Chi tiết tin tức

Hệ thống biểu tượng Phật giáo trên Tạp chí Vạn Hạnh

19:49:00 - 25/02/2024
(PGNĐ) -  Với tiêu đề Hệ thống biểu tượng Phật giáo trên Tạp chí Vạn Hạnh, người viết thông qua việc giới thiệu, thống kê và giải mã các biểu tượng thường nói đến trong các bài thơ của Tạp chí Vạn Hạnh như: Hoa sen, chữ vạn, bánh xe pháp luân, ngọn lửa, mặt trời, đám mây,… Đồng thời, phát hiện góc nhìn mới mẻ về thơ 1956-1965 chỉ ra giá trị nội dung và nghệ thuật của văn học Phật giáo hiện đại, giúp người tiếp cận có góc nhìn chuyên sâu về giáo lý Phật giáo và thơ ca Phật giáo ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.

TẠP CHÍ VẠN HẠNH
Nói về vai trò của Phật giáo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tác giả Nguyễn Lang viết trong Việt Nam Phật giáo sử luận: “Tâm hồn nặng trĩu đau thương và tang tóc, Phật tử đổ xô về chùa để tìm nguồn an ủi. Đau thương càng nhiều thì đức tin tôn giáo càng mạnh. Biến chuyển càng nhiều thì giáo lý vô thường càng được nhìn nhận rõ ràng. Phật giáo thời gian ấy là Phật giáo của niềm an ủi vỗ về, là giọt nước từ bi trên nhành dương liễu” [1, tr.160].

(Ảnh: tác giả cung cấp)

Tạp chí Vạn Hạnh ra đời năm 1967 và đình bản năm 1975. Bộ Tạp chí Vạn Hạnh do Thư viện Huệ Quang phục chế, tái bản vào năm 2014. Khi giới thiệu về bộ tạp chí, Hòa thượng Thích Không Hạnh đã nói: “Vạn Hạnh có 4 số đôi là 8&9, 13&14, 20&21, 23&24; hai số 1 là 1 thượng và 1 hạ. Như vậy, nếu thật sự số 25 đã được xuất bản thì Vạn Hạnh có tổng cộng 26 số. Khổ báo 16×24 cm, mỗi số dày từ 150-300 trang” [2]. Trong đó có hơn 40 bài thơ mang nội dung chuyên sâu về tư tưởng Phật giáo và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, mang âm hưởng trang trọng, thiết tha, đi sâu vào lòng người.

Thơ trên Tạp chí Vạn Hạnh đăng tải trên các số xuất bản từ năm 1965 đến 1975 ở miền Nam Việt Nam. Đấy là sự tiếp nối mạch văn học Phật giáo từ thời tiền chiến, từ cận đại đến hiện đại. Tác giả cho rằng, những bài thơ Phật giáo trên Tạp chí Vạn Hạnh có thể lý giải thêm từ góc nhìn biểu tượng học để độc giả hiểu hơn về văn học Phật giáo giai đoạn trước năm 1975.

(Ảnh: tác giả cung cấp)

BIỂU TƯỢNG
Thuật ngữ “biểu tượng” đã xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại. Nhưng đến cuối thế kỷ XVIII, thuật ngữ này mới xuất hiện nhiều ở các ngành khoa học như: tâm lý học, logic học, văn học… và các ngành mỹ học như: hội họa, điêu khắc,… Biểu tượng (symbol) là thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử dụng và giải thích khác nhau. Khái niệm về biểu tượng khá quen thuộc nhưng lại rất phức tạp.

Với tiêu đề Hệ thống biểu tượng Phật giáo trên Tạp chí Vạn Hạnh, người viết thông qua việc giới thiệu, thống kê và giải mã các biểu tượng thường nói đến trong các bài thơ của Tạp chí Vạn Hạnh như: Hoa sen, chữ vạn, bánh xe pháp luân, ngọn lửa, mặt trời, đám mây,… Đồng thời, phát hiện góc nhìn mới mẻ về thơ 1956-1965 chỉ ra giá trị nội dung và nghệ thuật của văn học Phật giáo hiện đại, giúp người tiếp cận có góc nhìn chuyên sâu về giáo lý Phật giáo và thơ ca Phật giáo ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.

Vậy biểu tượng là gì? Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: trong nghĩa rộng biểu tượng thể hiện “đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật”; theo nghĩa hẹp, biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của lời nói” đặt cạnh ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt “có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời” [3].

Biểu tượng trong thơ là những hình ảnh, sự vật, hiện tượng, âm thanh,… có thật trong cuộc sống, được lưu giữ lại trong ký ức hoặc trí nhớ của con người và sáng tạo nghệ thuật. Hệ thống biểu tượng trong Tạp chí Vạn Hạnh được các nhà thơ sử dụng phong phú và sinh động, tiêu biểu như: Con người, hoa sen, mặt trời, ánh sáng, ngọn lửa, dòng sông, ngọn núi, mây, gió, trăng, sao,… hoặc thanh âm cuộc sống như: tiếng chim hót, tiếng chuông chùa, tiếng gà gáy, tiếng súng đạn,… cùng những thứ có mặt trên thế gian.

BIỂU TƯỢNG HOA SEN
Hoa sen mang vẻ đẹp thuần khiết, mỏng manh nhưng đầy sức sống. Dù sống trong bùn nhưng hoa sen vẫn vươn lên thẳng tắp, tỏa hương thơm ngát khắp thế gian. Trong thơ ca, nghệ sĩ thường ví hoa sen với những đức tính của con người Việt Nam, như: nhẫn nại, ngay thẳng, sức sống bất diệt. Đây cũng là loài hoa được tôn làm quốc hoa Ấn Độ,… và trồng ở nhiều nơi trên thế giới. Hoa sen là biểu tượng cho những đức tính tốt của nhân sinh. Trong bài thơ Mơ đêm thành đạo trên Tạp chí Vạn Hạnh, nhà thơ Huyền Không đã lấy biểu tượng hoa sen làm ý nghĩa tượng trưng cho sự kiện thành đạo của Đức Như Lai:
“Rũ sạch trăng năm gió bụi đường
Mơ đêm thành đạo ngát hoa hương
Trăng sao góp lại xây thành quách

Dựng một đài sen bằng mến thương” [tr.8. 4].

Khi con người có thể rũ sạch bụi trần, tâm sẽ tịnh trong. Tâm tịnh trong được so sánh với vẻ đẹp tao nhã của hoa sen. Vì vậy, hoa sen là biểu tượng cho sự giác ngộ thanh tịnh. Hoa sen còn là loại cây mọc lên từ bùn, biểu tượng cho vô nhiễm với mùi thơm nhẹ nhàng tượng trưng cho sự thanh khiết; hoa sen chỉ sáng nở, tối tàn tượng trưng cho sự vô thường và nụ-hoa-đài-hạt của hoa sen tượng trưng cho nhân quả. Cho nên “Đức Phật Thích Ca dùng nó đặt tên các bộ kinh lớn như Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, để dụ diệu pháp với liên hoa” [tr.17. 5].

Theo giáo lý Phật giáo, sống chết là quá trình tương tục, không có khởi đầu và kết thúc, trừ khi các bậc giác ngộ có khả năng đoạn trừ vòng sinh tử luân hồi liền ngồi trên đài sen. Còn những người đang tu tập được ví như búp sen. Hiện nay, các vị xuất gia và tại gia gặp nhau thường chắp tay xá chào, với ý nghĩa “Sen búp xin tặng người một vị Phật tương lai”. Điều đó thể hiện hiện ý nghĩa “đài sen” chính là biểu tượng triết lý vô ngã, sống giữa “bụi đường” mà vô nhiễm, người có thể đạt trạng thái đó gọi là giác ngộ, giải thoát.

Tư tưởng phương Đông xem hoa sen “tượng trưng cho sự phát triển tâm linh. Các tín đồ Phật giáo tin rằng sự phát triển tâm linh được biểu hiện qua hình ảnh hoa sen. Mọc lên từ bùn, gốc rễ của hoa đại diện cho đời sống thế tục. Cuống hoa, vươn lên mặt nước, ngụ ý những kinh nghiệm có được trong quá trình phát triển. Cuối cùng là hình ảnh đóa sen tuyệt đẹp đón nhận ánh mặt trời, hình ảnh tượng trưng cho sự giác ngộ” [6]. Từ đó, hoa sen tỏa mát khắp nhân thế, ung dung tĩnh tại giữa vô thường.

(Ảnh: tác giả cung cấp)

BIỂU TƯỢNG MÁI CHÙA
Từ lâu hình ảnh mái chùa đã trở nên quen thuộc, gần gũi với tâm thức người Việt Nam. Mái chùa đã trở thành một bộ phận hữu cơ gắn liền với văn hóa tinh thần, sinh hoạt làng xã không thể tách rời, mà “văn hóa là hình thức sống còn của dân tộc. Dân tộc nào bị mất hết đặc tính của văn hóa thì dù có sống còn cũng khó có thể tiến bộ được” [7]. Xin mượn ý từ hai câu thơ trong bài thơ Nhớ chùa của Hòa thượng Mãn Giác để nói rõ hơn ý nghĩa của biểu tượng mái chùa:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc.
Nếp sống muôn đời của Tổ tông” [8].

Câu thơ đã khẳng định giá trị to lớn của mái chùa gắn bó bao thế hệ. Mái chùa từ lâu đã trở thành trường học, nơi vui chơi của trẻ, là nơi gìn giữ nền văn hóa dân tộc. Vì thế, mái chùa là nơi nuôi dưỡng đời sống tinh thần và vật chất. Giá trị to lớn ấy, một lần nữa được nhà thơ Phổ Đức thể hiện trong bài thơ Hướng về chân như trên Tạp chí Vạn Hạnh.
“Ánh đạo vàng dâng lên như sóng chiều lượn khúc
Chiếu từ Thiền môn đến cõi U minh” [9].

Không phải tự nhiên mà nhà thơ Nguyễn Phố đã đặt ngang biểu tượng ngôi chùa với núi sông trong bài thơ Kỷ niệm Thành đạo, muốn nói đến ngôi chùa có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ non sông đất nước, là nguồn sống của nhân sinh.
“Nhưng vẫn còn núi còn sông, còn chót vót mãi ngôi chùa

Lẽ thường: Ngôi chúa, ngôi vua
Dựng trên tiếng súng phái tiêu vong dưới đạn.
Chỉ còn lại tinh thần nhân bản,

Vằng vặc núi sông, chót vót ngôi chùa!” [10].

“Chót vót ngôi chùa” mang nghĩa đen là hình ảnh ngôi chùa cao lớn và nghĩa bóng là niềm tin chánh pháp trường cửu, cao sâu của người con Phật. Bởi “con người ta ở đời, kiếp sống thì có hạn mà sự hiểu biết thì vô hạn, cho nên đem tâm tín ngưỡng, tất phải trải qua thử thách hành bao nhiêu năm thì sự tin đó mới được chắc chắn vững vàng”.

BIỂU TƯỢNG TRÍ TUỆ: TIẾNG CHUÔNG
Trí tuệ tiếng Phạn dịch Prajna, tiếng Trung dịch Bát nhã là sự hiểu biết rõ ràng và đúng đắn, thấu triệt các pháp trên thế gian. Trí tuệ chia làm hai loại là trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thế gian. Trong Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Hòa thượng Thích Minh Châu đã viết: “Mục đích của Đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc… và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ” [11].

Chuông tiếng Phạn gọi là Ghantā, người Hoa dịch là chung, khánh, là một pháp khí quan trọng trong Phật giáo. Chuông là một loại nhạc cụ, được đúc bằng kim loại đồng, phát ra âm thanh trầm bổng, ngân nga. Các tự viện thường dùng tiếng chuông làm thước đo thời gian, mỗi lần tiếng chuông vang lên cũng là hiệu lệnh của ngôi già lam, quý thầy cần chấp hành theo công việc quy định.

Những bài thơ trên Tạp chí Vạn Hạnh ngoài những hình ảnh mang tính biểu tượng còn có âm thanh mang tính biểu tượng, đó là tiếng chuông, tiêu biểu như bài thơ Chuông chùa Diệu Đế:
“Huế Đô sợi tóc buộc ngàn cân;
Sườn núi mở tung gan Phật tử
Lòng sông nghẹn uất máu lương dân.
Nhưng chùa Diệu Đế còn cao vút

Chuông khuya mười góc biển trầm luân

Huế Đô sợi tóc buộc ngàn cân?” [12].

Đầu bài thơ Vết chữ trăng sao, nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967) đã dùng biểu tượng tiếng chuông nói lên lời cảm thán:
“Ôi tiếng chuông nào
Chở đầy nước mắt hoa sen?
Dòng nước mắt trôi, sáng ngời tinh tú

Ba ngàn thế giới chao nghiêng” [10].

Tiếng chuông có công năng thức tỉnh vạn loài, hướng về lẽ chân thật, thoát khỏi mê lầm, không còn vô minh tăm tối. Tiếng chuông trong bài thơ Vết chữ trăng sao mang nỗi buồn tâm trạng của nhà thơ Đinh Hùng trước thời cuộc thịnh suy, thể hiện qua hình ảnh đầy tính liên tưởng, “nước mắt hoa sen” là giọt nước mắt của những người đệ tử Phật, giọt nước mắt ấy trôi đến nơi nào làm “sáng ngời tinh tú” ở nơi đó.

BIỂU TƯỢNG ÁNH SÁNG
Nếu bóng tối tượng trưng cho cái chết, sự tối tăm, vô minh thì ánh sáng tượng trưng cho sự sống, hy vọng, nhận thức, trí tuệ. Muốn diễn đạt một ý niệm trừu tượng về ánh sáng, tác giả thường sử dụng những hình ảnh cụ thể như: ánh sáng mặt trời, ánh sáng nội tâm,… Trong Tạp chí Vạn Hạnh có bài thơ Triêu dương của Trụ Vũ dùng biểu tượng của ánh sáng để nói lên biểu tượng ước mơ về một tương lai tươi sáng.
“sáng mai, mặt trời mọc
trong ánh sáng diệu huyền của tâm linh
trên cành xoài lá xanh đông phương
những con kiến hành hương về
ánh sáng

khởi điệu tình ca” [13].

Hai chữ “Triêu dương” theo Từ điển Hán Nôm giải thích nghĩa là mặt trời ban mai, mặt trời mới mọc, hướng về ánh mặt trời, tương tự với “hướng dương”. Nhà thơ Trụ Vũ lấy ánh sáng làm biểu tượng của bài thơ, qua hình ảnh “ánh sáng mặt trời của buổi sớm mai trong veo, nhẹ nhàng, ánh sáng của sự sống và ánh sáng diệu huyền của tâm linh” soi đường cho nguồn tâm. Hình ảnh “những con kiến hành hương về ánh sáng” là hình ảnh biểu tượng cho những người đang rời xa tăm tối tìm về nẻo giác.

Bởi si mê lầm lạc mà con người quên đi những giá trị nhân sinh cao cả, chạy theo vật chất bên ngoài, rồi những thứ giả dối mà cho là thực, để tự mình đánh mất giá trị đích thực của lẽ sống. Con người muốn dập tắt si mê, cố chấp, hẹp hòi, sân hận,… thì phải có trí tuệ. Thật vậy, trên thế gian này, nơi nào có ánh sáng nơi đó không còn tăm tối và trí tuệ được khai sáng. Ví như, ánh hào quang của Đức Phật sau khi người chứng ngộ đã chỉ cho con người giáo lý và đề chỉ cho con người tính bình đẳng: “Mọi người đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật.”

Trong bài thơ Mơ đêm thành đạo trên Tạp chí Vạn Hạnh, nhà thơ Huyền Không đã lấy biểu tượng hoa sen làm ý nghĩa tượng trưng cho sự kiện thành đạo của đức Như Lai:
“Rũ sạch trăng năm gió bụi đường
Mơ đêm thành đạo ngát hoa hương
Trăng sao góp lại xây thành quách
Dựng một đài sen bằng mến thương.”

BIỂU TƯỢNG CON ĐƯỜNG
Con đường là hình ảnh rất gần gũi trong cuộc sống con người, có hai ý nghĩa. Nghĩa đen là con đường thường ngày chúng ta đi, có con đường lớn con đường nhỏ; có con đường có tên cũng có con đường không tên; có con đường đã xây dựng hoàn thành cũng có con đường đang trên lộ trình xây dựng. Nghĩa bóng là con đường lý tưởng, con đường khát vọng, con đường tương lai, con đường bế tắc, con đường gian khó, con đường giải thoát,… trên mọi con đường điều phải in dấu chân qua.

Mỗi con đường có người tiên phong, có người khai sơn, phá thạch; cũng có người theo gót người đi trước và cứ thế vượt qua bao chướng ngại để đi đến đích; có người khi gặp gian nan biết rẽ lối; cũng có người chọn sai đường nhưng không biết quay đầu, rồi kiên nhẫn một đời đi, một đời lầm đường, một đời mê muội, kết quả chẳng gặt được gì ngoài hai chữ đau thương.

Con đường cũng là biểu tượng thường được nhắc đến trong thơ ca cách mạng Việt Nam, đó là: con đường lý tưởng, con đường cách mạng, con đường ký ức, con đường ra trận… thể hiện trong thơ ca cách mạng:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây” [14].

Có con đường chân lý trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” [15].

Trong thơ in trên Tạp chí Vạn Hạnh còn có con đường chân như, con đường giác ngộ, con đường hướng thiện, con đường diệt khổ,… và Tâm Minh Trần Tuấn Khải đã viết bài thơ có tựa đề Đường tu: 
“Đường tu rất thênh thang rộng rãi
Khách lên đường không ngại vướng chông gai
Đường tu bao quát đủ muôn loài
Không phân biệt giống nòi hay tuổi tác

Trên đường tu ta vẫn tiến không ngừng
Đường tu ngọn đuốc sáng trưng

Đường tu thênh thang rộng rãi” [tr.130. 16].

Giữa xã hội bất ổn liên miên vẫn còn có con đường rộng lối thênh thang, đó là con “đường tu”. Trước tình hình của đất nước trong chiến tranh, thơ ca Phật giáo nếu chỉ truyền tải thông điệp u buồn, bế tắc sẽ khiến nhiều người không tìm được con đường chân chính và mất niềm tin vào tương lai, cũng như lối thoát trong đời sống thực tại. Bài thơ, với thông điệp lành mạnh đã giúp người đọc rộng mở hiểu biết và xây dựng niềm tin yêu cuộc sống.

Biểu tượng con đường trong bài thơ Đường tu mang tính biểu trưng cao, gắn liền với cảm xúc và tư duy của nhà thơ để cảm nhận “Đường tu rất thênh thang rộng rãi”. Đường tu chỉ con đường tu học của người xuất gia và người tại gia. Dù trải qua bao biến cố, gian nan… hành giả tu học vẫn hân hoan với con đường mình đã chọn, sự hân hoan ấy được thể hiện ở câu thơ cuối, khi nhà thơ lặp lại câu “Đường tu thênh thang rộng rãi”.

Khi đọc Tạp chí Vạn Hạnh người đọc còn bắt gặp những bài thơ mang tính biểu tượng con đường, một cách mới lạ, đặc biệt trong bài thơ Ngăn cách của nhà thơ Doãn Quốc Sỹ (tập thơ Ác mộng).
“Tôi đi trên con đường đất
Con đường vụn nát, lạc lối, trường lên
như những con rắn nhỏ giữa cánh đồng rểnh nước
Con đường vụn nát, con đường vụn nát

Tôi phải bay mình lên cao

Bỏ lại dưới chân những khúc đường vụn nát” [17].

Biểu tượng con đường mà nhân vật “tôi” đang đi trong bài thơ Ngăn cách là con đường “vụn nát, lạc lối” nhưng dù đi trên con đường có bế tắc, hiểm nguy, khốn khó thế nào đi nữa thì cuối bài thơ, nhân vật “tôi” đã tìm ra lối thoát cho con đường ấy “Tôi phải bay mình lên cao/ Bỏ lại dưới chân những khúc đường vụn nát.”

Trên muôn vạn nẻo đường cũng thế, có con đường được trải lụa, nhưng cũng có con đường đầy hố chông và gai góc. Điều quan trọng đó là người đi trên đường không được mất ý chí. Khi và chỉ khi con người còn có ý chí, còn tìm thấy hướng sáng thì con đường dẫu có gian lao, khó nhọc,… cũng đi đến đích.

BIỂU TƯỢNG CHIẾC THUYỀN
Phật giáo tồn tại và phát triển rất lâu trên đất nước Việt Nam, vì thế trong thơ ca Phật giáo đã xuất hiện nhiều biểu tượng mang ý nghĩa như: hoa sen, ngôi chùa và thuyền – phương tiện đi lại gắn bó với sông ngòi nước ta. Nhắc đến biểu tượng chiếc thuyền trong thơ ca Phật giáo, người ta sẽ liên tưởng ngay đến người lái đò, người đưa sang sông, biểu trưng cho sự vươn lên, đạt được ước mơ hoài bão, mang vẻ đẹp của con người trước cuộc sống mưu sinh, lam lũ. Đây là biểu tượng nghệ thuật trong văn học, nói lên khát vọng sống và sự kiên trì của con người trước nghịch cảnh trái ngang.

Hình ảnh con thuyền trong bài thơ của tác giả Phổ Đức (1940-2013) là biểu tượng đặc sắc, ẩn chứa triết lý nhân sinh cao cả và nghệ thuật liên tưởng độc đáo. Chỉ qua ba hai câu thơ nhưng lại mở ra cho người đọc muôn vàng hiểu biết:
“Thuyền đời quằn-quại sông mê,
Tìm đâu bến ghé thấy bờ hồi-sinh?

Rửa sạch tiền căn – rực sáng Niết-bàn” [9].

Hình ảnh chiếc thuyền không phải là chiếc thuyền đưa người qua sông, không phải chiếc thuyền đơn thuần mà là “thuyền đời” chỉ cho đời người, giúp người đọc liên tưởng đến những kiếp người vì vô minh che mờ trí tuệ rồi tạo ra những việc ác,… Ngòi bút của thi sĩ Phổ Đức đã tạo nên chiều sâu không gian bến bờ và thời gian trầm luân trong cảnh luân hồi, mãi không thể “hồi sinh”. Nhà thơ khẳng định khi và chỉ khi con người có thể “rửa sạch tiền căn”, nghĩa là mọi nguyên nhân dẫn đến việc ác có thể đoạn trừ thì trí tuệ mới “rực sáng Niết-bàn.”

Khi chứng kiến những đau khổ trong cuộc sống hiện tại, nhà thơ đã nói lên ước mơ của mình về chiếc thuyền qua bài thơ Vết chữ Trăng sao của nhà thơ Đinh Hùng.
“Chúng tôi mơ
Làm những con thuyền đêm đêm chở hồn ra khơi” [18].

Niềm mơ ước thể hiện trong bài thơ của Đinh Hùng bắt nguồn từ xúc cảm, suy nghĩ ấp ủ bấy lâu. Qua đó thể hiện ước muốn “Làm những con thuyền đêm đêm chở hồn ra khơi” là biểu tượng chuyên chở tâm hồn muốn thoát ly thực tại. Sự thoát ly này không đơn điệu, chỉ một mình, mà còn muốn thoát ly cho những người khác vì có từ “những con thuyền”. Qua ước mơ, chúng ta nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Đinh Hùng là hướng con người về những chuẩn mực đạo đức, ước mơ hướng thiện chứ không phải những ước mơ tiêu cực.

KẾT LUẬN
Thơ mang tính chất ngắn gọn, cô đọng, có thể dùng ít lời mà chuyển nhiều ý, nên nghệ thuật biểu tượng trong thơ trên Tạp chí Vạn Hạnh được sử dụng linh hoạt, giúp nhà thơ thông qua ngôn ngữ có thể thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, phản chiếu tâm hồn, mà tạo ra những tác phẩm ý nghĩa. Sử dụng nghệ thuật biểu tượng giúp các bài thơ trở nên sinh động, cụ thể, đa hình, đa nghĩa, gợi hình, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả.

Những biểu tượng được phân tích trong thơ Tạp chí Vạn Hạnh giúp người đọc tìm thấy những hình ảnh thiên nhiên đất nước xinh đẹp, đầy sức sống và con người có ý chí, niềm tin vững chãi. Một số biểu tượng Phật giáo tiêu biểu thể hiện trên Tạp chí Vạn Hạnh như: Hoa sen, mái chùa, con thuyền, con đường… được các nhà thơ am hiểu Phật giáo như Vũ Hoàng Chương; Đinh Hùng; Nhất Hạnh, Trúc Thiên,… đã kỳ công sáng tác giải mã. Trong lĩnh vực văn học, thơ ca trên Tạp chí Vạn Hạnh đã tạo nên nét nghĩa hai mặt cho các biểu tượng, buồn nhưng không bi quan, chán nản nhưng không tuyệt vọng, thua cuộc nhưng cũng không lùi bước, tăm tối nhưng luôn hướng về ánh sáng.

 

Nguyễn Thị Thuý/TCVHPG417

 

Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Hồng Đức.
2. https://thuvienhuequang.vn/blogs/bai-viet/tap-chi-van-hanh
3. Kay Celtel, Helen Cleary, R.G.Grant,… Nguyễn Ánh Hồng dịch, Nhà văn cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Dân Trí.
4. Huyền Không, Mơ đêm thành đạo (8/26), Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, tái bản 2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
6. Vương Kim Phan Bá Cầm, Hoa sen với Đạo Phật (7/ 26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
7. Thái Đạo Thành (1966), Tinh thần dân chủ xã hội Phật giáo (11/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
8. https://www.thivien.net/
9. Phổ Đức, Hướng về chân như (10/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
10. Nguyễn Phố, Kỷ niệm Thành Đạo (3/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
11. https://tapchinghiencuuphathoc.vn/tri-tue-trong-dao-phat.html
12. Vũ Hoàng Chương (1966), Chuông chùa Diệu Đế (18/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
13. Trụ Vũ, Triêu dương (10/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
14. Phạm Tiến Duật, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Nxb. Văn học.
15. Phạm Tiến Duật (1969), Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nxb. Văn học.
16. Tâm Minh Trần Tuấn Khải (1966), Đường tu (18/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
17. Doãn Quốc Sỹ, Ngăn cách (2/26), Tập thơ Ác mộng, Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.
18. Đinh Hùng, Vết chữ trăng sao (12/26), Tạp chí Vạn Hạnh, Nxb. Huệ Quang.

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin