Chi tiết tin tức

Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng với Phật giáo Huế

20:44:00 - 15/05/2024
(PGNĐ) -  Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng là một vị quan đại thần của triều Nguyễn, và cũng là một trí thức uyên thâm Phật học. Chính những hành động đầy nhiệt huyết của cụ Ưng Bàng trong việc tham gia An Nam Phật học Hội, tiến hành xây dựng, trùng tu nhiều chùa chiền ở Cố đô Huế, góp phần quan trọng gìn giữ hồn xưa xứ Huế, đã tạo nguồn động lực và sức mạnh tinh thần cho các vị cư sĩ hiện nay và mai sau tiếp bước dấn thân vào con đường giữ gìn và hoằng dương chánh pháp.

1. MỞ ĐẦU
Tiếp nối truyền thống hộ trì Tam bảo “Cư Nho mộ Thích” từ thời các chúa Nguyễn, kể từ khi khai sáng vương triều Nguyễn vào năm 1802, vua Gia Long cũng như các vị hoàng đế kế nghiệp, các thế hệ hoàng thân quốc thích thuộc hoàng tộc Nguyễn đã tiên tục có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng, trùng tu chùa chiền, san ấn kinh sách, chú đúc chuông tượng, ban cấp sắc tứ, độ điệp…

Trong bài viết “Về vị Chánh Hội trưởng An Nam Phật học hội: Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng” đăng trên Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 399, chúng tôi đã giới thiệu khá rõ nét về cụ Ưng Bàng thuộc phủ Hoằng Hóa Quận vương. Còn bài viết này, tác giả xin góp thêm vài tư liệu về cụ Ưng Bàng thuộc phủ Tùng Thiện Vương. Do có nhiều điểm tương đồng như trùng tên, năm sinh, phẩm hàm và công lao đối với Phật giáo nên có nhiều người, kể cả một số nhà nghiên cứu đã nhầm lẫn về tiểu sử của hai cụ. Vì vậy thông qua hai bài viết, chúng tôi hy vọng sẽ phần nào làm sáng tỏ công trạng của hai vị cư sĩ hữu công tiêu biểu này.

Cụ Ưng Bàng ngồi đọc sách tại biệt thự Hiếu Quảng. (
Nguồn: Ảnh tác giả chụp lại)

2. HIỆP TÁ ĐẠI HỌC SĨ ƯNG BÀNG: CUỘC ĐỜI VÀ HÀNH TRẠNG
Công tôn Ưng Bàng 膺胖 [1] là con trai thứ 5 của Tùng Thiện Quận công Hồng Phì [2] và bà Nguyễn Thị Ẩn, và là cháu nội của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Ông sinh ngày 03 tháng 02 năm Tân Tỵ, niêu hiệu Tự Đức thứ 34 (tức ngày 03/03/1881) tại Huế, tự Hiếu Quảng 孝廣. Năm Duy Tân thứ 5 (1911), công tôn Ưng Bàng được triều đình ân phong tước Trợ Quốc khanh [3].

Tuy sinh ra trong dòng dõi đế vương nhưng cụ Ưng Bàng luôn sống một đời giản dị, thanh liêm, tận tụy với việc triều chính, hết lòng thương dân. Và đồng thời, cụ Ưng Bàng thường lui tới chốn thiền môn, ngoài trao đổi thơ văn ông còn được thân cận các danh tăng lúc bấy giờ và đã quy y với pháp danh Trừng Chơn 澄真. Trong hơn 30 năm làm quan, bằng sự uyên bác, thông minh, giỏi chữ Hán và tinh thông Pháp ngữ, cụ Ưng Bàng được thăng tiến qua nhiều chức vụ trọng yếu trong triều, ở chức phận nào ông cũng đem hết tâm sức trí tuệ để phục vụ cho lợi ích của đất nước, được triều đình trọng thị và nhân dân các nơi khen ngợi. Bởi nhân cách, đức nghiệp và công nghiệp như vậy, cụ Ưng Bàng đã được chính quyền Nam triều, Chính phủ Bảo hộ phong thưởng Long Bội tinh, Bắc Đẩu Bội tinh, Kim khánh, Ngân tiền, Kim tiền…

Không gian thờ tự tại biệt thự của Hiệp tá Ưng Bàng.
(Nguồn: Tác giả)

Vào tuổi 53 (năm 1934), nản chí trước đời sống quan trường, mặc dù đang đương chức Tham tri Bộ Công tác và Mỹ thuật nhưng cụ Ưng Bàng vẫn cáo bệnh để xin về hưu trước tuổi. Bản tấu của Bộ Lại cho biết sự việc này như sau: Viên Tham tri Bộ Công tác và Mỹ thuật là Ưng Bàng có làm đơn trình rằng nay tuổi cao sức yếu, xin cho về hưu. Xét viên ấy năm nay mới 54 tuổi, chưa đến lệ nhưng đã có đơn xin. Chúng tôi đã thư trình quý Khâm sứ và Hội đồng Thượng thư thẩm nghĩ, trật sẽ xin thương định rồi phụng phiến sau. Vua Bảo Đại đã phê “Chuẩn y” và Ngự ký: BĐ [4].

Cũng trong năm này, cụ Ưng Bàng được triều đình thăng vinh hàm Thượng thư Bộ Công tác và Mỹ thuật. Bộ Lại tấu: Xét kỳ Xuân này có viên Ưng Bàng, hàm 2-2, Tham tri Bộ Công tác và Mỹ thuật và viên Bùi Hữu Hưu lãnh Lang trung Bộ Tư pháp, hàm 3-2, được chỉ chuẩn về hưu trí, viên Nguyễn Khắc Niệm, hàm 4-1, Lang trung Bộ Lễ nghi và viên Nguyễn Vinh, hàm 6-1, lãnh Kinh lịch đạo Ddar lac do bộ chúng tôi thương đồng cùng quý Khâm sứ cho về hưu. Nay chiếu theo lệ định và lời xét tư của quan trên các viên ấy thương trình quý Khâm sứ nghĩ thưởng vinh hàm cho họ. Xin kính tâu lên Hoàng thượng duyệt định, chờ Chỉ lục tuân. Phụng Châu phê: Chuẩn y, Khâm thử. Phụng ngự ký: B.Đ [5].

Toàn cảnh lăng mộ cụ Ưng Bàng. (Nguồn: Tác giả) Chân dung Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng (1881 – 1959). (Nguồn: Ảnh tác giả chụp lại)

Đến năm Bảo Đại thứ 11 (1936), cụ Ưng Bàng lại được triều đình ưu ái thăng vinh hàm Hiệp tá Đại học sĩ, hàm 1-2. Điều đó, cho thấy phẩm hạnh và uy tín của ông rất lớn. Cụ Ưng Bàng sống cuộc đời nhàn tịnh tại hưu đình mang tên biệt thự Hiếu Quảng bên cạnh dòng sông An Cựu. Từ đó, ông chuyên tâm vào công việc Phật sự, đồng thời kết nối và chấn hưng dòng tộc trước những biến động của thời cuộc.

Ngày 03 tháng 08 năm Kỷ Hợi (tức ngày 05/09/1959), Hiệp tá Ưng Bàng đã yên nghỉ trong sự thương tiếc, kính trọng của mọi người, hưởng thọ 79 tuổi. Cụ Ưng Bàng được an táng tại khu nghĩa trang của phủ Tùng Thiện Vương, trên một ngọn đồi thông gần chùa Từ Hiếu (thuộc phường Thủy Xuân, TP. Huế), nằm khá gần viên tẩm đức ông Tùng Thiện Vương.

Về kiến trúc, lăng mộ Ưng Bàng với cấu trúc khá đơn giản, bao gồm 1 vòng thành, nấm mộ, bia đá và bình phong hậu. Mộ có dạng đơn thành, xây bằng các loại đá tự nhiên, thành được vuốt cong mềm mại, chiều cao được nâng dần về phía sau và giật thành bình phong hậu, hai bên cửa tạo hình đầu rồng trong tư thế đối diện nhau. Tấm bia được gắn vào bình phong hậu, bia bằng đá, có dạng “Tam sơn”, trán bia trang trí mô típ “lưỡng long chầu nhật”, nét chữ trên bia khắc khá sâu. Dòng chính văn khắc chữ: “Tống Sơn Nguyễn Phúc Ưng Bàng pháp danh Trừng Chơn chi mộ – 宋山阮福膺胖法名澄真㞢墓” [6].

Biệt thự của Hiệp tá Ưng Bàng nay tọa lạc tại số 336 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, TP. Huế. Kiến trúc tổng thể biệt thự gồm các hạng mục cổng ngõ, bình phong, bể cạn, nhà chính, nhà phụ và sân vườn có diện tích 1 mẫu đất. Ngôi biệt thự này được cụ Ưng Bàng xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XX, mang đậm nét của sự pha trộn kết hợp giữa hai trường phái kiến trúc Đông – Tây đã tạo nên một lối kiến trúc độc đáo. Biệt thự quay mặt về hướng Nam, các họa tiết trang trí nội – ngoại thất biệt thự đều xuất phát từ các mô típ Á Đông cổ truyền nhưng được cách điệu và biến hóa ở các vị trí khác nhau, tạo ra sự đa dạng trong phương cách trang trí nhưng vẫn hòa nhập với hình thái kiến trúc chung. Chính Hiệp tá Ưng Bàng là người thiết kế và trông coi việc xây dựng nên đã tạo cho ngôi biệt thự một dấu ấn kiến trúc rất riêng.

Toàn cảnh ngôi biệt thự của Hiệp tá Ưng Bàng. (Nguồn: Tác giả) Bức hoành phi đề 4 chữ “Hiếu Quảng sinh từ”. (Nguồn: Tác giả)

Phía trên lối cửa chính đi vào căn biệt thự có trang trí tạo hình nề đắp nổi bức hoành phi đề bốn chữ “Hiếu Quảng sinh từ – 孝廣生祠”. Hai bên cửa chính còn trang trí đôi câu đối chữ Hán theo kiểu thức nghệ thuật khảm sành sứ đặc trưng thời Nguyễn:
行仁義事
存忠孝心
Phiên âm:
Hành nhân nghĩa sự;
Tồn trung hiếu tâm.
(Làm việc nhân nghĩa;
Giữ lòng trung hiếu).

Nội dung chữ nghĩa và phong cách trang trí của bức hoành phi, câu đối nêu trên đều do cụ Hiệp tá Ưng Bàng tự tay viết và trình bày, nhằm mang ý nghĩa nhắc nhở các thế hệ con cháu hậu duệ trong gia tộc luôn ghi nhớ nơi đây ta (tức cụ Hiếu Quảng – Ưng Bàng) đã sinh ra, lớn lên và mong muốn con cháu hôm nay, mai sau luôn làm việc nhân nghĩa, có tấm lòng trung hiếu vì nước vì dân. Qua đó cho chúng ta thấy phần nào nề nếp gia phong của các gia đình hoàng tộc nhà Nguyễn mang đậm phong vị Huế.

Ngay giữa chính đường biệt thự Hiếu Quảng là gian thờ trung tâm, được bài trí theo nguyên tắc “tiền Phật hậu linh”, phía trước thờ Phật, phía sau thờ phụng vong linh các vị: Tùng Thiện Quận công Hồng Phì, bà Nguyễn Thị Ẩn, Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng, cùng các thế hệ con cháu hậu duệ đã khuất của gia tộc. Bài vị của cụ Ưng Bàng được thờ tại chính đường ghi như sau: “Hiển khảo hoàng triều cáo thụ Vinh lộc đại phu Hiệp tá Đại học sĩ Nguyễn Phúc Ưng Bàng pháp danh viết Trừng Chơn thụy Văn Ý tự Hiếu Quảng phủ quân chi linh vị – 顯考皇朝誥授榮祿大夫協佐大學士阮福膺胖法名曰澄真謚文懿字孝廣府君㞢靈位”.

Trên bàn thờ Phật có thiết trí tượng Bồ tát Địa Tạng bằng gỗ thếp vàng do Hiệp tá Ưng Bàng cho nghệ nhân cung đình chế tác. Bức tượng này được tạo tác trong hình ảnh một vị tỳ kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, ngồi trên con Đế thính. Lúc sinh thời, cụ Ưng Bàng thường niệm danh hiệu Bồ tát.

Ông Vĩnh Nhi [7] đã cho chúng tôi xem một số tư liệu liên quan đến cụ Ưng Bàng, trong đó có bản chế phong của vua Bảo Đại ban cho Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng vào ngày 21 tháng 8 năm Bảo Đại thứ 11 (1936). Đây được xem là cổ vật gia bảo của gia tộc Hiệp tá Ưng Bàng. Dưới đây là nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa bản chế phong độc đáo này.
Nguyên văn:
承天興運皇帝制曰朕惟賢達去留之志爵祿難縻朝廷優體之恩始終罔間青山踐約紫閣綸傳咨爾尚書致事膺胖器識淵弘風猷凝遠撫業文章並重端紳冑之儀型謀謨才畧兼長具鹽梅之手叚廸棐弗渝素節勤勞常抱丹心肆寡躬懋敕辰幾方望台階之協贊惟賢輔堅待年例動懷綠野之優游謙貞旣在簡知晋錫宜隆寵渥茲特準陞授榮祿大夫協佐大學士仍舊致事錫之誥命尚其光膺庥命重訪舊居山水林園無徒侈耆英之樂江湖廊廟尚不忘憂愛之心欽哉
保大拾壹年捌月貳拾柒日
Phiên âm:
Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết.
Trẫm duy: Hiền đạt khứ lưu chi chí, tước lộc nan mi.
Triều đình ưu thể chi ân, thuỷ chung võng gián.
Thanh sơn tiễn ước, tử các luân truyền.
Tư nhĩ Thượng thư trí sự Ưng Bàng khí chí uyên hoằng, phong du ngưng viễn.
Phủ nghiệp văn chương tịnh trọng, đoan thân trụ chi nghi hình.
Mưu mô tài lược kiêm trường, cụ diêm mai chi thủ đoạn.
Địch phỉ phất du tố tiết, cần lao thường bão đan tâm.
Tứ quả cung mậu sắc thần cơ, phương vọng đài giai chi hiệp tán.
Duy hiền phụ kiên đãi niên lệ động hoài lục dã chi ưu du. Khiêm trinh ký tại giản tri, tấn tích nghi long sủng ác.
Tư đặc chuẩn thăng thụ Vinh lộc đại phu Hiệp tá Đại học sĩ nhưng cựu trí sự, tích chi cáo mệnh.
Thượng kỳ quang ưng hưu mệnh, trọng phỏng cựu cư.
Sơn thủy lâm viên vô đồ xỉ kỳ anh chi lạc.

Giang hồ lang miếu thượng bất vong ưu ái chi tâm. 
Khâm tai!
Bảo Đại thập nhất niên bát nguyệt nhị thập thất nhật.
Dịch nghĩa:
Vâng mệnh trời dấy vận, Hoàng đế ban chế rằng:
Trẫm nghĩ: Bậc hiền đạt đi hay ở, dẫu tước lộc vẫn khó ràng buộc.
Triều đình ra ơn ưu đãi, trước sau chẳng gián cách.
Núi xanh tiễn theo ước vọng, gác tía còn truyền chiếu chỉ.
Hỏi ra ngươi là Thượng thư trí sự Ưng Bàng, khí chí rộng sâu, phong cách mưu tính sâu xa.
Chính trị và văn chương đều nặng, ngay chính nghi hình của quan lớn.
Mưu mô, tài lược gồm hay, đầy đủ tay nên mơ muối.
Dẫn dắt không đổi thay tiết sạch, siêng năng thường giữ lòng son.
Bèn đôn thân đợi đổi thời cơ, mới ngóng các quan giúp đỡ.
Duy người hiền giúp vẫn đợi niên lệ, chợt nghĩ rong chơi nơi đồng ruộng.
Khiêm trinh trẫm vốn đã hay, tấn tặng cần thêm nhuần thấm.
Nay đặc chuẩn thăng thụ Vinh lộc đại phu, Hiệp tá Đại học sĩ, trí sự như cũ, ban cho cáo mệnh.
Ngõ hầu sáng tỏ mệnh tốt, hỏi thăm nơi ở cũ.
Non nước vườn rừng, chẳng phí suông niềm vui của bậc kỳ anh.
Giang hồ hay lang miếu, vẫn không quên lòng ưu ái.
Kính thay!
Ngày 21 tháng 8 năm Bảo Đại thứ 11 (1936)
[Ấn: “Sắc mệnh chi bảo”].

Tượng Bồ tát Địa Tạng bằng gỗ thếp vàng. (Nguồn: Tác giả)

3. NHỮNG DẤU ẤN CỦA HIỆP TÁ ƯNG BÀNG ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO
Hiệp tá Ưng Bàng đã có nhiều đóng góp lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo, và cũng là một trong những thành viên chủ chốt của An Nam Phật học hội. Cụ Ưng Bàng đã chung tay cùng An Nam Phật học hội đẩy mạnh sự nghiệp hoằng pháp, đào tạo tăng tài. Ông còn cho xây dựng một ngôi chùa để thờ Phật ở ấp Trường Cởi (thuộc làng Phú Xuân, huyện Hương Thủy) vào năm 1937. Những việc làm này đã nói lên được công đức to lớn của cụ Ưng Bàng hộ trì Tam bảo.

Đến năm 1940, Hiệp tá Ưng Bàng phát tâm cúng dường mảnh đất vườn có diện tích 3 sào 10 thước 9 tấc cùng ngôi chùa này cho Hòa thượng Thích Thiện Trí [8] làm trú trì. Lúc bấy giờ, Hòa thượng Thích Thiện Trí đã đặt tên cho ngôi chùa là “Hiếu Quang” và tên gọi này được giữ đến ngày nay. Theo Hòa thượng Thích Quang Nhuận – đương kim trú trì chùa Hiếu Quang cho biết: Hòa thượng Thích Thiện Trí đã lấy chữ “Hiếu” trong tên tự Hiếu Quảng của Hiệp tá Ưng Bàng và chữ “Quang” từ tên chùa Linh Quang [9], nơi xuất gia tu học của Hòa thượng Thiện Trí để ghép thành tên chùa Hiếu Quang. Qua đó cho thấy Hòa thượng Thích Thiện Trí muốn gửi thông điệp đến tăng chúng bổn tự và đạo hữu Phật tử luôn ghi nhớ về cội nguồn lịch sử hình thành chùa Hiếu Quang.

Năm Bảo Đại thứ 17 (1942), cụ Ưng Bàng đã làm “Tờ giao chùa và vườn” để chính thức cúng cho Hòa thượng Thích Thiện Trí làm chủ tọa. Nội dung của Tờ giao chùa và vườn như sau:
“Tôi là Ưng Bàng, Hiệp tá Đại học sĩ, Trí sự phòng Tùng Thiện Vương, vợ là Lê Thị Khánh có tạo một sở vườn 3 sào 10 thước 9 tấc, tọa lạc tại làng Phú Xuân, ấp Trường Cửi đông tây tứ chí đã có chỉ rõ trong tờ trích lục ni 438.
Nay vợ chồng tôi nguyện lập một ngôi chùa trên vườn ấy để thờ Phật, có Thầy Nguyễn Thiện Trí trú trì chùa Linh Quang cùng các quan, các bà và thiện nam tín nữ trong bổn đạo đều phát tâm nguyện cúng tài sản người nhiều kẻ ít làm ra ngôi chùa cả tiền tích bằng ngói 3 gian hiệu là Hiếu Quang Tự, một nhà tăng 3 gian, một nhà trù bằng tranh 3 gian và sắm khí mãnh cần dùng trong chùa đủ cả.
Nay tôi làm tờ này đoạn giao toàn sở đất và chùa cho Thầy Nguyễn Thiện Trí quản nhận phụng thủ lo liệu cả mọi sự trong chùa thế thế tương truyền phụng thờ Phật Tổ như lời nguyện của vợ chồng tôi.
Từ ngày nay về sau, vợ chồng và thân quyến của tôi, Thầy và đồ đệ người nào kế chân Thầy, cả hai bên không ai được tư tương cầm bán hoặc thiện tiện di dịch bất hạng một món gì trong chùa cả.
Nếu ai không tuân lời tôi trong tờ này mưu tâm làm chuyện không đáng thì sẽ có pháp luật nhà nước trừng trị.
Nay đoạn giao tờ

Làm tại Huế ngày 11 tháng 9
Năm Bảo Đại thứ 17

(tức là ngày 20, Octobre, 1942)”.

Cũng trong thời gian này, nhờ có sự đề đạt của Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng, ngôi chùa được vua Bảo Đại ban biển ngạch “Sắc tứ Hiếu Quang tự”.

Toàn cảnh chùa Hiếu Quang. (Nguồn: Tác giả)

Hiện nay, chùa Hiếu Quang tọa lạc tại số 63 Phan Bội Châu, phường Trường An, TP. Huế. Chùa trùng tu, tôn tạo nhiều lần nhưng vẫn giữ gìn được dáng vẻ kiến trúc truyền thống. Lần trùng tu đầu tiên vào dịp đúng 30 năm sau ngày chùa được vua Bảo Đại ban biển ngạch sắc tứ, năm 1972. Hòa thượng Thích Thiện Trí điều hành và thầu khoán Vĩnh Trực làm đốc công để trùng tu ngôi chánh điện. Sau này, Hòa thượng Thích Quang Nhuận, đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Thích Thiện Trí đã lần lượt sửa sang, xây dựng thêm một số hạng mục kiến trúc trong chùa như nhà chung, nhà bếp… để phục vụ cho việc tu học, hoằng pháp, lễ bái, tham quan, sinh hoạt của đông đảo Phật tử và du khách.

Như vậy, chùa Hiếu Quang tuy không phải là một ngôi tổ đình có bề dày lịch sử và truyền thừa sâu rộng, nhưng nơi đây cũng đã lưu dấu một số danh nhân tiêu biểu của xứ Huế vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, điển hình là Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng và Hòa thượng Thích Thiện Trí. Đồng thời, ngôi chùa này cũng từng là nơi ngâm thơ, uống trà của Mai Lâm thi đàn do Hòa thượng Thích Thiện Trí làm Giám đàn.

Ngoài cổng chính xây theo kiểu tam quan, với ý niệm về “tam giải thoát môn” [10], chùa còn có một cổng phụ với lối nhỏ đi thẳng vào tăng xá và tịnh trù. Ngay giữa cổng tam quan là trục chính đạo dẫn vào tiền đường và chánh điện chùa. Khuôn viên có trang trí nhiều loại cây kiểng, tạo nên không gian xanh trong lành, thoáng mát cho ngôi chùa.

Qua khỏi sân vườn, bước lên bậc tam cấp là tiền đường kéo dài suốt ba gian được đúc cốt thép có mái ngói. Ở phía dưới mái này là những ô hộc trang trí chữ Hán và bức tranh phong cảnh. Các cột trụ của tiền đường là những câu đối dài được chạm khắc tinh xảo. Sau tiền đường là chánh điện, thường được gọi là Đại Hùng Bảo Điện, đây là phần kiến trúc chính của ngôi chùa. Phần này là một ngôi nhà lớn gồm có ba gian hai chái, kết cấu tòa nhà này mô phỏng theo lối nhà rường truyền thống Huế. Mái chùa có kiến trúc cao, cổ kính với hình ảnh “tứ linh” (long, lân, quy, phụng) uốn lượn đối xứng nhau đầy nghệ thuật.

Nội thất chánh điện chia thành ba gian thờ. Gian giữa là thờ tượng Tam Thế Phật và Phật Di Đà, bên phải thờ Quán Thế Âm Bồ tát và bên trái thờ Thế Chí Bồ tát. Bên trên chính giữa điện có treo bức hoành sơn son thếp vàng đề: “Sắc tứ Hiếu Quang tự 敕賜孝光寺” cùng lạc khoản: “Bảo Đại thập thất niên mạnh thu; Quảng Trị, Hải Văn, Khuôn Giáo hội Phật tử đẳng phụng cúng – 保大十七年孟秋; 廣治海文坤教會佛子等奉供” (mùa thu năm Bảo Đại thứ 17 [1942]; Phật tử Khuôn Giáo hội Hải Văn, tỉnh Quảng Trị phụng cúng).

Xung quanh bức hoành phi, các hoa văn được chạm khắc theo mô típ “lưỡng long triều nhật” truyền thống. Phía dưới gian giữa cũng treo câu đối có nội dung do đức ông Tùng Thiện Vương soạn và được cư sĩ Bửu Bác [11] viết cung tiến cho chùa Hiếu Quang:
我佛慈悲非無情者不度
彼岸安樂即慧業者先登
Phiên âm:
Ngã Phật từ bi phi vô tình giả bất độ;
Bỉ ngạn an lạc tức tuệ nghiệp giả tiên đăng.
Tạm dịch:
Lòng từ bi của Phật không phải là không độ cho loài vô tình;
Phải có trí tuệ mới bước lên được bờ giải thoát.

Bức hoành phi đề “Sắc tứ Hiếu Quang tự”. (Nguồn: Tác giả)

Phía sau chánh điện là tổ đường. Tiếp đến nhà linh có thiết trí một án để thờ phụng Hiệp tá Ưng Bàng và các con cháu hậu duệ quá cố rất trang nghiêm, thành kính. Trong khuôn viên chùa còn có tháp mộ của Hòa thượng Thích Thiện Trí, khai sơn chùa Hiếu Quang. Ngoài ra, chùa Hiếu Quang vẫn đang lưu giữ nhiều cổ vật quý, trong đó có bức hoành phi được tạo tác hình lá sen đề 4 đại tự: “Hương viễn ích thanh 香遠益清” (Làm việc đạo nghĩa thì hương sẽ bay xa). Xung quanh bức hoành trang trí các đóa hoa sen đang nở rất đẹp.

Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng có hai người con gái là Công Tằng Tôn Nữ Kim Cúc [12] và Công Tằng Tôn Nữ Xuân Tứ [13] đều xuất gia tu học, phát tâm hiến dâng cuộc đời cho đạo pháp và dân tộc.

Trong bài viết này, chúng tôi thiết nghĩ cũng cần nhắc đến những đóng góp của Hiệp tá Ưng Bàng đối với văn hóa Huế. Cụ Ưng Bàng là một thành viên tích cực của Hội “Những người bạn Cố đô Huế” (Association des Amis du Vieux Hué). Ngoài việc xuất bản đều đặn tập san “Những người bạn Cố đô Huế” (BAVH), Hội “Những người bạn Cố đô Huế” còn quan tâm tới việc thiết lập một thư viện và một viện bảo tàng nhằm lưu giữ những tư liệu, cổ vật quý mang đậm dấu ấn lịch sử văn hóa, nghệ thuật của triều Nguyễn và Huế xưa. Năm 1923, vua Khải Định (1916-1925) cho phép thành lập tại Kinh đô Huế một bảo tàng. Và Khâm sứ Trung kỳ P. Pasquier cũng ký Nghị định số 1291, thành lập Musée Khải Định (Bảo tàng Khải Định), đặt tại Tân Thơ Viện. Đây là một trong những bảo tàng đầu tiên của Việt Nam dưới thời quân chủ. Từ ngày 22/02/1926, việc điều hành Bảo tàng Khải Định do một nhóm chuyên gia lỗi lạc người Pháp và người Việt, mà trụ cột là Ban Quản trị Bảo tàng, họ là những hội viên Hội “Những người bạn Cố đô Huế” được chọn ra gồm các ông Jabouille (Trưởng ban), Võ Liêm, Rigaux, Ưng Bàng, Levadoux, Hồ Đắc Khải, Sogny, Peyssonnaux (Quản thủ). Cụ Ưng Bàng đã có vai trò và những đóng góp quan trọng cho sự phát triển lớn mạnh của Bảo tàng Khải Định. Ngoài ra, cụ Ưng Bàng còn tham gia điều hành công tác giám sát, xây dựng, trùng tu cung điện, lăng tẩm, chùa chiền như: lăng vua Khải Định, cung An Định, điện Kiến Trung, chùa Thiên Mụ, chùa Thánh Duyên, chùa Diệu Đế…

Bức hoành phi đề “Hương viễn ích thanh”. (Nguồn: Tác giả)

4. THAY LỜI KẾT
Có thể nói, Hiệp tá Đại học sĩ Ưng Bàng là một vị quan đại thần của triều Nguyễn, và cũng là một trí thức uyên thâm Phật học. Chính những hành động đầy nhiệt huyết của cụ Ưng Bàng trong việc tham gia An Nam Phật học Hội, tiến hành xây dựng, trùng tu nhiều chùa chiền ở Cố đô Huế, góp phần quan trọng gìn giữ hồn xưa xứ Huế, đã tạo nguồn động lực và sức mạnh tinh thần cho các vị cư sĩ hiện nay và mai sau tiếp bước dấn thân vào con đường giữ gìn và hoằng dương chánh pháp.

 

TS. Trần Văn Dũng/TCVHPG420

 

Chú thích:
* Tiến sĩ Trần Văn Dũng, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên – Huế.
[1] Phiên âm chữ Hán là Ưng Bàn. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung gia phả, bia mộ và các tư liệu liên quan đều viết Ưng Bàng nên tác giác bài viết này dùng tên gọi “Ưng Bàng”.
[2] Công tử Hồng Phì (1842-1883), tự Sĩ Thắng là con trai thứ 3 của Đức ông Tùng Thiện Vương Miên Thẩm và bà phủ thiếp Nguyễn Văn Thị Thanh. Ông giữ chức Tả Tham tri Bộ Lại dưới triều vua Hiệp Hòa. Năm Khải Định thứ 3 (1918), cụ Hồng Phì được truy phong tước Tùng Thiện Quận công.
[3] Tước Trợ Quốc khanh (hàm Tòng tứ phẩm) dùng để ban phong cho con cháu trong hoàng tộc triều Nguyễn.
[4] Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Châu bản Bảo Đại, tập 44, tờ 11.
[5] Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Châu bản Bảo Đại, tập 44, tờ 23.
[6] Trong đợt trùng tu lăng mộ vào năm 2017, con cháu cụ Ưng Bàng đã dựng thêm một tấm bia khắc chữ Quốc ngữ ở trước phần mộ.
[7] Ông Vĩnh Nhi sinh năm 1949, cháu nội của cụ Ưng Bàng, hiện đang chăm sóc hương khói nhà thờ.
[8] Hòa thượng Thích Thiện Trí (1907-2000), tự Hòa Khương, bút hiệu Dạ Sĩ Thiện Trí, thế danh Nguyễn Diệu. Năm 1919, hòa thượng xuất gia đầu sư với hòa Thượng Thích Phước Hậu, trú trì chùa Linh Quang. Sau này, Hòa thượng Thích Thiên Trí đảm nhiệm trú trì chùa Linh Quang (1938), chùa Hiếu Quang (1940). Ngoài kiến thức Phật học, hòa thượng còn được biết đến là một nhà thơ nổi tiếng trong chốn thiền môn xứ Huế với nhiều sáng tác thơ văn, đối liễn, cùng sinh hoạt thi ca với nhiều văn nhân thi sĩ như Phan Bội Châu, Phan Khôi… qua thi đàn “Mai Lâm thi xã”.
[9] Chùa Linh Quang xây dựng vào năm Đồng Khánh nguyên niên (1886), nằm khá gần chùa Hiếu Quang.
[10] Khi con người thực sự hiểu được ý nghĩa của ba cửa này thì mới có thể thoát được những sân si, oán hận và đau khổ của cuộc đời trần tục để tìm thấy sự bình yên trong cuộc sống.
[11] Nhạc sư Bửu Bác (1898-1984), hiệu Dã Kiều, pháp danh Trừng Bạc, là con trai của Hồng lô tự Khanh Ưng Vũ, cháu nội của Quận công Hồng Phì (thuộc phủ Tùng Thiện Vương). Cụ Bửu Bác vừa am hiểu cổ học, vừa tinh thông tân học, với ngón đàn Tranh, Tỳ, Nguyệt điêu luyện. Ngoài ra, cụ Bửu Bác có nhiều công lao trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, là tác giả bài hát Trầm Hương Đốt (Hải Triều Âm) nổi tiếng.
[12] Bà Tằng Tôn Nữ Kim Cúc (1923-1988), tức Ni trưởng Thích nữ Thể Thanh là con gái của Hiệp tá Ưng Bàng với bà Trương Thị Cúc. Thuở ấu thơ, bà thường được theo song thân đến chùa vào đoàn đồng ấu ở chùa Từ Đàm, do đó bà sớm biết Phật và mộ đạo. Năm 17 tuổi, bà xin song thân đi xuất gia hành đạo tại chùa Diệu Viên với Ni trưởng Hướng Đạo. Năm 21 tuổi, bà vào Ni viện Diệu Đức đầu sư với Ni trưởng Trừng Ninh Diệu Hương. Đến năm 28 tuổi, bà thọ Tỳ kheo ni giới tại giới đàn Hộ Quốc ở chùa Báo Quốc (1949), có pháp danh Tâm Ngọc, pháp tự Thể Thanh. Do tinh nghiêm tu trì giới pháp, từ 1954 bà được mời giảng dạy tại Ni viện Diệu Đức, Diệu Viên (Huế), Diệu Quang (Nha Trang), Phổ Hiền (Cam Ranh). Tác phẩm dịch thuật nổi tiếng của bà là Luật Tứ phần Tỳ kheo ni giới bổn lược ký.
[13] Bà Công Tằng Tôn Nữ Xuân Tứ (1930-2018), tức Ni trưởng Thích Nữ Chí Liên là con gái của Hiệp tá Ưng Bàng với bà Lê Thị Khánh. Ni trưởng Thích Nữ Chí Liên từng làm Viện chủ Tịnh xá Ngọc Hải (Bà Rịa – Vũng Tàu).

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin