Chi tiết tin tức

Đức Phật và thông điệp của ngài quá khứ, hiện tại và tương lai

14:47:00 - 27/03/2023
(PGNĐ) -  Vesak là ngày đánh dấu sự đản sinh, thành đạo và viên tịch của Đức Phật, mà theo truyền thống, tất cả đều diễn ra vào ngày trăng tròn của tháng Năm. Kể từ thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, Đức Phật là Ánh sáng của Châu Á, một vị thầy tâm linh với giáo lý đã tỏa ánh hào quang khắp một khu vực từng trải dài từ Thung lũng Kabul ở phía Tây đến Nhật Bản ở phía Đông, từ Sri Lanka ở phía Nam. đến Siberia ở phía bắc.

Ảnh minh hoạ

Lời mở đầu

 

Để bắt đầu, tôi muốn bày tỏ niềm hân hạnh được có mặt ở đây hôm nay, nhân dịp thuận lợi này về sự công nhận quốc tế đầu tiên và cử hành Vesak tại Liên Hợp Quốc. Mặc dù khoác áo tu sĩ Phật giáo Nam tông, nhưng tôi không phải là Phật tử gốc Á mà là người gốc thành phố New York, sinh ra và lớn lên ở Brooklyn. Tôi không biết gì về đạo Phật trong suốt hai mươi năm đầu đời. Ở tuổi đôi mươi, tôi bắt đầu quan tâm đến Phật giáo như một giải pháp thay thế có ý nghĩa cho chủ nghĩa duy vật hiện đại, mối quan tâm này ngày càng tăng trong những năm sau đó. Sau khi hoàn thành khóa học hậu đại học về triết học phương Tây, tôi đến Sri Lanka, nơi tôi xuất gia tu sĩ Phật giáo. Tôi đã sống ở Sri Lanka trong phần lớn cuộc đời sau này của mình, và do đó tôi cảm thấy đặc biệt vui mừng được trở về thành phố quê hương của mình để phát biểu tại hội nghị này.

 

Vesak là ngày đánh dấu sự đản sinh, thành đạo và viên tịch của Đức Phật, mà theo truyền thống, tất cả đều diễn ra vào ngày trăng tròn của tháng Năm. Kể từ thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, Đức Phật là Ánh sáng của Châu Á, một vị thầy tâm linh với giáo lý đã tỏa ánh hào quang khắp một khu vực từng trải dài từ Thung lũng Kabul ở phía Tây đến Nhật Bản ở phía Đông, từ Sri Lanka ở phía Nam. đến Siberia ở phía bắc. Nhân cách siêu phàm của Đức Phật đã khai sinh ra cả một nền văn minh được hướng dẫn bởi những lý tưởng đạo đức và nhân đạo cao cả, dẫn đến một truyền thống tâm linh sâu sắc đã nâng tầm cuộc sống của hàng triệu người với tầm nhìn về những tiềm năng cao nhất của con người. Thân hình thanh nhã của ngài là tâm điểm của những thành tựutuyệt vời trong tất cả các ngành nghệ thuật—trong văn học, hội họa, điêu khắc và kiến ​​trúc. Nụ cười dịu dàng, huyền bí của Ngài đã nở rộ thành những thư viện kinh điển và luận thuyết rộng lớn nhằm tìm hiểu trí tuệ sâu sắc của Ngài. Ngày nay, khi Phật giáo được biết đến nhiều hơn trên toàn cầu, nó đang thu hút một nhóm tín đồ ngày càng mở rộng và đã bắt đầu ảnh hưởng đến văn hóaphương Tây. Do đó, điều phù hợp nhất là Liên Hợp Quốc nên dành một ngày mỗi năm để bày tỏ lòng kính trọng đối với người có trí tuệ vĩ đại và trái tim vô bờ bến này, người mà hàng triệu người ở nhiều quốc gia coi là bậc thầy và người hướng dẫn của họ.

 

Đản Sinh của Đức Phật

 

Sự kiện đầu tiên trong cuộc đời của Đức Phật được Vesak kỷ niệm là sự ra đời của Ngài. Trong phần này của bài nói chuyện của mình, tôi muốn xem xét sự kiện đản sinh của Đức Phật, không phải bằng những thuật ngữ lịch sử đơn thuần, mà thông qua lăng kính của truyền thống Phật giáo – một cách tiếp cận sẽ tiết lộ rõ ​​ràng hơn ý nghĩa của sự kiện này đối với chính những người Phật tử. Để xem sự đản sinh của Đức Phật qua lăng kính của truyền thống Phật giáo, trước tiên chúng taphải xem xét câu hỏi, “Đức Phật là gì?” Như được biết rộng rãi, từ “Phật” không phải là một tên riêng mà là một danh hiệu kính trọng có nghĩa là “Đấng Giác Ngộ” hay “Người Tỉnh Thức.” Danh hiệu này được ban cho nhà hiền triết Ấn Độ Siddhartha Gautama, người đã sống và giảng dạy ở đông bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Theo quan điểm lịch sử, Gautama là Đức Phật, người sáng lập truyền thống tâm linh được gọi là Phật giáo.

 

Tuy nhiên, từ quan điểm của giáo lý Phật giáo cổ điển, từ “Phật” có ý nghĩa rộng hơn danh hiệu của một nhân vật lịch sử. Từ này biểu thị, không chỉ một đạo sư duy nhất sống trong một thời đại cụ thể, mà là một kiểu người — một mẫu mực — đã có nhiều trường hợp xuất hiện trong tiến trình của thời gian vũ trụ. Giống như danh hiệu “Tổng thống Mỹ” không chỉ đề cập đến Bill Clinton, mà còn cho tất cả những người đã từng giữ chức vụ tổng thống của Mỹ, nên danh hiệu “Đức Phật” theo nghĩa là một “vị thầy tâm linh”, áp dụng cho tất cả những ai đã đạt đến trạng thái Phật quả. Khi đó, Đức PhậtGautama chỉ đơn giản là thành viên mới nhất trong dòng truyền thừa tâm linh của các vị Phật, dòng truyền thừa kéo dài trở lại những ngõ ngách mờ mịt của quá khứ và hướng tới những chân trời xa xôi của tương lai.

 

Để hiểu điểm này rõ ràng hơn, cần phải có một chuyến du ngoạn ngắn vào vũ trụ học Phật giáo. Đức Phật dạy rằng vũ trụ không có bất kỳ điểm khởi đầu nào có thể khám phá được trong thời gian: không có điểm đầu tiên, không có khoảnh khắc sáng tạo ban đầu. Trải qua thời gian vô thủy, các hệ thống thế giới phát sinh, tiến hóa và rồi tan rã, theo sau là nhiều hệ thống thế giới cũng tuân theoquy luật tăng trưởng và suy tàn giống nhau. Mỗi hệ thống thế giới bao gồm nhiều mặt tồn tại nơi sinh sống của chúng sinh tương tự như chúng ta ở hầu hết các khía cạnh. Bên cạnh các cõi ngườivà động vật quen thuộc, nó còn chứa các cõi trời nằm trên cõi của chúng ta, các cõi hạnh phúc trên trời và các cõi địa ngục bên dưới cõi của chúng ta, các cõi tối tăm của đau khổ và khốn khổ. Chúng sinh sống trong những cõi này chuyển từ đời này sang đời khác trong một quá trình tái sinh không gián đoạn được gọi là luân hồi (saṃsāra), một từ có nghĩa là “sự lang thang”. Cuộc lang thang không mục đích từ sinh này sang sinh khác được điều khiển bởi vô minh và tham ái của chính chúng ta, và hình thức cụ thể mà bất kỳ sự tái sinh nào thực hiện đều do nghiệp của chúng ta, hành động tốt và xấu, các hành động cố ý của thân, khẩu và ý của chúng ta. Một quy luật đạo đức khách quan chi phối quá trình này, đảm bảo rằng những việc làm tốt mang lại sự tái sinh dễ chịu và những việc làm xấu là một sự tái sinh đau khổ.

Trong tất cả các cõi hiện hữu, sự sống là vô thường, phải chịu sự già, bệnh và chết. Ngay cả cuộc sống trên cõi trời, mặc dù dài lâu và hạnh phúc, cũng không kéo dài mãi mãi. Mọi sự tồn tại cuối cùng đều kết thúc, theo sau đó là sự tái sinh ở một nơi khác. Do đó, khi xem xét kỹ lưỡng, tất cả các phương thức tồn tại trong vòng luân hồi tự bộc lộ là không hoàn hảo, mang dấu ấn của sự không hoàn hảo. Chúng không thể mang lại hạnh phúc và bình an ổn định, chắc chắn, và do đó không thể đưa ra giải pháp cuối cùng cho vấn đề đau khổ.

 

Tuy nhiên, ngoài phạm vi tái sinh có điều kiện, còn có một cảnh giới hay trạng thái hạnh phúc và bình yên hoàn hảo, hoàn toàn tự do về tinh thần, một trạng thái có thể được thực hiện ngay tại đây và bây giờ ngay cả ở giữa thế giới không hoàn hảo này. Trạng thái này được gọi là Niết Bàn (tiếng Pali là Nibbāna), sự “dập tắt” ngọn lửa tham, sân, si. Cũng có một con đường, một con đường tu tập, đưa từ khổ đau luân hồi đến hạnh phúc Niết Bàn; từ vòng vô minh tham ái trói buộc đến an lạctự tại vô vi.

 

Trong thời gian dài, con đường bị thất lạc, biến mất khỏi thế giới con người, hoàn toàn không được biết đến, và do đó, con đường đến Niết-bàn sẽ không thể tiếp cận được. Tuy nhiên, thỉnh thoảng lại có những người xuất hiện trên thế giới, bằng nỗ lực tự thân và trí thông minh nhạy bén của mình, tìm ra con đường giải thoát đã mất. Sau khi tìm thấy nó, người ấy đi theo nó và hoàn toàn hiểu được sự thật tối hậu về thế giới. Sau đó, người ấy trở lại nhân loại và dạy sự thật này cho người khác, một lần nữa được biết đến con đường dẫn đến hạnh phúc cao nhất. Người thực hiện chức năng này là một vị Phật.

 

Như vậy, một vị Phật không chỉ đơn thuần là một Đấng Giác ngộ, mà còn trên tất cả các Đấng Giác ngộ. Ngài là một Vị Thầy Thế giới (Thiên Nhân Sư). Chức năng của Ngài là khám phá lại, trong thời đại tăm tối tâm linh, con đường dẫn đến Niết Bàn đã mất, để đạt được sự tự do tâm linh hoàn hảo, và dạy con đường này cho thế giới nói chung. Qua đó những người khác có thể theo bước ngài và đạt được cùng một kinh nghiệm giải thoát mà chính ngài đã đạt được. Một vị Phật không phải là người duy nhất đạt được Niết Bàn. Tất cả những người đi theo con đường đến cùng của nó đều nhận ra cùng một mục tiêu. Những người như vậy được gọi là A-la-hán, (arahant) “bậc xứng đáng được cúng dường,” (Ứng Cúng) bởi vì họ đã đoạn trừ mọi vô minh và ái dục. Vai trò duy nhất của một vị Phật là tái khám phá Giáo Pháp, nguyên lý tối thượng của chân lý, và thiết lập một “thời kỳ” hay di sản tâm linh để bảo tồn giáo lý cho các thế hệ tương lai. Chừng nào giáo lý còn, ai gặp được và bước vào con đường có thể đạt đến mục tiêu mà Đức Phật đã chỉ ra là điều thiện tối thượng.

 

Để hội đủ điều kiện trở thành một vị Phật, một vị Thầy Thế giới, một người tầm đạo phải tự chuẩn bị cho mình trong một thời gian dài không thể tưởng tượng được trải qua vô số kiếp. Trong những kiếp quá khứ này, vị Phật tương lai được gọi là một vị bồ tát (bodhisattva), một người khao khát giác ngộ viên mãn của Phật quả. Trong mỗi kiếp sống, bồ tát phải rèn luyện bản thân, thông qua những hành động vị tha và nỗ lực thiền định, để có được những phẩm chất cần thiết của một vị Phật.

 

Theo giáo lý về tái sinh, khi mới sinh ra, tâm trí của chúng ta không phải là một tờ giấy trắng mà mang theo tất cả những phẩm chất và khuynh hướng mà chúng ta đã hình thành trong những kiếp trước. Vì vậy, để trở thành một vị Phật đòi hỏi phải hoàn thành, đến mức tối đa, tất cả những phẩm chất đạo đức và tâm linh đạt đến tột đỉnh trong quả vị Phật. Những phẩm chất này được gọi là pāramiis hoặc pāramitās (ba-la-mật), những đức tính siêu việt hay sự hoàn hảo. Các truyền thốngPhật giáo khác nhau đưa ra những danh sách ba-la-mật hơi khác nhau. Trong truyền thốngTheravada, chúng được cho là mười phần: bố thí, trì giới, xả ly, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, chân thật, quyết tâm, từ bi và xả. Trong mỗi kiếp sống, hết kiếp này đến kiếp khác qua vô số đại kiếp vũ trụ, một vị bồ tát phải trau dồi những đức tính siêu phàm này trong tất cả các khía cạnh đa dạng của chúng.

 

Điều thúc đẩy bồ tát trau dồi các ba-la-mật đến những tầm cao phi thường như vậy là ước nguyệntừ bi ban cho thế giới giáo lý dẫn đến Bất tử, đến sự an bình hoàn hảo của Niết-bàn. Tâm nguyệnnày, được nuôi dưỡng bởi tình thương và lòng bi mẫn vô biên đối với tất cả chúng sinh đang vướng vào lưới khổ, là động lực nâng đỡ Bồ tát trong nhiều kiếp phấn đấu hoàn thiện các ba la mật. Và chỉ khi nào tất cả ba-la-mật đã đạt đến đỉnh cao của sự hoàn hảo thì Ngài mới có đủ tư cách để đạt giác ngộ vô thượng như một vị Phật. Như vậy, nhân cách của Đức Phật là đỉnh cao của mười phẩm chất được đại diện bởi mười ba-la-mật. Giống như một viên ngọc được cắt gọt kỹ lưỡng, nhân cách của Ngài thể hiện tất cả những phẩm chất tuyệt vời trong sự cân bằng hoàn hảo. Ở ngài, mười phẩm chất này đã đạt đến mức viên mãn, hòa quyện thành một tổng thể hài hòa.

 

Điều này giải thích tại sao sự ra đời của Đức Phật tương lai lại có ý nghĩa sâu sắc và vui mừng như vậy đối với các Phật tử. Sự ra đời không chỉ đánh dấu sự ra đời của một nhà hiền triết vĩ đại và thầy dạy đạo đức, mà còn là sự ra đời của một vị Thầy Thế giới trong tương lai. Vì vậy, tại lễ Vesak, chúng ta tôn vinh Đức Phật như một người đã nỗ lực trải qua vô số kiếp quá khứ để hoàn thiện tất cả những đức tính cao cả sẽ cho phép Ngài dạy cho thế giới con đường dẫn đến hạnh phúc và hòa bình cao nhất.

 

Tìm Kiếm Sự Giác Ngộ

 

Từ những đỉnh cao của Phật giáo cổ điển, bây giờ tôi sẽ đi xuống vùng đồng bằng của lịch sử nhân loại và ôn lại ngắn gọn cuộc đời của Đức Phật cho đến khi Ngài đạt được giác ngộ. Điều này sẽ cho phép tôi đưa ra một bản tóm tắt ngắn gọn về những điểm chính trong sự giảng dạy của Ngài, nhấn mạnh những điểm đặc biệt có liên quan đến ngày nay.

 

Ngay từ đầu, tôi phải nhấn mạnh rằng Đức Phật không được sinh ra như một Đấng Giác Ngộ. Mặc dù Ngài đã đủ điều kiện để trở thành Phật trong các kiếp trước, nhưng trước tiên Ngài phải trải quamột cuộc đấu tranh lâu dài và đau đớn để tìm ra chân lý cho chính mình. Đức Phật tương lai được sinh ra là Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm (Siddhartha Gautama) ở nước cộng hòa Thích-ca (Sakyan) nhỏ gần chân đồi Hy-mã-lạp-sơn (Himalaya), một khu vực hiện nằm ở miền nam Nepal. Mặc dù chúng takhông biết chính xác niên đại của cuộc đời Ngài, nhưng nhiều học giả tin rằng Ngài sống từ khoảng năm 563 đến 483 trước Công nguyên; một số nhỏ hơn đặt ngày khoảng một thế kỷ sau. Truyền thuyết cho rằng ông là con trai của một vị vua hùng mạnh, nhưng nhà nước Sakyan thực sự là một nước cộng hòa bộ lạc, và do đó cha ông có lẽ là người đứng đầu hội đồng trưởng lão cầm quyền.

 

Khi còn là một thanh niên hoàng gia, Thái tử Siddhartha được nuôi dưỡng trong sự xa hoa. Năm mười sáu tuổi, ngài kết hôn với một công chúa xinh đẹp tên là Da-du-đà-la (Yasodhara) và sống một cuộc đời mãn nguyện ở thủ đô Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Tuy nhiên, theo thời gian, hoàng tử ngày càng trầm ngâm. Điều làm ông băn khoăn là những vấn đề lớn đang cháy bỏng mà chúng tathường coi là đương nhiên, những câu hỏi liên quan đến mục đích và ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Có phải chúng ta chỉ sống để hưởng thụ những thú vui giác quan, thành tựu của cải và địa vị, hay để thực thi quyền lực? Hay có điều gì đó vượt ra ngoài những điều này, thực tế và viên mãnhơn? Ở tuổi 29, bị khuấy động bởi sự suy ngẫm sâu sắc về thực tế khắc nghiệt của cuộc sống, Ngài quyết định rằng việc tìm kiếm sự giác ngộ có ưu tiên cao hơn lời hứa về quyền lực hay tiếng gọi của nghĩa vụ trần tục. Vì vậy, khi còn đang tuổi thanh xuân, Ngài đã cắt bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, xuất gia và sống đời sống không nhà, tìm cách giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh, lão, tử.

 

Nhà tu khổ hạnh cao quý đầu tiên tìm kiếm những vị thầy tâm linh lỗi lạc nhất vào thời của ngài. Ngài thông thạo các học thuyết và hệ thống thiền định của họ, nhưng chẳng bao lâu Ngài nhận rarằng những lời dạy này không dẫn đến mục tiêu mà Ngài đang tìm kiếm. Tiếp theo, Ngài chọn con đường khổ hạnh cực đoan, tự hành xác, mà Ngài theo đuổi gần như đến kiệt sức, sắp chết. Ngay sau đó, khi triển vọng của Ngài có vẻ ảm đạm, Ngài đã nghĩ đến một con đường khác để giác ngộ, một con đường cân bằng giữa việc chăm sóc cơ thể đúng cách với sự suy ngẫm lâu dài và sự điều tra sâu sắc. Sau này, ông gọi con đường này là “con đường trung đạo” vì nó tránh được những cực đoan của đam mê nhục dục và sự hành xác.

 

Sau khi lấy lại được sức lực nhờ ăn thức ăn bổ dưỡng, một ngày nọ, ngài đến một địa điểm đẹp đẽbên bờ sông Ni-liên-thiền (Neratjara), gần thị trấn Gaya. Ngài ngồi kiết già dưới gốc cây (sau này được gọi là cây bồ đề), hạ quyết tâm rằng sẽ không bao giờ đứng dậy khỏi chỗ ngồi cho đến khi đạt được mục đích của mình. Khi màn đêm buông xuống, Ngài bước vào những giai đoạn thiền địnhngày càng sâu hơn. Sau đó, các ghi chép cho chúng ta biết, khi tâm trí của ngài đã hoàn toàn tĩnh lặng, trong canh đầu tiên của đêm, ngài đã nhớ lại các kiếp trước của mình, thậm chí trong nhiều đại kiếp; trong canh giữa, ngài khai triển “thiên nhãn” nhờ đó ngài có thể nhìn thấy chúng sinh chết và tái sinh theo nghiệp của họ; và trong canh cuối cùng, Ngài đã thâm nhập vào những sự thật sâu sắc nhất của sự tồn tại, những quy luật cơ bản nhất của thực tại. Khi bình minh ló rạng, hình bóng ngồi dưới gốc cây không còn là một vị bồ tát, một người tìm cầu giác ngộ, mà là một vị Phật, một bậc Toàn Giác, người đã lột bỏ những bức màn vô minh vi tế nhất và đạt được trạng thái Bất tửngay trong cuộc sống. Theo truyền thống Phật giáo, sự kiện này xảy ra vào tháng Năm năm thứ ba mươi lăm của Ngài, vào ngày trăng tròn Vesak. Đây là dịp trọng đại thứ hai trong cuộc đời của Đức Phật mà Vesak kỷ niệm: sự thành tựu giác ngộ của Ngài.

 

Trong vài tuần, vị Phật vừa mới giác ngộ đã ở lại gần cội bồ đề để chiêm nghiệm từ nhiều góc độ khác nhau về sự thật mà Ngài đã khám phá ra. Sau đó, khi Ngài nhìn ra thế giới, trái tim Ngài rung động bởi lòng bi mẫn sâu sắc đối với những người vẫn còn sa lầy trong vô minh, và Ngài quyết địnhxuất gia và giảng dạy Giáo Pháp giải thoát. Trong những tháng tiếp theo, số lượng người đi theoNgài đã tăng lên nhanh chóng khi cả những người tu khổ hạnh và những người tại gia nghe thấy phúc âm mới và đến quy y với Đấng Giác Ngộ. Mỗi năm, kể cả khi đã về già, Đức Phật đi lang thang giữa các làng mạc, thị trấn và thành phố ở vùng đông bắc Ấn Độ, kiên nhẫn giảng dạy cho tất cả những ai chịu lắng nghe. Ngài thành lập một đoàn thể Tăng già để truyền bá thông điệp của Ngài. Giáo đoàn này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, có lẽ (cùng với giáo đoàn Kỳ-na giáo, Jain) là tổ chức liên tục lâu đời nhất trên thế giới. Ngài cũng thu hút nhiều tín đồ cư sĩ, những người đã trở thành những người ủng hộ nhiệt thành của Đức Thế Tôn và giáo đoàn.

 

Lời dạy của Đức Phật: Mục đích của giáo pháp

 

Đặt câu hỏi tại sao lời dạy của Đức Phật lại lan truyền nhanh chóng như vậy trong tất cả các lĩnh vực của xã hội đông bắc Ấn Độ là đặt ra một câu hỏi không chỉ có lợi ích lịch sử mà còn phù hợpvới chúng ta ngày nay. Vì chúng ta đang sống trong thời đại mà Phật giáo đang có sức hấp dẫnmạnh mẽ đối với ngày càng nhiều người, cả Đông lẫn Tây. Tôi tin rằng sự thành công đáng chú ý của Phật giáo, cũng như sức hấp dẫn đương đại của nó, có thể được hiểu chủ yếu theo hai yếu tố: một, mục đích của giáo lý; và hai, phương pháp luận của nó.

 

Về mục đích, Đức Phật đã trình bày giáo lý của Ngài theo cách trực tiếp giải quyết vấn đề quan trọng ở trung tâm của sự tồn tại của con người - vấn đề đau khổ - và làm như vậy mà không dựa vào những huyền thoại và bí ẩn rất điển hình của tôn giáo. Ngài còn hứa hẹn rằng những ai tuân theo lời dạy của Ngài cho đến cùng sẽ nhận ra ngay tại đây và bây giờ hạnh phúc và bình an cao cả nhất. Tất cả những mối quan tâm khác ngoài điều này, chẳng hạn như giáo điều thần học, sự huyền ảo siêu hình, nghi lễ và quy tắc thờ phượng, Đức Phật gạt sang một bên vì không liên quan đến nhiệm vụ hiện tại, sự giải thoát của tâm trí khỏi những ràng buộc và xiềng xích của nó.

 

Lực đẩy thực dụng này của Pháp được minh họa rõ ràng bằng công thức chính mà Đức Phật đã cô đọng chương trình giải thoát của Ngài, đó là Tứ Diệu Đế:

 

1. sự thật cao quý rằng cuộc sống bao hàm khổ đau

2. sự thật cao quý rằng đau khổ phát sinh từ tham ái

3 . sự thật cao quý rằng khổ đau chấm dứt bằng sự đoạn trừ tham ái

4. sự thật cao cả rằng có một con đường để chấm dứt khổ đau.

 

Đức Phật không chỉ coi đau khổ và giải thoát khỏi đau khổ là trọng tâm trong giáo lý của Ngài, mà Ngài còn giải quyết vấn đề đau khổ theo cách thể hiện sự thấu hiểu tâm lý phi thường. Ngài truy tìm gốc rễ của đau khổ trong tâm trí chúng ta, đầu tiên là do tham ái và chấp thủ của chúng ta, và sau đó lùi một bước xa hơn đến vô minh, một sự không nhận biết nguyên thủy về bản chất thực sự của sự vật. Vì đau khổ phát sinh từ chính tâm chúng ta, nên việc chữa trị phải đạt được trong tâm chúng ta, bằng cách xua tan những ô nhiễm và ảo tưởng của chúng ta bằng cái nhìn sâu sắc về thực tại. Điểm khởi đầu của giáo lý Đức Phật là tâm chưa giác ngộ, trong sự kìm kẹp của phiền não, ưu tư và buồn phiền; cứu cánh là tâm giác ngộ, an lạc, trong sáng và tự tại.

 

Để thu hẹp khoảng cách giữa điểm bắt đầu và điểm kết thúc giáo lý của mình, Đức Phật đưa ra một con đường rõ ràng, chính xác, có thể thực hiện được tạo thành từ tám yếu tố. Dĩ nhiên đây là Bát Chánh Đạo. Con đường bắt đầu với (1) chánh kiến ​​về những sự thật cơ bản của sự tồn tại, và (2) ý định đúng đắn để thực hiện việc rèn luyện. Sau đó, nó tiếp tục qua ba yếu tố đạo đức là (3) chánh ngữ, (4) chánh nghiệp, và (5) chánh mạng, đến ba yếu tố liên quan đến thiền định và phát triển tâm: (6) chánh tinh tấn, (7) chánh niệm. và (8) chánh định.

 

Khi tất cả tám yếu tố của con đường được thuần thục, người đệ tử sẽ thâm nhập với tuệ giác vào bản chất thật của sự tồn tại và gặt hái những thành quả của con đường tu: trí tuệ toàn hảo và tâm giải thoát không lay chuyển.

 

Phương Pháp Giảng Dạy

 

Đặc điểm phương pháp giảng dạy của Đức Phật là bám sát mục tiêu của nó. Một trong những đặc điểm hấp dẫn nhất của nó, liên quan chặt chẽ đến khuynh hướng tâm lý của nó, là sự nhấn mạnhvào sự tự lực. Đối với Đức Phật, chìa khóa dẫn đến giải thoát là tâm thanh tịnh và hiểu biết đúng đắn, và do đó, Ngài bác bỏ ý kiến ​​cho rằng chúng ta có thể đạt được sự giải thoát bằng cách nương tựa vào bất kỳ ai khác. Đức Phật không tuyên bố bất kỳ địa vị thần thánh nào cho chính mình, Ngài cũng không tuyên bố mình là một vị cứu tinh cho bất cứ người nào. Đúng hơn, Ngài tự gọi mình là người hướng dẫn và người thầy, người chỉ ra con đường mà đệ tử phải đi theo.

 

Vì trí tuệ hay tuệ giác là công cụ chính của giải thoát, nên Đức Phật luôn luôn yêu cầu các đệ tửcủa Ngài đi theo Ngài trên cơ sở sự hiểu biết của chính họ, không phải từ sự vâng phục mù quánghay sự tin tưởng không nghi ngờ. Ngài mời mọi người tìm hiểu nghiên cứu lời dạy của Ngài, để xem xét nó dưới ánh sáng của lý trí và trí thông minh của chính họ. Pháp hay Giáo lý là kinh nghiệm, một cái gì đó để được thực hành và nhìn thấy, không phải là một tín ngưỡng bằng lời nóichỉ được tin tưởng. Khi một người bắt đầu thực hành con đường (đạo), người đó trải nghiệm cảm giác vui vẻ và bình an ngày càng tăng, cảm giác này mở rộng và sâu sắc hơn khi một người tiến bộtheo các bước được đánh dấu rõ ràng.

 

Điều ấn tượng nhất về giáo lý nguyên thủy là sự trong sáng như pha lê của nó. Pháp rộng mở, sáng suốt, giản dị mà thâm sâu. Nó kết hợp sự thuần khiết về mặt đạo đức với sự chặt chẽ về mặt luận lý, tầm nhìn cao cả với sự trung thực với thực tế của kinh nghiệm sống. Mặc dù sự thâm nhậpchân lý hoàn toàn diễn ra theo từng giai đoạn, nhưng việc giảng dạy bắt đầu bằng những nguyên tắc hiển nhiên ngay lập tức ngay khi chúng ta sử dụng chúng làm hướng dẫn để suy ngẫm. Mỗi bước, nếu được làm chủ một cách thành công, sẽ tự nhiên dẫn đến những mức độ hiểu biết sâu sắc hơn, mà đỉnh cao là sự chứng ngộ chân lý tối cao, Niết Bàn.

 

Bởi vì Đức Phật đề cập đến vấn đề phổ biến nhất trong tất cả các vấn đề của con người, vấn đềđau khổ, nên Ngài đã biến lời dạy của mình thành một thông điệp phổ quát, gửi đến tất cả mọi người chỉ vì lý do nhân tính của họ. Ngài đã mở ra những cánh cửa giải thoát cho mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội trong xã hội Ấn Độ cổ đại, cho những người Bà-la-môn, hoàng tử, thương giavà nông dân, ngay cả những người hèn mọn bị ruồng bỏ. Là một phần trong dự án phổ quát của mình, Đức Phật cũng đã mở rộng cánh cửa giáo lý của mình cho phụ nữ. Chính chiều kích phổ quát này của Pháp đã cho phép nó lan rộng ra ngoài biên giới Ấn Độ và biến Phật giáo thành một tôn giáo thế giới.

 

Một số học giả đã miêu tả Đức Phật như một nhà thần bí ở thế giới khác hoàn toàn thờ ơ với những vấn đề của cuộc sống trần tục. Tuy nhiên, nếu đọc một cách khách quan kinh điển Phật giáosơ khai sẽ cho thấy rằng lời buộc tội này là không thể biện minh được. Đức Phật không chỉ dạy con đường tu tập thiền định cho tăng ni, mà còn là quy tắc lý tưởng cao thượng để hướng dẫn nam nữsống trên đời. Trên thực tế, sự thành công của Đức Phật trong bối cảnh tôn giáo rộng lớn hơn của Ấn Độ có thể được giải thích một phần bởi mô hình mới mà Ngài cung cấp cho các đệ tử tại gia của mình, mô hình của một người đàn ông hay phụ nữ trên thế giới kết hợp cuộc sống bận rộn với gia đình và các trách nhiệm xã hội với một thái độ kiên định. cam kết với các giá trị gắn liền với Giáo Pháp.

 

Giới luật đạo đức mà Đức Phật quy định cho người tại gia bao gồm Ngũ giới, yêu cầu kiêng sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và sử dụng các chất say. Mặt tích cực của đạo đức được thể hiệnbằng những phẩm chất bên trong của trái tim tương ứng với những giới luật kiềm chế này: tình yêu và lòng trắc ẩn đối với tất cả chúng sinh; trung thực trong giao dịch của một người với người khác; trung thành với lời thề hôn nhân của một người; nói thật; và tỉnh táo của tâm trí. Ngoài đạo đức cá nhân, Đức Phật đã đặt ra những hướng dẫn cho cha mẹ và con cái, vợ chồng, chủ và thợ, nhằm thúc đẩy một xã hội được đánh dấu bằng sự hài hòa, hòa bình và thiện chí ở mọi cấp độ. Ngài cũng giải thích cho các vị vua về nghĩa vụ của họ đối với công dân của họ.

 

Những bài giảng này cho thấy Đức Phật là một nhà tư tưởng chính trị sắc sảo, người hiểu rõ rằng chính phủ và nền kinh tế chỉ có thể phát triển khi những người nắm quyền quan tâm đến phúc lợicủa người dân hơn lợi ích cá nhân của họ.

 

Đại Niết Bàn và Sau Đó

 

Sự kiện trọng đại thứ ba trong cuộc đời của Đạo Sư được kỷ niệm tại Vesak là sự Đại Niết-bàn hay viên tịch của Ngài. Câu chuyện về những ngày cuối cùng của Đức Phật được kể lại một cách chi tiết sống động và cảm động trong Kinh Đại Bát Niết Bàn. Sau bốn mươi lăm năm hoằng pháp tích cực, ở tuổi tám mươi, Đức Phật nhận ra rằng ngày tàn của Ngài đã gần kề. Nằm trên giường bệnh, ông từ chối chỉ định người kế vị riêng, nhưng nói với các đệ tử rằng sau khi ông qua đời, chính Pháp sẽ là người hướng dẫn họ.

 

Đối với những người bị kiệt quệ, sầu thảm bởi đau buồn, ngài nhắc lại một sự thật phũ phàng rằng vô thường chi phối mọi sự vật có điều kiện, bao gồm cả cơ thể vật chất của một Đấng Giác ngộ. Ngài mời các đệ tử đến hỏi Ngài về giáo lý và con đường tu, đồng thời khuyến khích họ tinh tấnphấn đấu cho mục tiêu. Sau đó, trong tư thế hoàn toàn sẵn sàng, Ngài an nhiên thị tịch vào “Niết bàn - hoàn toàn không còn lại sự tồn tại có điều kiện (pháp hữu vi).”

 

Ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, hàng trăm đệ tử giác ngộ của Ngài đã tổ chức một hội nghị tại Vương-Xá (Rājagaha) để thu thập những lời dạy của Ngài và bảo tồn chúng cho hậu thế. Việc biên soạn các bản văn này đã mang đến cho các thế hệ tương lai một phiên bản giáo lý được hệ thốnghóa để dựa vào đó hướng dẫn. Trong hai thế kỷ đầu tiên sau khi Đức Phật nhập niết bàn, giáo pháp của Ngài từ từ tiếp tục lan rộng, mặc dù ảnh hưởng của nó phần lớn vẫn chỉ giới hạn ở vùng đông bắc Ấn Độ. Sau đó, vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, một sự kiện đã diễn ra làm thay đổi vận mệnh của Phật giáo và đặt nó trên con đường trở thành một tôn giáo thế giới. Sau một chiến dịch quân sự đẫm máu khiến hàng ngàn người thiệt mạng, vua A-Dục (Asoka), vị hoàng đế thứ ba của triều đại Mauryan, đã hướng về Phật giáo để xoa dịu lương tâm đau đớn. Ông nhìn thấy ở Pháp nguồn cảm hứng cho một chính sách xã hội được xây dựng dựa trên lẽ phải thay vì vũ lực và áp bức, và ông đã tuyên bố chính sách mới của mình trong các sắc lệnh được khắc trên đá và cột trên khắp đế chế của mình. Trong khi theo đạo Phật trong cuộc sống riêng tư của mình, Asoka đã không cố gắng áp đặt đức tin cá nhân của mình lên người khác mà thúc đẩy quan niệm chung của người Ấn Độ về Pháp như luật công bằng mang lại hạnh phúc và sự hài hòa trong cuộc sống hàng ngày và tái sinh tốt sau khi chết.

 

Dưới sự bảo trợ của Asoka, các nhà sư đã tổ chức một hội đồng ở thủ đô hoàng gia, tại đó họ quyết định cử các nhà truyền giáo Phật giáo đi khắp tiểu lục địa Ấn Độ và xa hơn nữa là các vùng xa xôi. Hiệu quả nhất trong số này, xét về lịch sử Phật giáo sau này, là sứ mệnh truyền giáo đến Sri Lanka, do con trai riêng của Asoka, tỳ kheo Mahinda, dẫn đầu, người ngay sau đó là con gái của Asoka, ni cô Saṅghamittā. Cặp đôi hoàng gia này đã mang đến Sri Lanka hình thức Phật giáoTheravada, vẫn thịnh hành ở đó cho đến ngày nay.

 

Trong chính Ấn Độ, Phật giáo đã phát triển qua ba giai đoạn chính, mà đã trở thành ba hình thứclịch sử chính của nó. Giai đoạn đầu tiên chứng kiến ​​sự truyền bá giáo lý nguyên thủy và sự phân chia trật tự tu viện thành mười tám trường phái được phân chia theo những điểm nhỏ của giáo lý. Trong số này, trường phái duy nhất còn tồn tại là Theravada, từ rất sớm đã bén rễ ở Sri Lanka và có lẽ ở những nơi khác ở Đông Nam Á. Ở đây nó có thể phát triển mạnh trong sự cách ly tương đốivới những thay đổi ảnh hưởng đến Phật giáo trên tiểu lục địa. Ngày nay, Theravada, hậu duệ của Phật giáo nguyên thủy, thịnh hành ở Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Lào.

 

Bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, một hình thức Phật giáo mới dần dần xuất hiện, mà những người ủng hộ nó gọi là Đại thừa, (Cỗ Xe Lớn), trái ngược với các trường phái trước đó, mà họ gọi là Tiểu thừa (Cỗ Xe Nhỏ). Các nhà Đại thừa đã xây dựng chi tiết sự nghiệp của Bồ tát, hiện được coi là lý tưởng phổ quát của Phật giáo, và đề xuất một cách giải thích triệt để về trí tuệ như cái nhìn sâu sắc về tính không (shunyata), bản chất tối hậu của mọi hiện tượng. Kinh điển Đại thừa đã truyền cảm hứng cho các hệ thống triết học táo bạo, được hình thành bởi các nhà tư tưởng lỗi lạc như Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân và Pháp Xứng (Nagarjuna, Asanga, Vasubandhu, and Dharmakirti). Đối với những tín đồ bình thường, kinh điển Đại thừa nói về chư Phật và Bồ táttrên trời, những người có thể đến trợ giúp những tín đồ. Trong giai đoạn đầu, trong sáu thế kỷ đầu tiên của Công nguyên, Đại thừa truyền bá sang Trung Quốc, và từ đó đến Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở những vùng đất này, Phật giáo đã khai sinh ra những trường phái mới phù hợp với tâm trí Viễn Đông hơn là những trường phái nguyên thủy của Ấn Độ. Nổi tiếng nhất trong số này là Thiền tông, hiện được đại diện rộng rãi ở phương Tây.

 

Ở Ấn Độ, có lẽ vào thế kỷ thứ tám, Phật giáo đã phát triển thành hình thức lịch sử thứ ba, được gọi là Kim cương thừa (Vajrayana) (Cỗ Xe Kim Cương, hay Mật giáo) , dựa trên các văn bản bí truyềnđược gọi là thần chú (Tantras). Phật giáo Kim Cương thừa chấp nhận các quan điểm giáo lý của Đại thừa, nhưng bổ sung những điều này bằng các nghi lễ ma thuật, biểu tượng thần bí và các thực hành yoga phức tạp nhằm tăng tốc con đường dẫn đến giác ngộ. Kim cương thừa truyền bá từ miền bắc Ấn Độ đến Nepal, Tây Tạng và các vùng đất khác trên dãy Himalaya, và ngày nay Phật giáo Tây Tạng thống trị.

 

Điều đáng chú ý về việc phổ biến Phật giáo trong suốt lịch sử lâu dài của nó là khả năng giành được sự trung thành của toàn bộ dân chúng chỉ bằng các biện pháp hòa bình. Đạo Phật luôn truyền bá bằng giới luật và gương sáng, không bao giờ bằng vũ lực. Mục đích của việc truyền bá Giáo Pháp không phải là để cải đạo, mà là để chỉ cho người khác con đường dẫn đến hạnh phúc và bình an thực sự. Bất cứ khi nào người dân của bất kỳ quốc gia hay khu vực nào chấp nhận Phật giáo, đối với họ, nó không chỉ là một tôn giáo, mà còn trở thành nguồn gốc của một lối sống hoàn chỉnh. Nó đã truyền cảm hứng cho những tác phẩm vĩ đại về triết học, văn học, hội họa và điêu khắc có thể so sánh với bất kỳ nền văn hóa nào khác. Nó đã là khuôn mẫu cho các thể chế xã hội, chính trị và giáo dục; đưa ra hướng dẫn cho những người cai trị và công dân; định hình đạo đức, phong tục và nghi thức để sắp xếp cuộc sống của những người theo nó. Trong khi các phương thức đặc biệtcủa nền văn minh Phật giáo rất khác nhau, từ Sri Lanka đến Mông Cổ đến Nhật Bản, tất cả chúng đều tràn ngập một hương vị tinh tế nhưng không thể nhầm lẫn khiến chúng trở nên đặc trưng của Phật giáo.

 

Trong suốt nhiều thế kỷ, sau sự biến mất của Phật giáo ở Ấn Độ, các tín đồ của các trường phái Phật giáo khác nhau sống gần như hoàn toàn cô lập với nhau, hầu như không biết đến sự tồn tạicủa nhau. Tuy nhiên, kể từ giữa thế kỷ 20, những Phật tử thuộc các truyền thống khác nhau đã bắt đầu tương tác và học cách nhận ra bản sắc Phật giáo chung của họ. Hiện nay, ở phương Tây, lần đầu tiên kể từ khi Phật giáo Ấn Độ suy tàn, những tín đồ của ba “thừa” Phật giáo chính cùng tồn tạitrong cùng một khu vực địa lý. Sự liên kết chặt chẽ này nhất định dẫn đến sự hỗn hợp và có lẽ trong những phong cách Phật giáo vẫn còn mới, khác biệt với tất cả các hình thức truyền thống. Phật giáo ở phương Tây vẫn còn quá non trẻ để có thể đưa ra những dự đoán tầm xa, nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng Phật pháp sẽ ở đây và sẽ tương tác với văn hóa phương Tây, hy vọng sẽ làm phong phú thêm cho cả hai bên.

 

Thông điệp của Đức Phật cho ngày hôm nay

 

Trong phần cuối cùng của bài nói chuyện này, tôi muốn thảo luận rất ngắn gọn về sự liên quan của những lời dạy của Đức Phật đối với thời đại của chúng ta, khi chúng ta đứng trước ngưỡng cửa của một thế kỷ mới và một thiên niên kỷ mới. Điều tôi thấy đặc biệt thú vị cần lưu ý là Phật giáo có thể cung cấp những hiểu biết và thực hành hữu ích trên nhiều lĩnh vực khác nhau—từ triết học và tâm lý học đến chăm sóc y tế và sinh thái—mà không yêu cầu những người sử dụng các nguồn lực của Phật giáo phải chấp nhận Phật giáo như một tôn giáo chính thức. Ở đây tôi chỉ muốn tập trung vào ý nghĩa của các nguyên tắc Phật giáo đối với việc hình thành chính sách công.

 

Bất chấp những tiến bộ to lớn mà loài người đã đạt được về khoa học và công nghệ, những tiến bộđã cải thiện đáng kể điều kiện sống theo nhiều cách, chúng ta vẫn thấy mình phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu coi thường, chế giễu những nỗ lực kiên quyết nhất của chúng ta để giải quyết chúng trong khuôn khổ đã được thiết lập. Những vấn đề này bao gồm: bùng nổ căng thẳngkhu vực về sắc tộc và tôn giáo; sự phổ biến liên tục của vũ khí hạt nhân; coi thường nhân quyền; khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn; buôn bán ma túy, phụ nữ và trẻ em quốc tế; sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên của trái đất; và sự hủy hoại của môi trường. Từ quan điểm của Phật giáo, điều nổi bật nhất khi chúng ta suy ngẫm về những vấn đề này như một tổng thể là đặc điểm triệu chứngcơ bản của chúng. Bên dưới sự đa dạng bên ngoài của chúng, chúng dường như có rất nhiều biểu hiện của một gốc rễ chung, của một căn bệnh tâm linh sâu xa và tiềm ẩn đang lây nhiễm cho cơ thể xã hội của chúng ta. Nguồn gốc chung này có thể được mô tả ngắn gọn là sự khăng khăng ngoan cố đặt những lợi ích cá nhân hạn hẹp, ngắn hạn (bao gồm cả lợi ích của các nhóm xã hội hoặc dân tộc mà chúng ta thuộc về) lên trên lợi ích lâu dài của cộng đồng nhân loại rộng lớn hơn. Vô số tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến chúng ta không thể được giải thích thỏa đáng nếu không xem xét những động lực mạnh mẽ của con người ẩn đằng sau chúng. Quá thường xuyên, những động lực này khiến chúng ta theo đuổi những mục đích gây chia rẽ, hạn chế ngay cả khi những theo đuổi như vậy cuối cùng là tự hủy hoại bản thân.

 

Giáo lý của Đức Phật cung cấp cho chúng ta hai công cụ có giá trị để giúp chúng ta tự giải thoátmình khỏi mớ bòng bong này. Một là phân tích cụ thể và thực tế về nguồn gốc tâm lý của sự đau khổ của con người. Cái còn lại là con đường rèn luyện đạo đức và tinh thần được vạch ra chính xácmà nó đưa ra như một giải pháp. Đức Phật giải thích rằng nguồn gốc ẩn giấu của đau khổ con người, trong cả hai lĩnh vực cá nhân và xã hội của cuộc sống chúng ta, là ba yếu tố tinh thần được gọi là gốc rễ bất thiện, đó là tham, sân và si. Giáo lý Phật giáo truyền thống mô tả những gốc rễ bất thiện này là nguyên nhân của đau khổ cá nhân, nhưng bằng cách nhìn rộng hơn, chúng ta có thể thấy chúng là nguồn gốc của đau khổ xã hội, kinh tế và chính trị. Thông qua sự phổ biến của lòng tham, thế giới đang bị biến đổi thành một thị trường toàn cầu, nơi mọi người bị hạ thấp xuống địa vịcủa người tiêu dùng, thậm chí là hàng hóa, và các nguồn tài nguyên quan trọng của hành tinh chúng ta đang bị cướp bóc mà không cần quan tâm đến các thế hệ tương lai. Thông qua sự phổ biến của hận thù, sự khác biệt về quốc gia và sắc tộc trở thành nơi sinh sôi của sự nghi ngờ và thù địch, bùng nổ trong bạo lực và các chu kỳ trả thù bất tận. Vô minh củng cố hai gốc rễ bất thiện kia với niềm tin sai lầm và ý thức hệ chính trị được đưa ra để biện minh cho các chính sách do tham và sân thúc đẩy.

 

Trong khi những thay đổi về cơ cấu xã hội và chính sách chắc chắn là cần thiết để chống lại nhiều hình thức bạo lực và bất công đang lan rộng trong thế giới ngày nay, thì những thay đổi như vậy thôi sẽ không đủ để mở ra một kỷ nguyên hòa bình và ổn định xã hội thực sự. Phát biểu từ quan điểm của Phật giáo, tôi muốn nói rằng điều cần thiết trên hết là một phương thức nhận thức mới, một ý thức phổ quát có thể cho phép chúng ta coi người khác không khác biệt về bản chất với chính mình. Dù khó khăn đến đâu, chúng ta phải học cách tách mình ra khỏi tiếng nói cố hữu của tư lợi và hướng tới một quan điểm phổ quát mà từ đó phúc lợi của tất cả mọi người cũng quan trọng như lợi ích của chính mình. Đó là, chúng ta phải vượt xa thái độ vị kỷ và vị chủng mà chúng ta hiện đang theo đuổi, và thay vào đó, chúng ta phải chấp nhận một “đạo đức lấy thế giới làm trung tâm” ưu tiên cho hạnh phúc của tất cả mọi người.

 

Một nền đạo đức lấy thế giới làm trung tâm như vậy nên được hình thành dựa trên ba hướng dẫn, phương thuốc giải độc cho ba gốc rễ bất thiện:

1. Chúng ta phải vượt qua lòng tham bóc lột bằng sự hào phóng, giúp đỡ và hợp tác toàn cầu.

2. Phải thay lòng hận thù và hành động trả thù bằng chính sách nhân ái, bao dung, tha thứ.

3. Chúng ta phải nhận ra rằng thế giới của chúng ta là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau, đan xen lẫnnhau, thế nên một hành vi vô trách nhiệm ở bất cứ đâu đều có những hậu quả tai hại tiềm tàng ở mọi nơi.

 

Những hướng dẫn này, được rút ra từ lời dạy của Đức Phật, có thể tạo thành hạt nhân của một nền đạo đức toàn cầu mà tất cả các truyền thống tâm linh vĩ đại trên thế giới đều có thể dễ dàng tán thành.

 

Làm cơ sở cho nội dung cụ thể của đạo đức toàn cầu là những thái độ nhất định của trái tim mà chúng ta phải cố gắng thể hiện cả trong cuộc sống cá nhân và trong chính sách xã hội. Đứng đầutrong số này là tâm từ và bi (maitri và karuṇā). Qua tâm từ, chúng ta nhận ra rằng mỗi chúng ta đều mong muốn được sống hạnh phúc và bình yên, nên tất cả chúng sinh cũng đều mong muốn được sống hạnh phúc và bình yên. Thông qua lòng bi mẫn, chúng ta nhận ra rằng cũng giống như mỗi chúng ta đều không thích đau đớn và khổ sở, thì tất cả những người khác cũng không thích đau đớn và khổ sở. Khi hiểu được cốt lõi chung của cảm giác mà chúng ta chia sẻ với mọi người, chúng ta sẽ đối xử với người khác bằng lòng tốt và sự quan tâm mà chúng ta mong muốn họ đối xử với mình. Điều này phải được áp dụng ở cấp độ cộng đồng cũng như trong các mối quan hệ cá nhâncủa chúng ta. Chúng ta phải học cách nhìn nhận các cộng đồng khác về cơ bản giống với cộng đồng của chúng ta, được hưởng những lợi ích giống như chúng ta mong muốn đối với nhóm mà chúng ta thuộc về.

 

Lời kêu gọi về một nền đạo đức lấy thế giới làm trung tâm này không bắt nguồn từ chủ nghĩa lý tưởng đạo đức hay mơ tưởng, mà dựa trên một nền tảng thực dụng vững chắc. Về lâu dài, theo đuổi lợi ích cá nhân hạn hẹp của chúng ta trong các phạm vi ngày càng mở rộng là làm suy yếu lợi ích lâu dài thực sự của chúng ta; bởi vì bằng cách áp dụng cách tiếp cận như vậy, chúng ta góp phần vào sự tan rã xã hội và tàn phá hệ sinh thái, do đó chặt bỏ cành cây mà chúng ta đang ngồi. Cuối cùng, đặt lợi ích cá nhân hẹp hòi vào lợi ích chung là thúc đẩy lợi ích thực sự của chính chúng ta, vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự hài hòa xã hội, công bằng kinh tế và môi trường bền vững.

 

Đức Phật nói rằng trong tất cả mọi thứ trên thế giới, thứ có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất cả tốt lẫn xấu chính là tâm. Hòa bình đích thực giữa các dân tộc và các quốc gia phát triển do từ hòa bình và thiện chí trong tâm hồn con người. Hòa bình như vậy không thể giành được chỉ bằng tiến bộ vật chất, bằng phát triển kinh tế và đổi mới công nghệ, nhưng đòi hỏi sự phát triển về đạo đức và tinh thần. Chỉ bằng cách thay đổi bản thân, chúng ta mới có thể biến đổi thế giới của mình theo hướng hòa bình và hữu nghị. Điều này có nghĩa là để loài người có thể cùng nhau chung sống hòa bình trên hành tinh đang bị thu hẹp này, thách thức không thể tránh khỏi đối với chúng ta là hiểu và làm chủ được chính mình.

 

Chính ở đây mà lời dạy của Đức Phật trở nên đặc biệt hợp thời, ngay cả đối với những người chưa sẵn sàng đón nhận toàn bộ đức tin và giáo lý Phật giáo. Khi chẩn đoán những ô nhiễm tinh thần là nguyên nhân cơ bản của đau khổ của con người, giáo lý cho chúng ta thấy gốc rễ tiềm ẩn của các vấn đề cá nhân và tập thể của chúng ta. Bằng cách đề xuất một con đường rèn luyện đạo đức và tinh thần thực tế, giáo lý cung cấp cho chúng ta một phương thuốc hiệu quả để giải quyết các vấn đề của thế giới ở một nơi mà chúng ta có thể tiếp cận trực tiếp: trong tâm trí của chính chúng ta. Khi chúng ta bước vào thiên niên kỷ mới, giáo lý của Đức Phật cung cấp cho tất cả chúng ta, bất kể niềm tin tôn giáo của chúng ta, những hướng dẫn mà chúng ta cần để làm cho thế giới của chúng ta trở thành một nơi hòa bình và dễ sống hơn.

 

Bikkhu Bodhi- Vô Minh dịch

Ghi chú của người dịch

 

* Đây là bài diễn văn do Hòa Thượng Bodhi đọc trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 15-5-2000, lần đầu tiên Liên Hiệp Quốc tổ chức Lễ kỷ niệm Vesak. Trước đó, vào ngày 15 tháng 12 năm 1999, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua nghị quyết 54/115, với tiêu đề 'Công nhận quốc tế Ngày Vesak tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc và các văn phòng khác của Liên Hiệp Quốc'.

Hòa thượng Bodhi sinh năm 1944 tại Thành phố New York. Ngài nhận bằng Cử nhân Triết học tại Đại học Brooklyn (1966) và bằng Tiến sĩ về triết học từ Claremont Graduate School (1972). Cuối năm 1972, ông đến Sri Lanka, nơi ông được xuất gia với tư cách là một tu sĩ Phật giáo dưới thời cố Trưởng Lão Balangoda Ānanda Maitreya Mahanāyaka Thera. Từ năm 1984 đến 2001, Ngài là biên tập viên của Hiệp hội Xuất bản Phật giáo ở Kandy, và từ năm 1988, Ngài là chủ tịch của Hiệp hội. Ngài là tác giả, dịch giả, chủ biên nhiều sách về Phật giáo Nguyên thủy.

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin