết tham sân, mới lảu lòng mầu viên giác.
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe; cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
Thiền học Luy Lâu không còn, và nên không còn được hiểu là khởi nguyên của Thiền học Việt Nam, mà là suối nguồn của Thiền học Việt Nam. Có lẽ Phật giáo Việt Nam cần trở về cội nguồn của Luy Lâu và Yên Tử để tìm thấy mình và bắt gặp lại niềm tin và tự hào lịch sử trước khi có thể mở ra hướng phát triển cho hiện tại.
"Nói đến cuộc sống là vô biên không thể kể xiết nào là vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, mệt nhọc, sung sướng… nhưng điều tất yếu là ta phải biết nhận diện nó, để rồi chuyển hoá nó thì tự nhiên cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, thong dong hơn, đừng nói gì đến “Mỗi lần nêu ra một lần mới”. Ví như ban nãy tôi đang đứng giữa trời đất đưa tay chỉ bầy chim én bay lượn trên cao, tay vừa đưa lên thì chúng đã bay xa. Cho nên mỗi chúng ta đừng vội vàng đi tìm cầu mà hãy trân quý cuộc sống trong hiện tại cho thật thi vị nhiệm mầu". (Trích Tâm quán tình người, Thích Pháp Bảo)
Trong các loài hoa báo xuân thì mai là người gõ cửa, khi chỉ mới vào độ đầu tháng Mười một âm lịch đã thấy lác đác những nụ mầm bật lên, e ấp trong gió đông còn đang xám xịt giữa cô liêu rét buốt, ẩm ướt mưa phùn. Nhưng, phải đợi đến tận những ngày cuối tháng Chạp, mai mới ủ đủ nhựa cho một đợt mãn khai đón Tết đến, xuân về.
Từng lời, từng câu, từng chữ trong bài: Đôi dòng xúc cảm của tác giả Minh Hà đều chất chứa biết bao tình cảm thiêng liêng của người viết. Nó dường như mang nặng trong lòng của những người con Phật về bốn ân to lớn trong đời sống của mình, đó là ân Quốc gia, xã hội; ân Sư trưởng; ân phụ mẫu và ân vạn loại chúng sinh. Từ đây, tác giả đã bước chân vào con đường đạo, từ bỏ mọi danh lợi thế gian, sống một đời sống phạm hạnh, tri túc thường lạc, với mong muốn giản dị là đem lại sự an vui và hạnh phúc mọi người.
Dù em là ai đi chăng nữa, nhưng trong em luôn có tâm thiện, sống có đạo đức thì đó chính là mình có hiếu với bố mẹ rồi. Nói chung, việc báo hiếu nó biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau em ạ. Chứ không phải đi tu là bất hiếu, và lập gia đình là có hiếu đâu em nhé.
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội, sáng ngày 14.5.2008 đã khẳng định:
Bình yên không có nghĩa là đi đến một nơi không có tiếng ồn, không có khó khăn, không cực nhọc. Bình yên là giữa một không gian yên ả, thanh bình, chỉ có tiếng chuông chùa buông trong thinh không làm tâm ta tĩnh lặng, dễ chịu. Bình yên là khi ta biết tìm về với Phật, tìm về nương náu dưới ngôi Tam Bảo để tu thân hành thiện, để cho cuộc đời mình sống có ý nghĩa hơn.
Ăn cũng là một giải pháp của tiến hoá trong mục đích duy trì sự tuôn chảy của dòng sông sự sống vô hình, bằng cách các sinh vật phải chiếm đoạt sinh-khối của nhau để duy trì cuộc sống. Hiện tượng này tạo thành khái niệm sinh học về "chuỗi thức ăn" hoặc "tháp thức ăn" trong sinh quyển . Ăn là hiện tượng tự nhiên như nó là, ăn là một điều-kiện-tính của tồn sinh và ăn đã điều-kiện-hoá sự tồn sinh của mọi cá thể, mọi loài sinh vật.