Chi tiết tin tức Góc nhìn mới về Độc Giác Phật - Tình thương của bậc không lời 15:28:00 - 02/06/2025
(PGNĐ) - Độc Giác Phật, Bích Chi Phật hay Duyên Giác Phật(Paccekabuddha) được biết đến là một bậc Giác ngộthầm lặng nhưng là biểu tượng lớn lao của tự lực.
LỜI NÓI ĐẦU Độc Giác Phật, Bích Chi Phật hay Duyên Giác Phật(Paccekabuddha) được biết đến là một bậc Giác ngộthầm lặng nhưng là biểu tượng lớn lao của tự lực. Quý Ngài là biểu tượng của thầm lặng vì ít hóa độ chúng sanh, không chủ trương khai mở hệ thống chân lý và Tăng Đoàn như đức Thế Tôn Sakyamuni. Và vì đặc tínhtự mình nhận chân ra chân lý, không thầy chỉ dạy như chư Phật Chánh Đẳng Giác (Samasambuddha), quý ngài trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho sự nỗ lực trong hành trình đạt đạo Bồ-đề. Tuy nhiên, đã có rất nhiều quan điểm trái chiều về những vị Phật Độc Giác như ít tình thương đối với chúng sanh, chỉ tu cho riêng mình, thích sống đời ẩn dật…Đó là lý do bài viết này mô tả rõ về sự hiện diện của các ngài cũng như cùng thảo luận về các quan điểm này. Bài viết gồm các phần:
1.Giải thích tên gọi: Danh từ Pali Paccekabuddha gồm hai thành tố: Buddha chỉ có sự giác ngộ hay sự tỉnh thức, và Pacceka nói về sự riêng biệt, một mình. Điều này thể hiện rất đầy đủ trong cách dịch “Độc Giác Phật” - Bậc giác ngộ đơn độc, hay bậc không thầy tự ngộ. Trong khi đó, “Bích” trong danh từ Bích Chi Phật nghĩa là duyên (nhân duyên); cũng có thể hiểu là “vách đá”, “hang động” - biểu tượng cho sự tu hành ẩn cư nơi thanh vắng. Chi trong cụm từ này có nghĩa là quán sát. Do đó Bích Chi Phật [1]thường được hiểu là bậc Giác ngộ nhờ quán chiếu nhân duyên. Như vậy, một lần nữa chúng ta khẳng định lại hai đặc tính phổ biến được biết đến ở đức Phật Độc Giác gồm: không rộng giảng chân lý để phân biệt các ngài với Phật Chánh Đẳng Giác; và tự chứng ngộ không thầy chỉ dạy để phân biệt với các vị Thanh văn(Savakabuddha) Bậc chứng ngộ vì lãnh thọ chân lý từ Phật Chánh Đẳng Giác
2.Các đặc điểm khác của Phật Độc giác: Ngoài hai đặc trưng kể trên, khi nhắc đến đức Phật Độc Giác chúng ta cũng nên có hiểu biết về các đặc điểm sau: Thứ nhất, các ngài chứng nhập Niết-bàn nhờ chứng ngộ lý Duyên sinh. Đó là lý do các ngài còn được gọi là Duyên Giác Phật. Cụ thể hơn, vào thời kỳ thế giới này không còn Giáo pháp của đức Phật Chánh Đẳng giác, các vị Bồ-tát Độc Giác xuất gia, tự mình thực hành pháp hành thiền quán, thành tựu trí tuệ về Bốn Thánh Đế, lý Duyên Khởi… Thứ hai, các ngài chỉ xuất hiện khi giáo pháp của đức Phật Chánh Đẳng Giác hoàn toànbiết mất và không giống như Phật Chánh Đẳng Giác, không có hai vị xuất hiện cùng một lúc, mà có thể có cả trăm vị Độc Giác Phật cùng lúc xuất hiện. Thứ ba, để trở thành Độc Giác Phật theo hệ thống kinh điển Nam truyền, phải thực hành20 pháp Ba-la-mật (Parami), gồm 10 Ba-la-mật bậc hạ và 10 Ba-la-mật bậc trung. Mười Ba-la-mật gồm: Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí Tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật,Quyết định, Tâm Từ và Tâm xả[2]. Và mỗi pháp Ba-la-mật như vậy chia thành bậc hạ, bậc trung, bậc thương. Đó là lý do các tài liệu nói rằng đức Phật Chánh Đẳng Giác phải trải qua tu tập 30 Ba-la-mật trong ít nhất là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp; còn còn Phật Độc Giác phải trải tu tập 20 Ba-la-mật trong ít nhất là 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp (thời gian và công hạnh tu tập này chỉ sau Phật Chánh Đẳng Giác). Ở đây, xin được mô tả rõ hơn về cách tu tập Ba-la-mật [3]trong ba bậc thượng - trung - hạ để thấy ý chí và lòng quyết tâm, yêu thương của các ngài. Một bậc Bồ-tát dù phát nguyện thành Thanh văn, Độc Giác hay Chánh Đẳng Giác Phật thì khi tu tập 10 Ba-la-mật bậc hạ phải hy sinh những gì thuộc vệ bên ngoài thân mình như của cải, tài sản, ngôi báu, thậm chỉ kể cả vợ và con để thành tựu pháp hạnh Ba-la-mật ấy. Đến khi tu tập các Ba-la-mật bậc trung cần phải hy sinh một phần hay nhiều phần bộ phận trên cơ thể để thành tựu các pháp hạnh ấy, chẳng hạn như bố thí mắt, tay, chân….Cao cả hơn là sinh hy mạng sống để thành tựu các Ba-la-mật, nên được gọi là Ba-la-mật bậc thượng.
3.Ba hạng Bồ-tác Độc Giác: Đức Bồ-tát Độc Giác có ba hạng: Đức Bồ-tát có trí tuệ siêu việt, đức Bồ-tát có đức tin siêu việt, đức Bồ-tát có tinh tấn siêu việt. Dưới đây lần lượt là sự mô tả về các Ngài. -“Sau khi đước đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định xong rồi, đức Bồ-tát Độc Giáccó trí tuệ siêu việt cần phải thực hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp hạng Ba-la-mật suốt 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất để trở thành đức Phật Độc Giác.” -“Sau khi đước đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định xong rồi, đức Bồ-tát Độc Giáccó đức tin siêu việt cần phải thực hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp hạng Ba-la-mật suốt 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất để trở thành đức Phật Độc Giác.” -“Sau khi được đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định xong rồi, đức Bồ-tát Độc Giáccó tinh tấn siêu việt cần phải thực hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp hạnh Ba-la-mật suốt 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất để trở thành đức Phật Độc Giác.”
4.Đức Phật Độc Giác có phải chỉ tu có riêng mình? Câu hỏi này có liên hệ đến lời nhận định rằng: “Đức Phật Độc Giác không thuyết pháp độ sanh”. Đây là một vấn đề chúng ta cần nhìn nhận thật rõ. Trong hệ thống Tam tạng kinh điển có ghi lại các câu chuyện thể hiện chư Độc Giác Phật không im lặng hoàn toàn mà cũng hóa độ với người hữu duyên. Trong bộ Apadana thuộc Khuddaka Nikaya (Tiểu Bộ kinh) có nhiều đoạn nói về hành trạng của các vị Độc Giác Phật. Đôi khi các ngài sẽ thuyết giảng ngắn cho chúng sanh có duyên sâu, đặc biệt là với những vị chỉ cần một hay vài nhân duyên nữa sẽ thành tựuđược đạo quả. Chẳng hạn, khi một vị Độc Giác Phật thấy một người cư sĩ đau khổ trước sự chuyển xoay vô thường liền nói: “Cuộc sống như giấc mộng Hãy tỉnh dậy đừng mê Vì chỉ có trí tuệ Mới đưa đến giải thoát” Bài kệ này được ghi lại trong tiểu sử của vị ấy, còn người cư sĩ đó xuất gia tu tập, chứng A-la-hán quả. Dữ kiện thứ hai để chứng minh cho sự giáo hóa của các ngài chính là trong Udana 5.3 [4]Sự việc diễn ra vào thời không còn tồn tại giáo pháp của đức Phật Chánh Đẳng Giác, có nhiều vị Phật Độc Giác cùng xuất hiện, tu tập nơi khu rừng. Một hôm, các ngài đồng loạt tu hội tại cửa động Nandamulaka và cùng đọc bài kệ về sanh diệt mà tạm dịch Việt rằng: “Các pháp hữu vi thật là vô thường, Có sanh, có diệt, Khi sinh rồi thì phải diệt, Diệt tận là an lạc” Qua câu chuyện trên, chúng ta có thể thấy tuy ngài không giảng rộng cho đại chúng như các mô tả về đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng việc các ngài đồng loạt tụng kệ nơi công cộng cũng là một hình thức truyền pháp. Ngoài ra, trong Kinh Phật tự thuyết, Jataka(chuyện tiền thân) và Tiểu Bộ kinh có ghi lại các câu chuyện mà quý ngài là phước điềnđể nhân thiên cúng dường. Đại biểu là câu chuyện một người thợ săn đã dâng trái cây đến một vị Phật Độc Giác, nhờ đó được tái sanh làm vua, và nhiều đời sau lại có duyên lành được gặp Phật Sakyamuni và chứng quả A-la-hán. Trong Tiểu Bộ kinh và phần Itivuttaka, có kể lại câu chuyện khi chư Phật Đôc Giác ngụ tại núi Gandhamadana, chư thiên thường đến cúng dường hoa trời, hương thơm và bát thực thanh tịnh. Các chư thiên sau khi nghe các ngài tụng kệ vô thường ngắn được phát khởi tín tâm và các niệm lành. Như vậy, những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy rằng tuy Ba-la-mật của các ngài không đủ để gánh vác sứ mệnh dùng lời nói khai triển chân lý rộng khắp, tạo dựng Tăng đoànnhư chư Phật Chánh Đẳng Giác nhưng các ngài vẫn truyền pháp đúng thời điểm, đúng đối tượng và là nơi để nhân thiên duyên các phước lành để giác ngộ hiện đời hoặc là nhân giác ngộ các đời sau.
5.Nghi vấn đức Phật Độc Giác sống không có tình thương? Những kết luận, dẫn chứng và phân tích từ mục 4 chính là lý do đầu tiên để chúng ta chư Phật Chánh Đẳng Giác đã dương lá cờ tình thương đầu tiên đến nhân thiên Điều thứ hai để chúng ta thấy tình thương đó chính là nơi trao dồi 20 pháp hạnh Ba-la-mật của quý ngài trong suốt thời gian dài vô tận, chỉ xếp sau Phật Chánh Đẳng Giác, thậm chí là bằng với các vị thượng thủ Thanh Văn. Các Ba-la-mật như Bố thí, Nhẫn nại, Tâm từ, Tâm xả…là minh chứng cho tình thương lớn lao đó. Rõ ràng rằng, chỉ khi ấp ủ một tình thương và một chí nguyện thật lớn lao, cho dù không phải lớn lao nhất, nhưng nó đã đủ sức để thực hành và tích lũy trong hai A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Điều thứ ba, lối sống an tĩnh chốn rừng sâu, giữ giới…của các ngài là cảm hứng, là thân giáo ảnh hướng đển con người, môi trường xung quanh về một lối sống từ bi đầy ngưỡng mộ trong mắt những người quy hướng điều thiện lành. Đó là một khía cạnh sâu kín, ít được nhắc đến trên phương diện tình thương. Theo chú giải của Tiểu Bộ kinh có một câu chuyện hết sức cảm động về vị Phật Độc Giáccuối cùng trước khi đức Phật Sakyamuni giáng thế. Theo một số bản dịch chú giải, tên của ngài là Tagarasikhi. Khi quán xét biết sắp có một vị Phật Chánh Đẳng Giác thị hiện thế gian, ngài đã tự nguyện nhập Niết-bàn một cách lặng lẽ, như dọn đường thiêng liêng cho đức Phật Gotama. Vì Ngài biết rằng, nếu ngài còn hiện hữu sẽ khiến chúng sanh không khởi tâm cầu học pháp mới vì họ nghĩ: “Thế gian đã có một bậc giác ngộ rồi.”[5] Nếu phải tóm tắt gì về tình thương của các bậc Độc Giác Phật chúng ta thật sự không thể dùng tất cứ ngôn từ mỹ lệ nào nơi thể gian để diễn tả, chỉ có thể cảm nhận bằng sự biết ơn vô tận.
6.Vì sao các ngài chọn con đường trở thành Độc Giác Phật: Như đã mô tả ở phần 3, quá trình tu tập để trở thành một vị Phật Độc Giác thông qua tu tập 20 pháp hành Ba-la-mật xảy ra sau khi các Bồ-tát Độc Giác được vị Chánh Đẳng GiácPhật thọ ký. Nghĩa là đây là lời phát nguyện, là tâm lý, là hướng tâm tu tập của các ngài. Những tư tưởng như vì quý Ngài mắc một nghiệp gì đó nên thành Độc Giác Phật hoàn toàn là không có căn cứ. Bởi lẽ đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn là một vị Bồ tát hànhBồ-tát đạo đã từng phạm ác nghiệp với một vị Phật Độc Giác (Jataka 509) nhưng ngài đã năn ăn, sám hối và trở thành đức Phật Chánh Đẳng Giác cao quý. Để nói rõ hơn về hướng tâm hay tâm lý trên con đường đến đích giác ngộ của các ngài, chúng ta có thể mượn hình ảnh sau: để qua từ bên này đến bên kia sông, có một người biết bơi tự sức nhảy xuống sông để bơi qua sông, cũng có một người vì muốn cùng qua sông với những người khác nên tạo một con thuyền lớn để cùng nhau qua, và những người không biết bơi khác, cũng không biết cách tạo một con thuyền đã qua cùng người ấy. Người muốn bơi qua con sông là các vị Độc Giác Phật, những người tạo con thuyền lớn là chư Phật Chánh Đẳng Giác. Còn người được nương con thuyền qua sông là bậc A-la-hán. Tự bơi qua sông đôi lúc lại là sự ưu thích của một người có khuynh hướng tự lực chứ không phải bị ai hất hủi. Thêm một ví dụ nữa, chúng ta có thể thấy một trái bưởi thật hấp hẫn, nhưng một người nào đó lại không thích, thay vào đó lại thích quả cam. Đối với họ, tuy quả bưởi có kích thướt lớn hơn và được nhiều người mời gọi nhưng họ lại ưu tiêu thưởng thức một quả cam, cảm giác làm họ thấy ngon miệng hơn. Nếu xét tính khoa học, tâm lý học hiện đại đã có rất nhiều sách, bài viết nghiên cứu về hay xu hướng tâm lý chính của con người: hướng nội và hướng ngoại[6]. Và đương nhiên, chúng ta không thể bắt một người hướng nội thích yên tĩnh, có nhiều năng lượng khi ở một mình tham gia thật nhiều hoạt động xã hội, giao tiếp. Ngược lại, chúng ta cũng không thể ép một người đang tràn đầy nhiệt huyết nơi ồn náo, có xu hướng tiếp xúc đám đông bỗng nhiên phải sống đơn độc nơi rừng núi. Họ sẽ rất khó chịu, thậm chí còn tác động rất lớn đến tâm trí, tâm hồn và sự thành công của họ. Albert Einstein- một nhà vật lý học trầm lặng nhưng đã đóng góp rất lớn lao cho nền vật lý học, thuyết tương đối là một trong số đó. Đức Phật Toàn Giác là bậc viên mãn các công hạnh nên thật khó cho chúng ta để nói về hướng tâm của các ngài. Cùng với đó, không có nhiều tài liệu nói về điều này ở các đức Phật Duyên Giác. Tuy nhiên, chúng ta có thể lấy dữ liệu từ các bậc A-la-hán trong Tam tạng kinh điển để làm rõ hơn nữa vấn đề này. Cụ thể chính là sự phân loại các vị A-la-hán [7]và hướng tâm tu tập, tích lũy công đức của các ngài. Trong Tăng Chi Bộ kinh, chương Một Pháp, phẩm Người Tối Thắng và chú giải có ghi lại các mẫu chuyện về tiền kiếp của các vị Đại đệ tử A-la-hán vì trong quá khứ gặp được một bậc A-la-hán Đại đệ tửcủa vị Phật thời quá khứ nên phát tâm tôn kính, nguyện sẽ thành tựu như vị ấy trong tương lai và được đức Phật đó thọ ký. Và sự thọ ký đó được coi là dấu mốc cho con trao dồi Bồ tát đạo nói chung và sở trường để trở thành vị A-la-hán như họ đã ước nguyện nói riêng. Chẳng hạn như Đại trưởng lão Anurudha, đệ nhất thiên nhãn. Vào thời đức PhậtPadumuttara (Thắng Liên Hoa), ngài là một gia chủ sau khi nghe đức Phật tán dương vị Tỳ-kheo có thiên nhãn đệ nhất mà sanh tâm hoan hỷ, cúng dường cho đức Phật và Thánh chúng, và phát nguyện thành tựu công hạnh như vị ấy trong tương lai. Sau khi được đức Phật thọ ký, ngài đã tu tập rất nhiều Ba-la-mật liên quan để đạt thành tựu Thiên nhãn tối thắng như: Xây dựng bảo tháp cho đức Phật Padumattara sau khi đức Phật Niết-bàn, trồng hàng ngàn cây xanh và gắn hàng ngàn ngọn đuốc để thắp sáng bảo tháp đó; khi đức Phật Sumedha (Thiện Tuệ) xuất hiện, ngài đã dâng những ngọn đèn để chiếu sáng chỗ ngồi mà đức Phật nhập định suốt bảy ngày; vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp) ngài lại thực hiện phước thiện cúng dường ánh sáng bằng cách đặt nhiều chén bơ xung quanhbảo tháp của đức Phật để làm đèn, còn ngài thì tự đội trên đầu một chén rồi đi kinh hànhquanh đó suốt đêm. Chính lời phát nguyện của các ngài là tiền đề tạo nhân duyên làm các thiện nghiệp tương ứng, hình thành nên năng lực đó trong tương lai. Song, cũng chính hướng tâm về năng lực đó mới thúc đẩy các ngài lập nguyện như vậy. Như vậy, một lần nữa chúng ta có thể liên hệ đến các bậc Độc Giác Phật. Chính hướng tâm tu tập pháp Độc giác để đưa đẩy các ngài lập nguyện, tu các Ba-la-mật tương ứng để tương lai trở thành Bậc không thầy tự ngộ, cũng không rộng độ chúng sanh như thế. Qua những phân tích trên, chúng ta hẳn đã có một cái nhìn gợi mở hơn về con đườngchứng đạo của các ngài. Lời phát nguyện các ngài nuôi dưỡng được thành tựu từ nhân là “sự ưu tiên trong xu hướng tu tập” tích góp từ nhiều kiếp.
7.Khía cạnh lịch sử và tư tưởng: Chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng, dù là truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền đương đại thì hình tượng về một vị Phật Chánh Đẳng Giác đều được đề cao và lý điểm tựa để các hành giả Phật giáo hướng đến. Tuy nhiên, khi nhắc đến Bồ-tát đạo, con đường trở thành vị Thanh văn A-la-hán hay Độc Giác Phật thì mỗi truyền thống lại có những quan điểm khác nhau. Đặc biệt đối với Bắc truyền (tương ứng với Phật giáo Đại thừa) lại có nhiều kinh luật bày tỏ quan điểm có hơi hướng phê phán về con đường trở thành Bậc Độc giác. Phẩm Thí dụtrong kinh Pháp Hoa nên rằng: Bích Chi Phật được ví như chiếc xe hạng trung, còn Bồ-tát đạo là cỗ xe lớn. Tương tự vậy, trong Đại trí độ luận cũng phân tích rằng: người phát nguyện thành Bích Chi Phật do chưa đủ đại nguyện, chưa đủ từ bi để phát tâm thành Phậtvì tất cả chúng sanh. Và do vậy, nguyện lực này bị xem là thấp hơn Bồ-tát đạo, thậm chí là phát tâm thành Phật Độc Giác được liệt vào loại “hạ căn” so với Bồ-tát đạo. Với tất cả những điều chúng ta đã phân tích ở các mục trên, đương nhiên không thể phủ nhận con đường thực hành hạnh Bồ-tát của chư Phật Chánh Đẳng Giác là gian khó hơn cả, nó thể cho một đại bi tâm tột cùng mà chư vi Thanh Văn hay Độc Giác Phật không thể có. Tuy nhiên, cũng như những điều đã cùng thảo luận, con đường Độc Giác Phật cũng đầy hạnh nguyện và từ bi. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao truyền thống Phật giáo Đại thừalại nhấn mạnh hạnh Bồ-tát mà phê phán hạnh của Độc Giác Phật, nghĩa là chú trọng “lợi tha” hơn “tự lợi”. Đến đây chúng ta cần nhìn nhận về phương diện lịch sử để hiểu rõ về những tư tưởngtưởng như trái chiều nhưng vốn đồng nhất này.Trong chiều dài hơn 2500 lịch sử Phật giáodưới sự thành lập Tăng Đoàn của đức Phật Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni), dưới thời kỳsơ khai (nguyên thủy), nghĩa là từ trước cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai trở về trước (khoảng 100), đức Phật lịch sử của chúng ta không chia các tông phái, bộ phái, hệ tư tưởng…như hiện tại. Và thông qua các bản kinh, chúng ta đều thấy ngài nêu bậc giáo lýTứ Thánh Đế, Duyên Khởi, 37 phẩm trợ đạo…là những pháp dẫn đến giác ngộ của các Bậc Thanh Văn lẫn Độc Giác Phật. Chẳng hạn, trong bài kinh Chuyển Pháp Luân đức Phật tuyên bố: Đây là khổ- Thánh đếthứ nhất, đây là nguyên nhân của khổ - Thánh đế thứ hai, đây là sự đoạn tận khổ - Thánh đế thứ ba, đây là con đường đưa đến sự đoạn tận khổ - Thánh đế thứ tư. Hay tuyên bốnổi tiếng của đức Phật trong bài kinh Vakkali: “Ai thấy duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai.” Như vậy, xuyên suột 49 năm thuyết pháp theo Bắc truyền (hay 45 năm theo Nam truyền), đức Phật không có sự phân biệt giữa các con đường đạt giác ngộ mà chỉ tận tâm hướng dẫn các hành giả đạt được Giải thoát, An lạc lớn. Kinh Phật tự thuyết, phẩm các vị Phật Độc Giác chép lại lời dạy của vị cha lành Gotama rằng: “Này các Tỳ-kheo,có những vị Phật Độc Giác, tự mình chứng ngộ, không thầy dạy, không nghe từ ai khác mà đạt đượcGiác Ngộ, như vậy họ là những người vĩ đại, không thể nghĩ bàn.” Tuy nhiên, diễn biến tiếp theo của lịch sử Phật giáo là thời kỳ phân chia bộ phái. Chính thời kỳ này khi đi đến đỉnh điểm đã tạo ra các hệ quả như sau: hoặc là các Sa-môn Thích tử sa vào triết học, tranh luận; hoặc là ở ẩn rừng tu hành không tiếp dẫn người học đạo, cũng không truyền bá Chánh Pháp. Trước tình thế Phật giáo thời cuộc đã suy tàn do không được quần chúng ủng hộ, một số nhà vua thực hành chính sách đàn áp, đạo Bà-la-môn lại trên đà phục hưng cùng với sự phát triển của các tôn giáo khác…nay Phật giáo sẽ càng lâm thế “ngàn cân treo sợi tóc” nếu tăng sĩ ở ẩn, tu tập cho riêng mình, trốn trách việc độ sanh. Và đó chính là lý do ngay lúc này, khoảng trước thế kỷ I TCN đến thế kỷ II SCN, phong trào Phật giáo Đại thừa nói chung, và tư tưởng Bồ-tát đạo nói riêng phát triển mạnh. Các kinh điển và luật Đại thưà nổi tiếng, bao gồm cả kinh Pháp Hoa và Đại trí độ luận cũng ra đời trong khoảng thời này. Như vậy, chúng ta những người học Phật ở thể kỷ mới, thời kỳ hội nhập các tư tưởng, có cơ hội nhìn lại chiều dài lịch sử hơn 25 thế kỷ cần nắm bắt thật rõ rằng: ba con đường đi đến Giác ngộ này vốn không có sự thiên vị từ đức Phật, mà sự đề cao một tư tưởng nào đó vốn là do yếu tố thời đại. Con đường thực hành Ba-la-mật để qua sông vốn đã rất khó, dù là con đường nào cũng phải thực hành trong vô vàn kiếp. Còn con người đến được bên kia sông đã là một vị dũng sĩ đáng được tuyên dương.
8. Nhiệm vụ của các vị Độc Giác Phật trong thời kỳ không có đức PhậtChánh Đẳng Giác: Như chúng ta đã thảo luận phần trên, đức Phật Độc Giác tuy không rộng tuyên chánh pháp như lại là phước điền và nguồn pháp sống trong thời kỳ giữa hai vị Phật Chánh Đẳng Giác. Những câu chuyện tiền thân đã nêu chính là bằng chứng để nói lên rằng bất cứ ai từng gieo phước lành nơi các ngài đều dẫn đến nhân duyên giác ngộ hay gặp được Phật Chánh Đẳng Giác. Một trong những câu chuyện rất nổi tiếng khác là về bà Khujuttara - Đệ nhất thuyết phápcư sĩ nữ, tỳ nữ của hoàng hậu Samavati thời đức Phật Sakya. Tuy bà thông tuệ như vậy như lại mang thân phận tỳ nữ và bị gù lưng. Đã là những nghiệp quả bà đã chịu đến 500 kiếp do từng bắt chướt dáng khom lưng gù của một vị Phật Độc Giác. Song , nhờ sám hốivà thành tâm nên bà trở thành nữ cư sĩ có trí tuệ và thuyết pháp kiệt xuất như vậy. [8] Ngoài nhiệm vụ là phước điền, các ngài còn là ngọn đèn tuệ soi sáng nhân loại, tiếp nốimạng mạch chánh Pháp, để dòng pháp tuôn chảy liên tục. Hơn nữa, nhắc đến đức PhậtĐộc Giác chính là nhắc đến hình ảnh tự lực chứng ngộ. Đây là nguồn cảm hứng lớn lao rằng tất cả nhân sinh bằng sự quyết tâm và nỗ lực của mình, dù trong thời đại không còn thấy giáo pháp như vẫn trở thành bậc giác ngộ. Mà sự giác ngộ vắng lặng, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm lo toan nào gợi lên cảm hứng sống đời an nhiên, tự tại cho nhân thiên.
KẾT LUẬN Lời đức Thế Tôn dạy đến nay vẫn còn vang vọng xuyên qua từng trang kinh: “Có hai bậc giác ngộ, này các Tỳ-kheo. Thế nào là hai? Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, và Độc Giác Phật. Những vị này, này các Tỳ-kheo, là hai bậc giác ngộ.”[9]Nếu chư Phật Chánh Đẳng Giác là những bậc dũng sĩ tiên phong dẹp loạn ma quân phiền não, dương lá cờ chánh pháp để chúng sanh nối gót theo; thì các vị Phật Độc Giác là hậu phương của các dũng sĩ đó, là người ngồi lại giữ lá cờ đó đôi khi tính đến ngàn trăm ngàn năm để giữ niềm tin cho những người đang tham gia vào trận chiến đoạn phiền não đó. Sự hiện diệncủa các ngài là một phước lành cho chúng sanh gieo và tưới tấm hạt giống Bồ-đề, thắp lên niềm tin về chánh pháp. Các ngài còn là tấm gương anh dũng tự lưc vươn lên không người chỉ dạy. Chúng con xin cuối đầu trước tình thương yêu của quý Ngài cho nhân loại, trước sự tu tậpviên mãn 20 Ba-la-mật, trước trí tuệ siêu việt và đức hạnh ẩn cư tĩnh mịch rời bỏ mọi tham sân si từ quý ngài.
CÁC NGUỒN THAM KHẢO: 1. Khuddaka Nikāya – Apadāna: Các truyện ngắn mô tả hạnh nguyện và đời sống của các vị Phật Độc Giác. 2. Saṃyutta Nikāya 12.1–20 (Paṭiccasamuppāda-saṃyutta) 3. Saṃyutta Nikāya 56.11 – Dhammacakkappavattana Sutta: Kinh Chuyển Pháp Luân – Bài pháp đầu tiên của Đức Phật, giảng về Tứ Thánh Đế. 4. Udāna 5.3 – Phẩm các vị Phật Độc Giác: Ghi lại sự hiện diện và lời tụng kệ của nhiều vị Độc Giác Phật trong thời không có Phật Chánh Giác. 5. Jātaka – Chuyện Tiền Thân Đức Phật: Đặc biệt các truyện Jataka số 509, 423 mô tảhành động thiện – ác liên hệ đến các vị Độc Giác Phật. 6. Itivuttaka – Tập kinh “Như vậy tôi nghe” 7. Mahānidāna Sutta – Dīgha Nikāya 15: Kinh Đại Duyên, trình bày hệ thống 12 nhân duyên theo chiều thuận và nghịch. 8. Buddhavaṃsa – Phật Sử (thuộc Tiểu Bộ Kinh): Ghi lại danh hiệu, công hạnh và lời thọ ký của các vị Phật trong quá khứ, có nhắc đến Phật Độc Giác như Tagarasikhi. 9. Tỳ-kheo Hộ Pháp, Nền tảng Phật giáo, NXB Tôn giáo: Sách giới thiệu hệ thống tư tưởng Phật giáo nguyên thủy, dễ tiếp cận cho độc giả hiện đại. 10. Chú giải truyền thống Theravāda (Commentarial literature): Gồm các bản luận như Aṭṭhasālinī, Visuddhimagga có đề cập đến Ba-la-mật và các hạng Bồ-tát.
THÔNG TIN TÁC GIẢ Họ và tên: Lê Ngọc Tú Bút danh: Lá Thu Nhỏ
[1] Các danh từ như Bích Chi Phật hay Độc Giác Phật là tên gọi theo truyền thống Bắc truyền [2] Trong truyền thống Bắc truyền có sự phân biệt mạnh mẽ hơn giữa các bậc Giác ngộ: Đức Phật Chánh Đẳng Giác được xem là thành tựu Ba-la-mật, gồm sáu Ba-la-mật căn bản (Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Trí tuệ) và bốn bổ sung (Phương tiện, nguyện, lực, trí) qua hành trình Bồ-tát đạo kéo dài ba A-tăng - kỳ kiếp, lấy lợi tha làm mục đích tối thượng Bích Chi Phật được cho là có tu tập Ba-la-mật nhưng không phát đại nguyện cứu độchúng sanh, nên không thành tựu viên mãn trí-bi-lực như bậc Chánh Đẳng Giác A-la-hán thường bị phê phán là “chỉ cầu giải thoát bản thân”, không hành Bồ-tát-đạo , không đầy đủ Ba-la-mật. Nên xét theo giáo lý Đại thừa còn ở mức độ “quyền tiểu thừa”, cần tiếp tục tu học để hướng đến Phật quả. Như vậy, tuy cả hai truyền thống đều thừa nhận công hạnh tu tập của các bậc giác ngộnhưng Nam truyền xem ba con đường ấy mà ba mục tiêu rốt ráo. Trong khi Bắc truyền đề cao con đường thành Phật Chánh Đẳng Giác là cứu cánh duy nhất, các quả vị khác chỉ là phương tiện hoặc chưa viên mãn. [3] Ba-la-mật (Sanskrit: pāramitā, Pāli: pāramī) nghĩa đen là “đưa sang bờ bên kia”, hàm ý vượt qua bờ mê để đến bờ giác. Trong ngữ cảnh Phật giáo, Ba-la-mật là những pháp tu thù thắng được hành trì liên tục trong nhiều đời nhiều kiếp, nhằm viên mãn đạo Bồ-đề. Tùy theo truyền thống, số lượng và định nghĩa các Ba-la-mật có thể khác nhau: Theo Nam truyền (Theravāda): liệt kê 10 Ba-la-mật, gồm: Bố thí (dāna), Trì giới (sīla), Xuất ly (có tài liệu dịch là Xuất gia, ekkhamma), Trí tuệ (paññā), Tinh tấn (viriya), Nhẫn nhục (khanti), Chân thật (sacca), Quyết định (adhiṭṭhāna), Tâm từ (mettā), và Tâm xả (upekkhā). Mỗi pháp lại chia thành ba bậc: hạ, trung, thượng, tùy theo mức độ hy sinh và phát tâm. Bắc truyền (Đại thừa): nhấn mạnh 6 Ba-la-mật (Lục độ) gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; và sau đó bổ sung thành 10 Ba-la-mật, thêm: Phương tiện thiện xảo (upāya), Nguyện (praṇidhāna), Lực (bala), và Trí (jñāna). Mục tiêu là đạt Phật quả vì lợi ích của vô lượng chúng sinh.
[4] Kinh Phật tự thuyết, chương 5, phẩm 3: các vị Phật Độc Giác [5] Trước khi nhập Niết-bàn, ngài đã thốt lên bài kệ: Sân hận và si mê, Chặt đứt và cắt đoạn, Các kiết sử lớn nhỏ Không có gì sợ hãi, Khi mạng sống gần chung, Hãy sống riêng một mình Như Tê Ngưu một sừng [6] Khái niệm “hướng nội” (introversion) và “hướng ngoại” (extraversion) là hai đặc điểm cốt lỗi trong thuyết loại hình tính cách của Carl Gustav Jung (1875-1961), sau này được phát triển trong các mô hình tâm lý hiện đại như MBTI (Myers- Briggs Type Indicator) và Big Five Personality Traits. Người hướng nội thường thiên về suy tư, nội quan, thích không gian tĩnh lặng, ít bị kích thích bởi ngoại cảnh. Trong khi đó người hướng ngoại có xu hướng hướng đến giao tiếp xã hội, hành động và kích thích từ môi trường bên ngoài. Ở ví dụ này, tôi không cố tình ám chỉ rằng đức Phật Độc Giác có xu hướng hướng nội, còn chư Phật Chánh Đẳng Giác có xu hướng hướng ngoại. Ví dụ này được nên ra để nhằm minh họa rằng, thành công trên con đường thế gian hay xuất thế gian đều căn cứ trên hướng tâm hay tâm lý của vị đó. Yếu tố này chiếm một phần rất lớn đến sự thành công của họ. [7] Dưới đây là sự phân loại các vị A-la-hán theo bốn nhóm theo khả năng chứng đạt phổ biến: 1.Tevijjā: Những vị đạt được ba minh, được gọi là Tam minh A-la-hán 2. Chaḷabhiññā: Những vị đạt được sáu thần thông, còn được gọi là Lục thông A-la-hán 3. Paṭisambhidappatto: những vị đắc được Tứ tuệ Phân tích, còn gọi là Đắc tuệ phân tích A-la-hán (Tứ tuệ phân tích hiểu đơn giản là khả năng diễn giả, phân tích, tổng hợp, thuyết giảng Phật pháp) 4. Sukkhavipassako: là những bậc lậu tận, sạch khô phiền não, ngoài ra không có bất kỳ năng lực đắc biệt như ba hạng A-la-hán kể trên, các ngài được gọi là Thuần quán A-la-hán. Ngoài cách phân loại trên, còn nhiều cách khác (Đọc thêm các tài liệu về các hạng A-la-hán) Vốn dĩ sự thành tựu của các ngài có sự khác nhau là do hướng tâm tu tập và các Ba-la-mật (pāramī). Nếu đứng ở góc độ do hướng tâm tu tập của vị đó thì như chú thích trong Trung Bộ kinh, bài kinh 64 theo bản dịch của hòa thượng Thích Minh Châu: “ Khi đang tu thiềnchỉ mà Tỳ-kheo đạt nhất tâm trước thì vị đó đạt tâm giải thoát. Nếu Tỷ-kheo đạt tuệ (tu thiền quán ) trước thì vị ấy thành tựu tuệ giải thoát.” [8] Xem Apadana [9] Tăng Chi Bộ kinh, Chương Hai pháp, Phẩm người (AN 2.52 - 63)
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |