Chi tiết tin tức Phương pháp tu tập thiền định 21:59:00 - 26/03/2021
(PGNĐ) - Tôi nghe như vầy: Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, ở rừng cây Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có bảy xứ thiện, với ba cách quán nghĩa”, thảy đều ở trong pháp này mà lậu hoặc được đoạn tận, do lậu hoặc được đoạn tận mà tâm được giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời tự mình biết rõ, tự thân chứng ngộ đầy đủ và an trụ: "Sự sanh của Ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa". Kinh ghi - Tôi nghe như vầy: Một thời Phật trú rừng cây Kỳ-đà Nước Xá-vệ, Cấp Cô Độc gia Thế Tôn huấn dạy Ma-ha diệu kỳ Có bảy xứ thiên lưu ly Ba cách quán nghĩa thoát si nhiều đời Pháp này lậu hoặc thảnh thơi Pháp này đoạn tận kiếp người khổ đau Tâm - tuệ giải thoát trần lao Ngay đời chứng ngộ làu làu tự thân An trụ đầy đủ đạo phần Sự sanh đã dứt, pháp thân vững vàng Báo thân đạo lực kim cang Tròn xong hạnh nguyện an nhàn thong dong Không còn tái sanh long đong Đời sau tự tại thoát vòng tử sanh. A. BẢY XỨ THIỆN “Tỳ-kheo, thế nào là bảy xứ thiện? Tỳ-kheo biết như thật về sắc; biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự tận diệt của sắc, về con đường đưa đến sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Cũng vậy, biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự tận diệt của thức, về con đường đưa đến sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức”. I. Bảy pháp Thiền quán về “sắc” 1. “Thế nào là biết như thật về sắc?” Những gì có sắc, tất cả bốn đại và sắc do bốn đại tạo. Đó gọi là sắc. Như vậy là biết như thật về sắc. Sa-môn công đức thiền hành Quán biết như thật sắc thanh ở đời Những gì sắc tướng xinh tươi Tất cả bốn đại chuyển dời lại qua Đất nước lửa gió hằng sa Tướng hình xương, thịt, gân, da… ấy là Quán như thật mỗi sát-na Sắc sắc hiện rõ như là sương mai. 2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của sắc?” Ái hỷ là sự tập khởi của sắc. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của sắc. Sự thật về sắc thứ hai Quán chiếu tập khởi hình hài ra sao! Ái hỷ… tập khởi muôn màu Ái hỷ sinh nghiệp lối vào trầm luân. 3. “Thế nào là biết như thật về sự đoạn tận của sắc?” Ái hỷ diệt. Đó gọi là sự diệt tận của sắc. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của sắc. Thứ ba đoạn tận sắc thân Ái hỷ diệt… tức đoạn phần khổ đau Chấp ái hỷ… khổ lao đao Ái hỷ diệt… sắc trần lao sạch phiền. 4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của sắc?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến, Chánh trí, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh phương tiện, Chánh niệm, Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự tận diệt của sắc. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của sắc. Con đường thế sự đảo điên Do sắc tập khởi làm duyên buộc ràng Muốn hết khổ phải biết rằng Con đường đưa đến diệt phăng khổ buồn Tám thánh đạo sáng như gương Chánh kiến, chánh trí, ngữ… hương hoa thiền Chánh nghiệp, chánh mạng… nối duyên Chánh tinh tấn, niệm, định… kiền nhất như Con đường tận diệt sắc thù Phải là Bát chánh thiên thu đạo hiền. 5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của sắc?” Hỷ lạc do duyên vào sắc mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của sắc. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của sắc. Biết như thật - sắc là tiên Vị ngọt của sắc… đảo điên lòng người Hỷ lạc duyên sắc xinh tươi Vị ngọt rung động tâm người phàm phu Hỷ lạc mê hoặc cương nhu Vị ngọt lôi cuốn trượng phu mềm lòng Hỷ lạc trăm nẻo đục trong Vị ngọt trói buộc lâm vòng oan ương. 6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của sắc?” Sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của sắc. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của sắc. Một ngày sắc hiện tai ương Một ngày sắc hiện vô thường khổ sầu Một ngày vị ngọt đổi màu Trái đắng khổ lụy buộc vào oan khiên Một ngày vị ngọt hết duyên Tổn hại cùng cực đảo điên trược phiền. 7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly sắc?” Đối với sắc mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly sắc. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly sắc. Thứ bảy xuất ly sắc triền Biết rõ như thật oan khiên tướng hình Sắc là giả ảo lung linh Quán xét chân tướng tự mình ngộ ra Điều phục dục tham huyễn tà Đoạn trừ tham dục, vượt qua ma tình Nhận ra chân tánh chính mình Buông lìa ảo giác vô minh nhiều đời Xuất ly sắc, lòng thảnh thơi Đến đi tự tại… hạnh người chân tu. II. Bảy pháp Thiền quán về “thọ” 1. “Thế nào là biết như thật về sự hiện hữu của thọ?” Có sáu loại thọ: mắt tiếp xúc sanh ra thọ và tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi tiếp xúc sanh ra thọ, đó gọi là sự hiện hữu của thọ. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của thọ. Thân người huyễn giả phàm phu Có sáu cảm thọ luân lưu nghiệp trần Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân Sắc, thinh, hương, vị… đối trần ghét thương Thọ vui, thọ khổ… vấn vương Đó là thọ khổ trăm đường trầm luân Cảm thọ hiện hữu nơi thân Ra vào chi phối vạn phần buồn vui. 2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thọ?” Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của thọ. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của thọ. Tập khởi của thân ngọt bùi Chính là cảm xúc tới lui nơi mình Lắng lòng huyễn ảo hư tình Từng bước tích tụ… nảy sinh trong lòng. 3. “Thế nào là biết như thật về sự đoạn tận của thọ?” Khi xúc diệt, thì đó là sự diệt tận của thọ. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của thọ. Đến khi cảm xúc sạch trong Xúc diệt đoạn tận thong dong tự mình Tự mình lìa bỏ vô minh Tự mình thoát kiếp tử sinh luân hồi. 4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của thọ?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến... cho đến Chánh định, đó gọi là con đường đưa đến sự tận diệt của thọ. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của thọ. Con đường diệt tận khổ người Bát Thánh đạo giúp thoát đời khổ đau Chánh kiến, tư duy… nhiệm mầu Tu tập dứt nghiệp thoát sầu trần nhơ. 5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của thọ?” Hỷ lạc do duyên thọ mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thọ. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của thọ. Như thật vị ngọt thọ… hờ Hỷ lạc mê đắm như thơ ru hồn Duyên thọ vị ngọt bồn chồn Không còn phân biệt thiệt hơn pháp trần. 6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của thọ?” Thọ là vô thường, khổ, là biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của thọ. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của thọ. Một ngày khổ thọ lụy thân Tai hại của thọ muôn phần bi thương Một ngày cảm xúc vô thường Khổ hoại biến dịch chuyển đường tử sinh Thọ khổ đổi tướng thay hình Đi theo sắc uẩn lụy tình về không? 7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly thọ?” Nếu ở nơi thọ mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự lìa thọ. Như vậy là biết như thật về sự lìa thọ. Như thật xuất ly thọ hồng Tự chủ điều phục sắc không thế trần Đoạn trừ dục tham phù vân Vượt khỏi dục tham mộng phần lãng du An trú tịnh định công phu Buông lìa cảm xúc, điều nhu thọ tình. III. Bảy pháp Thiền quán về “tưởng” 1. “Thế nào là biết như thật về tưởng?” Có sáu tưởng thân. Tưởng phát sanh từ xúc của mắt; tưởng phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hiện hữu của tưởng. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của tưởng. Tưởng thân có sáu tướng sinh Từ mắt sinh xúc gợi tình nghĩ suy Tai, mũi, lưỡi, thân, ý... tùy Cảm xúc mơ tưởng… nối thì mộng du Hiện hữu cảm xúc… bi ưu Ảo mà tưởng thật, như mù sương tan! 2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của tưởng?” Tập khởi của xúc là tập khởi của tưởng. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của tưởng. Tập khởi của tưởng như rằng: Tâp khởi của xúc cũng hằng phiêu diêu Như thật xúc tưởng diễm kiều Tưởng lui, tưởng tới… lắm điều hờ ru. 3. “Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của tưởng?” Diệt tận xúc là diệt tận tưởng. Như vậy là biết như thật về sự đoạn diệt của tưởng. Diệt tận xúc, tưởng biệt mù Như thật đoạn diệt ngàn thu tưởng sầu Cảm xúc và tưởng tương giao Xúc diệt, tưởng tận… một màu hoàn vô. 4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của tưởng?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến... cho đến Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự đoạn diệt của tưởng. Như vậy là biết như thật về con đường đoạn diệt của tưởng. Con đường đưa đến Nam-mô Diệt tận của tưởng… như hồ thiên thanh Tám đường Thánh đạo mới thành Kiến, tư, ngữ, nghiệp, niệm… hành định cao Tướng tánh tám nẻo trước sau Quán tưởng tỏ rõ ra vào nhất như. 5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của tưởng?” Hỷ lạc nhờ duyên vào tưởng mà sanh ra. Đó gọi là vị ngọt của tưởng. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của tưởng. Vị ngọt hỷ lạc thiền thư Nhờ duyên vào tưởng kết từ sanh ra Vị ngọt của tưởng nở hoa Hoa phù du mộng kết tòa phù vân. 6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của tưởng?” Tưởng là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của tưởng. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của tưởng. Tưởng vô thường, khổ xoay vần Tưởng biến dịch, tai hại phần đến đi Một ngày tưởng thọ sầu bi Thì ra tỉnh ngộ phù trì khứ lai. 7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly tưởng?” Nếu ở nơi tưởng mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly tưởng. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly tưởng. Như thật xuất ly tưởng ngoài Nơi tưởng điều phục, thoát đài dục tham Đoạn trừ, vượt khỏi muốn ham Chính là xuất tưởng ly phàm lìa mê Xuất ly tưởng, trú Bồ-đề Lìa xa vọng tưởng hướng về chơn không. IV. Bảy pháp Thiền quán về “hành” 1. “Thế nào là biết như thật về hành?” Có sáu tư thân. Tư phát sanh từ xúc của mắt. Tư phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là hành. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của hành. Như thật tự thân sáu hành Từ thân, khẩu, ý… phát sanh xúc từ Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý… tư Căn thân hành động chuyển từ nẻo tâm Đó là hành, đó là thân Xuất sử gây nghiệp âm thầm hóa sanh. 2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của hành?” Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của hành. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của hành. Tập khởi xúc, tập khởi hành Xúc - hành tương túc tương sanh khởi sầu Nghiệp xưa vô tận nguồn sâu Xúc - hành tập khởi ban đầu mà ra Muốn ngăn nghiệp chướng quỷ ma Lìa hành, lìa xúc thì là an thân. 3. “Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của hành?” Sự diệt tận của xúc là sự diệt tận của hành. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của hành. Diệt tận xúc, diệt tận hành Xúc diệt, hành diệt đạo lành hóa thân Xưa nay xúc - hành đạo nhân Xúc diệt, hành diệt thiên chân an bình. 4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của hành?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến cho đến Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hành. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của hành. Con đường đưa đến cứu tinh Diệt tận hành… nhận hữu tình độ sanh Tám đường thánh đạo viên thành Kiến, tư, niệm, định… đạo lành hòa vui Ngữ, nghiệp, tinh tấn… ngọt bùi Ngày ngày tu tập thoát đời khổ đau. 5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của hành?” Hỷ lạc do duyên vào hành mà sanh ra, nên gọi là vị ngọt của hành. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của hành. Hỷ lạc, vị ngọt dồi dào Duyên hành xuất sử ra vào phong quang Vị ngọt, hỷ lạc hành tràng Làm cho ưa thích ngổn ngang vui buồn. 6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của hành?” Hành là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của hành. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của hành. Một ngày hành sử vô thường Khổ lụy, biến dịch vô phương cứu nàn Tai hại của hành nhập tràng Ôi thôi! Đau đớn vô vàn bi thương. 7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly hành?” Nếu ở nơi hành mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua được dục tham. Đó gọi là sự xuất ly hành. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly hành. Xuất ly hành, lìa vấn vương Điều phục dục, đoạn tai ương tham sầu Vượt qua ham muốn cơ cầu Chính mình tự thắng nghiệp sầu ngàn năm. V. Bảy pháp Thiền quán về “thức” 1. “Thế nào là biết như thật về thức?” Có sáu thức thân. Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hiện hữu của thức. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của thức. Như thật về thức tỏ phân Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý thân hiện bày Sáu thức theo thân xưa nay Thấy, nghe, ngửi, nếm… tự rày buồn vui Thức biết gây nghiệp ngậm ngùi Vô vàn khổ lụy đời đời trói duyên. 2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thức?” Sự tập khởi của danh sắc là sự tập khởi của thức. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của thức. Tập khởi danh sắc tạo phiền Tập khởi của thức, nối duyên buộc ràng Thức hiện hữu, thức đa mang Luân hồi sanh tử càng tăng nghiệp sầu. 3. “Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của thức?” Sự diệt tận của danh sắc là sự diệt tận của thức. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của thức. Diệt tận danh sắc làm đầu Biết danh sắc huyễn, khỏi sầu khỏi vương Thức tánh soi sáng mọi đường Đến đi, sanh tử… mười phương gọi là Danh sắc là hương là hoa Có không phảng phất như tà khói bay. 4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của thức?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến cho đến Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thức. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của thức. Con đường diệt tận thức này Tám thánh đạo Như Lai hoằng truyền Chánh kiến, tư, tấn… trung kiên Hành tri thẩm thấu thoát miền thức mê. 5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của thức?” Hỷ lạc do duyên thức mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thức. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của thức. Hỷ lạc duyên thức đi về Vị ngọt ru ngủ sơn khê dặm ngày Đối diện trần cảnh mơ màng Hỷ lạc vị ngọt mộng vàng phù du. 6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của thức?” Thức là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của thức. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của thức. Thức vô thường, thức khổ ưu Là pháp biến dịch ngàn thu khổ buồn Tai hại của thức sầu tuôn Muôn điều khổ lụy vấn vương phong trần. 7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly thức?” Nếu ở nơi thức mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly thức. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly thức. Tỳ-kheo, đó gọi là bảy xứ thiện. Xuất ly thức, ngộ huyễn thân Nơi thức điều phục, đoạn nhân tham cầu Vượt qua khỏi dục, khỏi sầu An trú tịnh định, tọa sâu Niết-bàn. B. BA PHƯƠNG PHÁP QUÁN NGHĨA “Thế nào là ba phương pháp quán nghĩa?” ‘Nếu, Tỳ-kheo ở nơi hoang vắng, dưới gốc cây, hay nơi đồng trống, quán sát ấm, giới, nhập bằng phương tiện chân chánh mà tư duy nghĩa của chúng. Đó gọi là ba phương pháp quán nghĩa của Tỳ-kheo’. “Đó gọi là bảy xứ thiện và ba phương pháp quán nghĩa của Tỳ-kheo, hoàn toàn ở trong trong pháp này mà chứng đắc lậu tận, đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự thân chứng ngộ cụ túc và an trụ, biết rằng, ‘Sự sanh của Ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa”’. Tỳ-kheo tìm chốn đạo tràng Gốc cây, đồng vắng trú an định thần Quán sát năm ấm… tỏ phân Mười tám giới - thức, căn, trần… chiếu soi Sáu nhập đi, đứng, nằm ngồi… Khứ lai tỏ rõ, nối cười… hạo nhiên Phương tiện chân chánh diệu huyền Tư duy nghĩa pháp… sáng miền chơn như Bảy xứ thiện, ba thiền thư Tỳ-kheo chứng pháp hương từ long lanh Tâm tuệ giải thoát vô sanh Tự tri, tự ngộ viên thành quả chơn An trụ, cụ túc linh sơn Phạm hạnh viên mãn, tâm hồn thanh trong Nhất như chân tánh tự lòng Bồ-đề vô thượng tươi hồng ngàn sau. Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. (ĐTKVN, Kinh Tạp A-hàm, tập 1, kinh 42, Thất xứ, tr.88, VNCPH ấn hành 1994) TX.Ngọc Hòa - Vĩnh Long, mùng 2-9-Tân Mão Sa-môn Giác Toàn
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |