Chi tiết tin tức

Tính cách kế thừa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam

16:18:00 - 29/09/2016
(PGNĐ) -  Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập từ Đại hội Thống nhất Phật giáo cả nước vào cuối năm 1981. Đến nay Giáo hội đã hoàn thành cơ cấu tổ chức từ Trung ương đến địa phương thuộc 64 tỉnh thành trong cả nước.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện công cuộc thống nhất Phật giáo cả nước không phải diễn ra một cách đơn giản. Tổ chức Phật giáo đã trải qua biết bao giai đoạn thăng trầm mới tồn tại đến ngày nay. 

Chúng tôi thiết nghĩ Tăng Ni cần hiểu biết tường tận quá trình Phật giáo Việt Nam đã phát triển về mặt tổ chức như thế nào từ thời du nhập cho đến ngày nay. Nhận thức được như vậy để thấy được vị trí hợp pháp của mình trong cộng đồng dân tộc và sẽ thực hiện những việc làm có lợi ích cho bản thân, cho đạo pháp và cho dân tộc.

dh4.jpg
Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo VN tổ chức tại Hà Nội, năm 1981 - Ảnh Tư liệu

Trong giai đoạn sơ khai lập quốc, đạo Phật đã có mặt bên cạnh dân tộc Việt Nam rất sớm, như một người bạn chí thân. Các nhà truyền giáo đến với tinh thần cứu khổ cứu nạn, đã trở thành nơi nương tựa của quần chúng. Các Ngài góp phần giải quyết những tâm tư, thắc mắc và những khó khăn trong đời sống cho mọi người. 

Sự phục vụ của những nhà sư ngộ đạo có tính cách đa dạng, nên được dân chúng thương mến, kính trọng. Từ chỗ gần gũi, tiếp xúc, Phật giáo kết hợp với dân tộc để sản sinh ra Phật giáo Việt Nam đầy sức sống. Qua sử liệu, chúng ta thấy rõ ngay từ giai đoạn đầu, Phật giáo không phải chỉ hạn hẹp trong việc phục vụ tín ngưỡng, mà còn đóng góp thiết thực cho dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. 

Vì vậy, lúc bấy giờ mặc dù đạo Phật chưa tổ chức thành Giáo hội như ngày nay, nhưng đã có sự gắn bó mật thiết về tình cảm và những đóng góp lợi ích cho dân tộc. Phật giáo hiển nhiên khẳng định thực chất tồn tại của mình, thể hiện đầy đủ tính hợp pháp của một tôn giáo trên mảnh đất Việt Nam thân yêu ngay từ thuở ấy. 

Bước qua thời kỳ đất nước độc lập, vua chúa bắt đầu ban hành những luật lệ thành văn quy định các hoạt động trong nước theo khuôn khổ luật pháp. Bấy giờ, vị trí của Tăng lữ và hoạt động của họ cũng được thừa nhận hợp pháp bằng hình thức chiếu chỉ.

Thật vậy, lịch sử đã ghi lại không ít các nhà sư được vua ban chiếu chỉ Tăng cang, Thái sư hay Quốc sư, như Viên Chiếu, Thông Biện, Chân Không, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn  Minh Không, hay Pháp sư Ngô Chân Lưu được phong làm Khuông Việt đại sư. 

Như vậy, tính hợp  pháp của sinh hoạt Phật giáo trong giai đoạn đất nước có luật lệ thành văn được thể hiện rõ nét qua các hoạt động truyền bá chính thức của các nhà sư dưới hình thức Tăng quan vậy. 

Đến thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới sự đô hộ của Pháp, Chính phủ Pháp ban hành nhiều luật lệ, văn bản quy định về tôn giáo, hiệp hội. Nhưng với chính sách chia để trị, Chính quyền Pháp không thừa nhận Phật giáo là một tôn giáo. Vì thế, chúng ta không có quyền hoạt động hợp pháp và không được hưởng quy chế của tôn giáo. Hơn thế nữa, Phật giáo cũng không được nhìn nhận là một hội đoàn, nên không được quyền sinh hoạt theo luật lệ tổ chức hiệp hội. Vì vậy, trong thời Pháp thuộc, cùng với vận mệnh chung của cả nước phải chịu lầm than dưới ách thống trị của thực dân, cộng thêm chính sách kỳ thị, ngược đãi Phật giáo, thì Phật giáo lại càng bị suy đồi. 

Các bậc tôn đức không thể ngồi yên nhìn sinh hoạt Phật giáo tuột dốc và các Ngài nhận thấy duyên lành đã hình thành qua xu thế chấn hưng Phật giáo trên thế giới, cho nên vào khoảng năm 1920, các Ngài đã dấy lên phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam trên cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Ở miền Bắc có sự khởi xướng của Sư cụ Vĩnh Nghiêm, sư cụ Tế Các, Sư cụ Bằng Sở; ở miền Trung có ngài Tâm Tịnh, ngài Huệ Pháp, Ngài Phước Huệ; ở miền Nam có ngài Khánh Hòa, ngài Huệ Quang, ngài Khánh Anh.

Nhưng phải đến năm 1931, các hoạt động riêng lẻ nói trên mới kết hợp thành lực lượng có tổ chức. Trước nhất là Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập tại Sài Gòn do ngài Khánh Hòa làm Hội trưởng cùng với sự tham gia của ngài Huệ Quang, ngài Khánh Anh và một số chư Tăng, cư sĩ. Kế tiếp là Hội Lưỡng Xuyên Phật học ra đời.

Năm 1932, ở miền Trung, ngài Giác Tiên, Phước Huệ và nhóm cư sĩ đứng đầu là đạo hữu Tâm Minh Lê Đình Thám thành lập Hội An Nam Phật học tại chùa Từ Đàm, Huế. 

Năm 1934, ở miền Bắc, Hòa thượng Tố Liên, Hòa thượng Trí Hải, cụ Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim và một số chư Tăng, cư sĩ đã thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ.

Tuy nhiều hội đoàn Phật giáo có thực lực ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam đã được thành lập như vậy, nhưng thực sự cũng chưa có điều kiện thuận tiện để thống nhất, dù ý thức thống nhất đã nhen nhúm từ lâu trong tâm trí của các bậc tôn đức lãnh đạo Phật giáo nước ta.

Phải đợi đến đúng thời điểm, vào ngày 6-5-1951, Đại hội toàn quốc đã được diễn ra tại chùa Từ Đàm, Huế với sự tham dự của gần 51 đại biểu Tăng-già và cư sĩ của 6 tập đoàn ở ba miền (3 tập đoàn Tăng-già và 3 tập đoàn cư sĩ), để thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1952, Giáo hội Tăng-già toàn quốc gồm đại biểu của cả ba miền Nam, Trung, Bắc đã được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.

Năm 1954, Hiệp định Genève chia đôi đất nước chúng ta, vì thế dẫn đến năm 1958, ở miền Bắc, Hòa thượng Trí Độ thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam do ngài làm Hội trưởng.

Năm 1963, tại miền Nam, 11 tập đoàn Phật giáo đã tập hợp thành Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, yêu cầu Chính phủ Ngô Đình Diệm phải nhìn nhận Phật giáo là một tôn giáo. Và Tăng Ni, Phật tử phải được tự do tín ngưỡng, được quyền tổ chức, điều hành sinh hoạt tín ngưỡng theo cơ cấu, hệ thống với luật lệ riêng của Phật giáo. 

Mặc dù trên danh nghĩa Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo có 11 tập đoàn hoạt động, nhưng trên thực tế, phải kể thêm hai tập đoàn không ký tên, vì đã bị Chính phủ Diệm đặt ra ngoài vòng pháp luật. Chính hai tập đoàn này đã đóng vai trò rất quan trọng và tích cực hỗ trợ Phật giáo miền Nam thành công trong phong trào chống lại sự đàn áp của Chính phủ Diệm. Đó là Tập đoàn Phật giáo trong vùng giải phóng miền Nam do Hòa thượng Thiện Hào lãnh đạo và chính ngài đã đi vận động các nước không liên kết trên thế giới ủng hộ phong trào đòi tự do tín ngưỡng của Phật giáo miền Nam. Thứ hai là Hội Phật giáo Thống nhất ở miền Bắc do Hòa thượng Trí Độ lãnh đạo, ngài cũng đã gởi thông điệp, kêu gọi các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ Phật giáo miền Nam chống lại chính phủ kỳ thị Phật giáo. Vì vậy, thực chất của cuộc vận động phong trào Phật giáo miền Nam thành công là có sự đóng góp của hai tập đoàn này. 

Và qua cuộc đấu tranh đánh đổi bằng biết bao xương máu của Tăng Ni, Phật tử, kết quả là Chính phủ Diệm bị lật đổ. Đầu năm 1964, tại chùa Xá Lợi, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã được thành lập.

Chính phủ Nguyễn Khánh đã ký sắc lệnh thừa nhận Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là tổ chức Phật giáo duy nhất hợp pháp. Đây là lần đầu tiên Phật giáo mới có đầy đủ quyền hạn sinh hoạt của tôn giáo theo Hiến chương và Nội quy riêng do chúng ta soạn thảo và được chính phủ cấp đất xây Việt Nam Quốc Tự.

Với vị trí hợp pháp, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với số tín đồ đông đảo, có sự tổ chức tương đối chặt chẽ. Nhờ đó, Giáo hội mở rộng tầm hoạt động, phát triển được nhiều mặt, trong đó có phần đóng góp đáng kể như mở Trường Bồ Đề phổ thông từ cấp tiểu học cho đến đại học, đào tạo Tăng Ni qua các trường Phật học mông đẳng, sơ đẳng, trung đẳng, cao đẳng… 

Tuy nhiên, tầm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bấy giờ cũng chỉ hạn chế trong các vùng đô thị của miền Nam mà thôi. Đến năm 1965, Chính phủ Trần Văn Hương lại ký sắc lệnh thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Việc này nhằm mục tiêu xóa bỏ tư cách đại diện hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tạo điều kiện tách rời sự đoàn kết trong Giáo hội.

Đến năm 1966, trong Đại hội Phật giáo kỳ II ở Việt Nam Quốc Tự, Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đã áp lực Giáo hội sửa đổi Hiến chương và lập thành phần Ban Lãnh đạo mới, thân chính phủ. Các đại biểu không tán thành việc này, đã trở về chùa Ấn Quang để bầu Ban Lãnh đạo khác.

Kể từ đó, Phật giáo Việt Nam rơi vào tình trạng phân hóa trầm trọng nhất, với hai Giáo hội là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Quốc Tự thân chính phủ và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Ấn Quang. Cả hai sinh hoạt riêng biệt theo hai Hiến chương khác nhau. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Ấn Quang dù đã hai lần bị chính phủ xóa tên, nhưng vẫn tồn tại và sinh hoạt mạnh mẽ, được quần chúng ủng hộ.

Qua các diễn biến lịch sử kể trên cho thấy miền Bắc chỉ có một Giáo hội duy nhất hợp pháp hoạt động. Trong khi ở miền Nam, chính quyền luôn chi phối con đường phát triển của Phật giáo bằng cách tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển về bề rộng một cách bừa bãi, xô bồ, cho phép thành lập thêm nhiều Giáo hội. Và điều đó làm cho Phật giáo ngày càng tha hóa, biến chất về chiều sâu, tinh thần trong sáng của Chánh pháp ngày càng phai mờ. 

Thực trạng đó gây ra sự tranh giành ảnh hưởng giữa các tổ chức tập đoàn Phật giáo, đưa đến tình trạng xung đột nghiêm trọng, khiến cho Tăng Ni, Phật tử càng tha thiết mong mỏi Phật giáo được thống nhất.

Sau ngày đất nước được giải phóng, nguyện vọng đó càng trở nên bức thiết hơn và có nhiều cơ duyên thuận lợi thực hiện. Thật vậy, năm 1975, trong bối cảnh lịch sử đất nước Việt Nam nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước đã ra đời. Bên cạnh hoạt động của tổ chức Phật giáo hợp pháp này, trên thực tế, một số các tập đoàn Phật giáo khác đã hình thành từ chế độ trước vẫn tồn tại và tiếp tục sinh hoạt mạnh mẽ, trong đó nổi bật nhất là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Ấn Quang. 

Tuy nhiên, tình trạng này tất yếu không thể kéo dài. Vì sau khi đất nước độc lập, thống nhất, các lực lượng quần chúng nhân dân đều thống nhất về mặt tổ chức. Phật giáo Việt Nam được coi là một tôn giáo luôn luôn gắn liền với dân tộc. Vì thế, Phật giáo không thể duy trì tình trạng phân chia Nam Bắc, không thể để tồn tại sự phân hóa cục bộ trong nhiều tập đoàn, hệ phái. Cần phải tiến đến việc thống nhất thành một tổ chức Phật giáo duy nhất, hợp pháp, đại diện cho Phật giáo Việt Nam. Nhận định sáng suốt này là quan điểm chung của chính quyền cách mạng và của giới lãnh đạo Phật giáo chúng ta.

Từ lập trường ấy, vào mùa xuân 1980, Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập trên nguyên tắc thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, do cố Hòa thượng Trí Thủ làm Chủ tịch. Sau một năm hoạt động, đưa đến kết quả tổ chức thành công Hội nghị đại biểu của 9 tập đoàn Phật giáo vào tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.

Hiến chương Phật giáo Việt Nam đã được Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn, cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, công nhận thành phần Ban Lãnh đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đây, Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức Phật giáo duy nhất  hợp pháp trong nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sinh hoạt trong khuôn khổ Hiến chương Giáo hội. 

Hiến chương, một sản phẩm hình thành bằng trí tuệ tập thể của chư tôn đức lãnh đạo, chiếu theo luật pháp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và được sự biểu quyết đồng ý của tuyệt đại đa số đại biểu. 

Vì vậy, tôn trọng, chấp hành Hiến chương là duy trì Giáo hội và Giáo hội tồn tại là hoạt động Phật giáo tồn tại. Từ đó, những việc làm nằm ngoài luật pháp thế gian và Hiến chương Giáo hội chẳng những không có giá trị mà còn làm mất đi tính chất hòa hợp của Giáo hội và làm cho Phật giáo chúng ta trở nên suy yếu.

Với sự thống nhất Phật giáo hình thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên căn bản pháp lý của một tổ chức tôn giáo, Giáo hội chúng ta mới có đầy đủ điều kiện thuận lợi phát triển hoạt động về mọi mặt. Từ Trung ương đến hạ tầng cơ sở, hoạt động của Giáo hội chúng ta đã đạt được những thành quả nhất định.

Ngoài ra, trong suốt quá trình 35 năm, từ khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam đến ngày nay, chúng ta nhận thấy rõ không có một Giáo hội, hay giáo phái nào khác đứng tách riêng hoạt động đơn lẻ. Vì tất cả tập đoàn Phật giáo ở Việt Nam có cơ cấu tổ chức từ chế độ trước, không phân biệt tông môn hệ phái, sắc tộc, không kể quy mô lớn hay nhỏ, đều đã hoan hỷ tự nguyện kết hợp thành một Giáo hội sinh hoạt hài hòa theo Hiến chương Giáo hội. Điều này càng chứng tỏ chỉ có Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đầy đủ tư cách đại diện Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước.

Tóm lại, tính cách khách quan của lịch sử đã khẳng định con đường phát triển về mặt tổ chức Phật giáo, từ hình thức được mặc nhiên công nhận, tiến đến hình thức tổ chức tập đoàn mang tính xã hội, hoặc mang tính tôn giáo được thừa nhận bằng những luật lệ thành văn. Tất cả đều hướng đến mục tiêu thống nhất Phật giáo Việt Nam. 

Ngày nay, sự hiện hữu duy nhất hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên quy mô cả nước và toàn diện là điều chưa từng có, tiêu biểu cho đỉnh cao về mặt tổ chức của con đường phát triển Phật giáo Việt Nam. 

Với tính cách hợp pháp của Giáo hội trên nguyên tắc thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, Giáo hội chẳng những giữ vững được hoạt động hợp pháp, mà còn nâng cao chất lượng truyền trì Chánh pháp. 

Trong suốt 35 năm qua, các hoạt động có hiệu quả của Giáo hội trong khuôn khổ Hiến pháp, luật pháp Nhà nước gắn bó trong khối đại đoàn kết toàn dân, đã nói lên được truyền thống thể nhập của Phật giáo Việt Nam trong mạch sống dân tộc. 

Từ căn bản hợp pháp này, Tăng Ni, Phật tử chúng ta cần ý thức sâu sắc rằng giờ đây chúng ta còn được an lành tu học chính là nhờ tính cách pháp lý hợp pháp của Giáo hội đã được Nhà nước công nhận qua Hiến chương. Nếu chúng ta thiếu suy nghĩ, đi vào con đường sai lầm nhằm phá vỡ tính cách hợp pháp của Giáo hội, chúng ta sẽ đưa sinh hoạt Phật giáo trở lại tình trạng bất hợp pháp. Đó là con đường nguy hiểm, không lối thoát, không lợi lạc gì cho bản thân nói riêng và đạo pháp nói chung. 

Vì vậy, để cuộc sống tu học của chúng ta được bình ổn và rộng hơn, để công việc truyền bá Chánh pháp được thực hiện tốt đẹp, Tăng Ni, Phật tử phải biết trân trọng điểm son đáng quý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam duy nhất, hợp pháp. 

Chúng ta có bổn phận gìn giữ những thành quả mà Giáo hội đã tạo được và tiếp tục xây dựng Giáo hội thêm lớn mạnh bằng cách nỗ lực học cho thành tài, tu cho thành đức, tự trang nghiêm đạo hạnh của mình đúng như lời Phật dạy. Có như vậy, chúng ta mới không cô phụ công ơn giáo dưỡng của các bậc cha anh và giữ vững mạng mạch Phật giáo Việt Nam trường tồn. 

HT.Thích Trí Quảng

Nguồn: GNO

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin