Chi tiết tin tức

Hành trình về núi Yên Tử (ký sự của Kiếm Hồ - Nguyễn Thế Hữu, 1926)

14:07:00 - 27/12/2025
(PGNĐ) -  Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng, gắn liền với núi Yên Tử. Tại đây trước khi Hương Vân Đại Đầu-Đà hiển đạo, chư Tổ đã ẩn cư tu tập, với chiều dài lịch sử lâu đời. Hơn trăm năm trước, hành hương về Yên Tử đã là nếp của Phật giáo đồ Việt Nam. Và cả giới trí thức Nho học lẫn Tây học đầu thế kỷ trước vẫn xem Yên Tử là chốn linh địa của dân tộc, đời người phải thăm viếng ít lần mới un đúc cho khí chất người Việt.

Ảnh: Trần Nguyên Hải

Nhân về giêng hai, ngày rộng tháng dài, tôi được đi chơi Yên Tử, trước là chiêm ngưỡng Phật Tổ, sau là đi xem phong cảnh. Cho hay đâu cũng là non xanh nước biếc, nhưng mà mỗi cảnh một khác. Như nước ta, chốn Hương Sơn là nơi tịch mịch u thâm, Sài Sơn là nơi bán thành thị bán lâm tuyền, mà cảnh Yên Tử sơn này là nơi bồng lai tiên cảnh và là chốn Cực lạc Phật độ.

Dòng nước trong xanh, hòn đá bạc phếch mà không có người tu hiển đạo ở trong, dẫu rằng sơn thủy hữu tình, mà vẫn không có cái tinh thần ẩn hiện. Tôi được đi đến nơi, về đến chốn, cỏ hoa trăm thức, đã thu vào trong khóe mắt, tưởng cũng nên cầm bút viết ra để góp một vài phần, gọi là cái quà đi Yên Tử về để biếu những người có lòng ước ao mà chưa rảnh đi được và những người ngại ngùng đường sá xa xôi không dám đi đến.

Xưa kia thủy lục chưa tiện tàu bè, sơn động còn lấp gai cỏ, mà cổ nhân đã lên núi Yên Tử này để tu hành, không hay các cụ tìm đến nơi, dầu dãi tháng ngày là bao, mà bây giờ ta vừa đi, vừa thong thả có sáu ngày mà thôi.

Ngày mùng 4 tháng 2 năm Khải Định thứ 5 (1920) tôi được đi theo song thân tôi cùng ông cụ Hoàng Xuân Sơn là người làng Xuân Cầu (Bắc Ninh) là bạn thân phụ thân tôi và ông cụ Nguyễn Văn Ân, người làng Khương Đình Hạ (Hà Đông). Em trai tôi là Thế Trung có đem máy ảnh đi theo cùng ba người nhà. Trong chùa Vân Tiêu, sư cụ có cho chú tiểu Đỗ Niêm ra đón để đưa đường.

Đi vòng quanh hết trái đồi chùa Bí, đến đây tuy đường đi khi lên khi xuống gập ghềnh, nhưng cũng còn dễ đi, ngót một tiếng đồng hồ tới một chỗ kia nghe rào rào trước mặt tựa hồ như khúc đê vỡ năm nào, vì từ lúc vào tới đây chưa qua chỗ nào như vậy.

Rảo chân đi tới nơi, đấy là suối Tắm, một tên nữa là Cửa Ngăn. Ngọn suối này là nơi khi Đức Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông vào Yên Tử tu, qua đây ngài tắm, nên gọi là suối Tắm, còn miếu thờ cạnh bên để giữ cửa rừng nên gọi là Cửa Ngăn.

Lội qua cái suối này, lần lượt đến sáu suối nữa, đi dưới chân núi, xa xa ngẩng lên, đã trông thấy ngọn chùa. Phất phơ một vài cái nón lá, trong rừng chú tiểu cầm dao đốn củi, lác đác dăm ba nóc nhà tranh.

Một ngọn chùa cao, bốn bề thông mọc, đi tới chân núi, trèo lên cái dốc, mới đến cổng chùa, đây là chùa Linh Nham, chùa Cầm Thực cũng là đây. Truyền rằng Đức Giác hoàng vào đến đây chỉ uống nước suối trừ cơm nên gọi là Cầm Thực.

Bọn tôi nghỉ ở chùa Cầm Thực một đêm. Sáng ngày mùng 5 thượng sơn, phải chống gậy từ đây. Được đội cái nón lá ba xu, chống cái gậy trúc năm đồng, gió thổi hoa cười, nước chảy suối reo, lững thững đi trong rừng, chốc lại thấy mặt trời vén đám mây dòm xuống. Lại qua ba cái suối, rồi một lát đến suối Thả Bè.

Qua chỗ này đến suối Lân, ngọn suối này cũng to mà chảy riết lắm, rẽ bên tay phải, bước rảo lên lối vào thông mọc, bực đá đi giữa, ngoài cổng có cái miếu lợp bàn thờ bà Cửa có pho tượng con con, hai hàng tháp Tổ, cái lớn xây trên, cái nhỏ xây dưới lần lần một lượt, trông rất là trang nghiêm. Ngọn tháp cổ, gốc thông già, mới đến cổng chùa, trông thấy cái cảnh tượng thiền lâm như vậy, cũng đủ biết ấy là nơi phúc địa.

Tác giả cùng các khách hành hương tại suối Giải Oan - Ảnh tư liệu của Kiếm Hồ
Tác giả cùng các khách hành hương tại suối Giải Oan - Ảnh tư liệu của Kiếm Hồ

Chùa đây là Long Đỗng, bên cạnh chùa có hòn núi hình như con lân, nhân thế gọi nôm na là chùa Lân. Chùa làm bằng gỗ, tượng pháp nguy nga, đây có thờ ba tượng Trúc Lâm Tam tổ. Lễ bái xong, sư cụ mời vào phương trượng uống nước và có nói chuyện rằng: “Chùa Lân trước cũng vui lắm, từ năm Quý Dậu (1872) quan Tây về đóng đồn, cho nên sư đã bỏ đi mất một độ, mãi đến năm Nhâm Dần (1901), lại có sư về nhận cảnh”…

Ở chùa Lân ra đi, chỗ này không phải trèo như trước, nắng ráo dễ đi lắm, nhưng mà có một điều lấy làm kỳ là lối đi làm sao cứ trùng trũng lòng mo mà lại nhẵn nhụi như bào, tôi hỏi cụ Hoàng Xuân Sơn rằng tại làm sao đường đi như vậy, vì ông đã có đi qua nhiều lần rồi. Ông cụ nói: “Người ta hạ gỗ trong rừng, rồi cho trâu kéo ra, mình cây gỗ tròn, kéo sát mãi vào lối đi, cho nên lối đi trũng xuống và nhẵn”.

Đường đi ở giữa, trên thì một thứ cây hoa đào mới nở, bên cạnh thì dòng nước khe róc rách như đàn. Từ chùa Lân đến chỗ này qua hai ngọn suối, rồi đến một cái cầu bắc hai cây gỗ con con… Thầy trò đỗ gánh đây ngồi nghỉ ăn thuốc, uống nước, trông thấy dòng suối mát mẻ trong khe chảy ra, ai là người chẳng vui con mắt, bèn rủ nhau ra rửa mặt. Nhân cùng ngồi đấy, tôi đọc một câu rằng: “Ngồi đây rửa mặt cùng non nước”. Vừa đọc xong, cụ Hoàng Xuân Sơn ứng khẩu đối ngay rằng: “Đi nữa vui chân với cỏ hoa”. Tôi lại nói đùa rằng: “Cứ như câu này thì cụ còn đi Yên Tử một vài lần nữa”.

Đi một đoạn nữa lại qua một cái suối rồi đến con đường vào Mật lộn. Ta đi vào Yên Tử phải có ý, đến chỗ này lối đi rẽ làm hai ngả, cứ tay trái đi thẳng vào Giải Oan, quàng sang bên tay phải là lối vào chợ Yên Châu, ấy là đường Mật lộn. Tôi không vào đấy, nhưng tục truyền rằng ai đi lầm vào lối đấy không chết thì cũng không ra được, vì lối vào đi thăm thẳm mà dốc ngược người lên cho nên gọi là Mật lộn.

Qua cái suối thứ 9, chỗ này hai ngọn nước đổ dồn lại, một ngọn trên Yên Tử xô xuống, một ngọn trong rừng chảy ra, thấy chú tiểu nói chuyện rằng đây mà gặp cơn nước lớn thì chảy như thác, người qua lại không được. Qua chỗ này thì thừ lừ quả núi Voi Sô, chạy đến chắn ngang trước mặt, dưới chân núi có cái bãi. Tục truyền ngày xưa vua Trần Anh Tông vào Yên Tử vấn an Đức Giác hoàng, kiệu đi đến chỗ đây thì đỗ…

Đến suối Giải Oan, cái suối này nhiều hòn đá lớn mà nước thì đỏ, vì suối cạnh rừng lim nên nước suối này với suối Rêu trên kia không ai uống, cũng một dòng nước nhưng mà chảy ra quá ngoài này đã loãng bớt đi rồi, duy chỉ có suối trước cửa chùa Cầm Thực trông xuống vừa trong lại vừa ngọt.

Ngày xưa Đức Giác hoàng nhường ngôi cho vua Trần Anh Tông để vào Yên Tử, vua Anh Tông cố giữ ngài ở lại cũng không được, sau vua bắt các cung tần mỹ nữ đi theo mà khuyên ngài về. Đến nơi cũng không thể sao mà nói đổi được chí ngài, các cung nhân đàng nào cũng khó nghĩ, về thì sợ trái lệnh vua, đành liều đâm đầu xuống cả cái suối này mà thác. Vì thế Đức Giác hoàng lập chùa ở đây để làm chay siêu độ cho cung nhân, bởi thế nên gọi là suối Giải Oan. Tôi thấy phụ thân tôi kể lại như vậy, nghĩ mà cảm động trong lòng, nên tôi lội qua suối có đọc hai câu rằng: “Giải hết tấm lòng ngay với chúa. Oan theo dòng nước sạch cùng vua”. Ngọn suối này đẹp lắm, cây dòm mặt nước, đá lát lòng khe, tưởng Võ Lăng, Đào Nguyên cũng vậy.

Qua một rặng thông là quán Lò rèn. Rồi đi đến quán Mát là dốc Voi Sô, chỗ này cây cối rườm rà, cũng là nơi nghỉ kiệu xưa kia, hòn núi Ngọc ở ngay cạnh, đấy có ba ngọn tháp Tổ…

Tại Huệ Quang kim tháp, năm 1920 - Ảnh tư liệu của Kiếm Hồ
Tại Huệ Quang kim tháp, năm 1920 - Ảnh tư liệu của Kiếm Hồ

Chốc đã đến Huệ Quang kim tháp, là tháp Đức Giác hoàng, xây tường bốn bên, trước sau có hai cửa tò vò, trong tháp có pho tượng đá, ngoài xây một cây hương, còn tháp lớn nhỏ 45 ngọn, vừa các sư cùng tôn thân, hoàng hậu, cung phi nhà Trần tu ở đây ngày xưa xây bọc chung quanh. Chui qua cửa sau tháp Tổ đến cái sân lát bằng gạch Bát Tràng đỏ, mà viên gạch trông rất lạ lùng. Tôi đi từ ngoài vào, thiếu gì thiên tạo, địa thiết, nhân công, duy chỉ có cái sân này viên gạch tựa hồ ta đem chạm trổ vào, mà từ đời nhà Trần đến nay hơn 700 năm, không viên nào sứt.

Vào đến đây bước thẳng lên là chùa Hoa Yên, tục gọi chùa Cả, hay chùa Yên Tử cũng là đây. Theo sách Tam Tổ thực lục, trước là chùa Vân Yên, năm Lê Hồng Đức vua có đi đến đây, nhân thấy non nước vui vẻ, hoa cỏ tốt tươi, mới đổi là Hoa Yên.

Đứng ở sân chùa Hoa Yên mà trông ra, thiên sơn vạn thủy chầu vào, thực là một chốn kỳ quan… Cả ngày sư cụ chỉ ngồi trong phòng riêng, ai đến lễ Phật đã có cái cửa sổ, ngồi ngoài nói chuyện vào. Sư cụ bây giờ đã trạc ngoài 60 tuổi, người thích làm thơ lắm, chốn non xanh mấy người biết cái thú vị phong nhã ấy làm bạn tao đàn, nào hay ông cụ Hoàng Xuân Sơn ở thành phố đã có tiếng hay thơ và giọng tốt, đối với sư cụ đây lại là người quen. Nhờ được cái tình tương tri ấy nên bọn tôi mới được hầu trà.

Khỏi chùa Hoa Yên rẽ ngay lên là chùa Bảo Đà. Tôi không lên chùa Một Mái và chùa Thiền Định vội. Lối đi từ đây lại khó hơn trước, chỗ thì cao dựng đứng, chỗ thì võng dây diều. Bọn tôi đi một quãng đến tháp Mẫu (đây còn lối ra am Thuốc), chỗ này có một ngôi tháp bia đã nhòa cả chữ, không biết là vị gì, cứ thấy truyền lại là tháp của Mẫu. Đến đây tôi cứ lối tay trái thẳng lên cho tới Vân Tiêu, lối này dễ đi nhưng xa hơn nửa giờ.

Nghỉ ngơi cơm nước xong, tối lên chùa lễ Phật, chùa Vân Tiêu bằng lá nhưng tượng pháp trang nghiêm hơn cả, trong thờ Tam bảo, bên Đức Chúa, bên Đức Thánh Trần, ông Khải giáo bày hương án giữa ở ngoài, trong thì Tam Tổ Trúc Lâm, hai bên Bát bộ Kim cương và Thập điện Minh vương… Ngủ một đêm, sáng mai cơm nước xong, chờ sương tan mới thu xếp lên chùa Đồng.

Dấu ấn tâm linh và thời gian Yên Tử - Ảnh: Trần Nguyên Hải
Dấu ấn tâm linh và thời gian Yên Tử - Ảnh: Trần Nguyên Hải

Lên đến chùa Đồng là đỉnh Yên Tử, chỗ giữa vuông ước bốn chiếc chiếu, xây lên cái bệ, chung quanh đá mọc lởm chởm, trên thờ pho tượng Đức Quan Âm và ba pho tượng Tam Tổ Trúc Lâm mà thờ lộ thiên. Tôi hỏi ra trước cổ nhân có làm ngọn chùa bằng đồng, che mấy pho tượng, nhưng đã hư nát mất cả, duy chỉ còn mấy cái lỗ đá trước xây chân cột còn dấu tích, bởi thế nên gọi là chùa Đồng. Về sau đây bà Bá Lồng lại đem cúng bình hương, mâm bồng bằng đồng, một quả chuông, một cái khánh và cái khung chùa bằng sắt lợp đồng, nhưng mà gió trên này dữ lắm, cái chùa bay mất cả mái, bây giờ mới khiêng sang để bên cạnh.

Cả buổi chiều hôm ấy hạ sơn nghỉ lại chùa Vân Tiêu, tôi bảo chú tiểu đưa tôi vào rừng trúc hoa để kiếm mấy cái gậy, cũng cứ theo lối lên chùa Đồng đi độ một quãng rẽ vào, chỉ riêng một khu này có trúc hoa mà thôi, còn trúc xanh có kể hàng rừng. 

Đã đi Yên Tử phải biết sự tích làm sao, non xanh nước biếc phải nhận cho rõ cái chân hình ở trong, có hiểu được thì mới gọi là đành lòng tu.

Kiếm Hồ - Nguyễn Thế Hữu

(trích từ tạp chí Nam Phong, số 105-106, năm 1926)

Nguồn: GNO

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin