Chi tiết tin tức Quán chiếu về sự tiếp cận Phật giáo thực tiễn 14:24:00 - 25/02/2015
(PGNĐ) - Những người nào theo những truyền thống Ấn Độ giáo và tin tưởng vào tái sanh nên nghĩ về kiếp sống tương lai và thực hiện một nổ lực nào đó để tạo những nguyên nhân đúng đắn cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, thay vì lo lắng, lo lắng và lo lắng. Thì dụ, vào lúc lâm chung, quý vị có thể hồi hướng tất cả đạo đức của quý vị để cho kiếp sống tới sẽ là một kiếp sống tốt đẹp. Và rồi thì [cho dù niềm tin của quý vị là gì ] vào lúc sắp chết, thể trạng tinh thần phải tĩnh lặng. Giận dữ, nhiều sợ hãi - những thứ này là không tốt.
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010
Ghi lại: Sean Jones và Michael Richards
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
PHẦN 1: HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT VÀ LÂM CHUNG Hướng Đến Một Đời Sống Đầy Đủ Ý Nghĩa Trước nhất tôi xin chào mừng tất cả. Nhiều người trong quý vị là những người bạn rất, rất cũ, những người bạn lâu năm, và những người bạn không thay đổi. Cho nên điều ấy rất tốt. Ba mươi, bốn mươi năm đã qua từ khi quý sinh sống và học tập ở chốn này. Thân thể chúng ta đã thay đổi. Nói một cách tổng quát, ngay của phép mầu hay thiền tập cũng không thể làm cho nó dừng lại. Chúng ta là vô thường, luôn luôn thay đổi, thay đổi từ thời khắc này sang thời khắc khác và đấy là một bộ phận của tự nhiên. Thời gian luôn luôn chuyển dịch; không năng lực nào có thể làm nó dừng lại. Vì thế câu hỏi thật sự là chúng ta có sử dụng thời gian một cách thích đáng hay không. Chúng ta có sử dụng thời gian để tạo nên nhiều rắc rối hơn cho người khác hay không, là điều mà một cách căn bản cũng làm chính ta cảm thấy khổ sở sâu xa bên trong? Tôi nghĩ rằng đấy là một cách sử dụng thời gian một cách sai lầm. Một cách tốt hơn là cố gắng để xây dựng tâm thức chúng ta mỗi ngày với một động cơ thích đáng và rồi thì giữ gìn nó cho suốt cả ngày còn lại với loại động cơ ấy. Và nó có nghĩa là, nếu có thể, phục vụ người khác; và nếu không, thì tối thiểu kềm chế trong việc làm tổn hại người khác. Trong sự quan tâm ấy, thì không có sự khác biệt giữa những tôn giáo khác nhau. Bất cứ ở vị trí nào, quý vị có thể có môt động cơ tích cực. Nếu thời gian của chúng ta được sử dụng trong cách ấy hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm - hàng thập niên, không chỉ trong năm năm - thế thì đời sống của chúng ta trở nên đầy đủ ý nghĩa. Tối thiểu, chúng ta đang làm nên một loại sống hiến đối với thể trạng hạnh phúc tinh thần của cá nhân chúng ta. Chẳng chóng thì chầy ngày cuối cùng của chúng ta sẽ đến, và ngày ấy chúng ta sẽ không cảm thấy hối tiếc gì cả; chúng ta biết là chúng ta đã sử dụng thời gian của chúng ta một cách hữu ích. Tôi nghĩ nhiều người trong quý vị đã sử dụng thời gian trong một cách thích đáng, đầy đủ ý nghĩa. Điều ấy là quan trọng. Có Một Thái Độ Thực Tiển Đối Với Sự Chết Tuy nhiên, đời sống hiện tại của chúng ta, là không mãi mãi. Nhưng nghĩ: "Chết là kẻ thù" thì hoàn toàn sai. Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù. Nhằm để phát triển lòng tham muốn chân thành thành cho moksha - giải thoát - thế thì chúng ta thật sự cần một loại thái độ: rằng chính sự sinh này, thân thể này, chính bản chất của nó là khổ đau và vì thế chúng ta muốn chấm dứt điều ấy. Nhưng thái độ này có thể tạo ra nhiều rắc rối. Nếu quý vị xem chết như kẻ thù, thế thì thân thể này cũng là kẻ thù, và toàn bộ đời sống là kẻ thù. Như vậy là đi hơi quá xa. Dĩ nhiên, chết có nghĩa là không còn tồn tại nữa, tối thiểu là đối với thân thể này. Chúng ta phải tách rời khỏi mọi thứ mà chúng ta phát triển một loại nối kết gần gũi trong kiếp sống này. Thú vật cũng không thích chết, cho nên một cách tự nhiên chúng là giống với con người. Nhưng chúng ta là một bộ phận của tự nhiên, và vì thế chết là một bộ phần trong đời sống của chúng ta. Một cách hợp lý, sự sống có một sự bắt đầu và kết thúc - có sự sinh và chết. Vì thế không có gì bất thường. Nhưng tôi nghĩ những sự tiếp cận và quan điểm không thực tiển của chúng ta về sự chết làm cho chúng ta lo lắng và băn khoăn bội phần. Cho nên như những hành giả Phật Giáo, thật vô cùng hữu ích để nhắc nhở chính chúng ta hằng ngày nhớ về sự chết và vô thường. Có hai cấp độ của vô thường: một cấp độ thô [rằng mọi hiện tượng sinh ra sẽ đi đến hoại diệt] và một cấp độ vi tế [rằng tất cả mọi hiện tượng bị ảnh hưởng của nhân và duyên thì thay đổi từ thời khắc này sang thời khắc khác]. Thật ra, cấp độ vi tế của vô thường là giáo huấn thật sự của Phật Giáo; nhưng một cách tổng quát, cấp độ thô của vô thường cũng là một bộ phận quan trọng của thực hành bởi vì nó làm giảm thiểu một số cảm xúc tàn phá căn cứ trên cảm nhận rằng chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi. Hãy nhìn những vị vua vĩ đại - ở phương Tây cũng thế - với những lâu đài và pháo đài to lớn. Những vị hoàng đế xem họ như bất tử. Nhưng bây giờ khi chúng ta nhìn những kiến trúc ấy, thật là ngớ ngẫn. Hãy nhìn Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Nó được tạo nên bởi vô vàn khổ đau của những người xây dựng nên nó. Nhưng những công trình này được hình thành với cảm giác: "Quyền lực và đế quốc của ta sẽ tồn tại mãi mãi" và "Hoàng đế của ta sẽ tồn tại mãi mãi." Như Bức tường Bá Linh - một lãnh tụ Cộng Sản Đông Đức nào đó đã nói rằng nó sẽ tồn tại hàng nghìn năm. Những cảm nhận như vậy đến từ sự chấp thủ vào chính họ và đảng phái hay niềm tin của họ và từ suy nghĩ rằng họ sẽ tồn tại mãi mãi. Bây giờ sự thật là chúng ta cần một lòng tham muốn tích cực như một bộ phận của động của chúng ta - không có sự tham muốn thì sẽ không có chuyển động. Nhưng lòng tham muốn cộng với si mê là nguy hiểm. Thí dụ, có một loại cảm nhận về sự thường hằng và nó thường tạo nên loại quan điểm "Tôi sẽ tồn tại mãi mãi." Điều ấy là không thực tại. Đấy là si mê. Và khi quý vị phối hợp nó với tham dục - muốn điều gì đó hơn nữa,v.v… - nó thậm chí nó thêm nhiều rắc rối và khó khăn. Nhưng tham muốn với tuệ trí là rất tích cực, và vì thế chúng ta cần nó. Chúng ta cũng thấy [nhắc nhở về vô thường] trong sự thực hành mật tông, với những cái sọ người và những thứ loại này, và trong một số mạn đà la chúng ta quán tưởng những nghĩa trang [vùng của sự chết chóc]. Những thứ này là các biểu tượng để nhắc nhở chúng ta về vô thường. Một ngày nọ, xe của tôi đi ngang qua một nghĩa địa, và thật mới mẻ trong tâm thức tôi khi tôi để cập sau đó trong một bài diễn thuyết công cộng. "Tôi vừa đi ngang một nghĩa địa. Đấy là nơi chốn sau cùng của chúng ta. Chúng ta phải đến đấy." Chúa Giê-su trên thánh giá chỉ cho môn đồ của ngài rằng cuối cùng sự chết sẽ đến. Và Đức Phật cũng nói tương tự. Allah, thì tôi không biết - Allah không có hình sắc - nhưng dĩ nhiên Mô-ha-mét cũng chứng tỏ điều đó. Cho nên chúng ta cần thực tế rằng sự chết sẽ đến không chóng thì chầy. Nếu quý vị phát triên môt loại thái độ đúng ngay từ lúc đầu rằng sự chết sẽ đến; rồi thì khi sự chết thật sự đến, chúng ta sẽ ít băn khoăn hơn. Vì thế đối với một hành giả Phật tử, thật quan trọng để tự nhắc nhở mình về điều này trên căn bản hàng ngày. Phải Làm Gì Khi Sự Chết Đến Khi ngày cuối cùng của ta đến chúng ta cần chấp nhận nó và không nên thấy nó như điều gì đó kỳ lạ. Không có cách nào khác. Vào lúc ấy, những người có niềm tin tôn giáo trong tôn giáo hữu thần nên nghĩ, "Đời sống này được Thượng đế tạo nên, vì thế sự kết thúc phải tùy thuộc vào dự tính của Thượng đế. Mặc dù tôi không thích sự chết, Thượng đế đã tạo nó, và vì thế phải có một ý nghĩa nào với nó." Những người thật sự tin tưởng trong một Thượng đế tạo hóa nên nghĩ theo những dòng này. Những người nào theo những truyền thống Ấn Độ giáo và tin tưởng vào tái sanh nên nghĩ về kiếp sống tương lai và thực hiện một nổ lực nào đó để tạo những nguyên nhân đúng đắn cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, thay vì lo lắng, lo lắng và lo lắng. Thì dụ, vào lúc lâm chung, quý vị có thể hồi hướng tất cả đạo đức của quý vị để cho kiếp sống tới sẽ là một kiếp sống tốt đẹp. Và rồi thì [cho dù niềm tin của quý vị là gì ] vào lúc sắp chết, thể trạng tinh thần phải tĩnh lặng. Giận dữ, nhiều sợ hãi - những thứ này là không tốt. Nếu có thể những hành già Phật tử nên sử dụng thời gian của họ bây giờ để nhìn về phía trước đến những kiếp sống tới. Những sự thực hành tâm bồ đề và những sự thực hành mật tông nào đó là rất tốt cho điều này. Theo giáo huấn mật tông, vào lúc lâm chung có tám sự chấm dứt của các yếu tố - những cấp độ thô của yếu tố thân thể tan rả và rồi thì những cấp độ vi tế hơn cũng tan ra. Những hành giả mật tông cần bao gồm điều này trong thiền quán hàng ngày. Mỗi ngày, tôi quán chiếu về sự chết - trong những sự thực hành mạn đà la khác nhau - tối thiểu 5 lần, nhưng tôi vẫn sống! Sáng nay tôi đã đi qua 3 sự chết. Có nhiều phương pháp để tạo nên một sự bảo đảm cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, giống như thế. Và đối với những người không tín ngưỡng, như tôi đã đề cập trước đó, thật quan trọng để thực tế rõ ràng về sự kiện vô thường. Giúp Những Người Sắp Chết Như Thế Nào Với những người thật sự sắp chết, thật là tốt lành nếu những người chung quan có một kiến thức nào đó [về vấn đề giúp đở như thế nào]. Như tôi đã đề cập trước đây, với những người sắp chết tin tưởng vào Thượng đế tạo hóa, quý vị có thể nhắc nhở họ về Thượng ddeess. Một niềm tin nhất quán vào Thượng đế tối thiểu cũng có một lợi lạc nào đó, với quan điểm Phật Giáo cũng vậy. Với những người nào không có tín ngưỡng, không tôn giáo, thế thì như tôi đã đề cập, hãy thực tế, và thật quan trọng để giữ tâm tư của họ tĩnh lặng. Có những người thân khóc lóc bên cạnh người lâm chung có thể làm thương tổn đến việc giữ gìn tâm tư tĩnh lặng - quá nhiều dính mắc. và cũng do bởi quá nhiều dính mắc với người thân của họ, có thể có việc làm lớn mạnh giận hờn và thấy sự chết như một kẻ thù. Vì thế thật quan trọng để giữ thể trạng tinh thần của họ tĩnh lặng. Điều ấy là quan trọng. Trong nhiều trường hợp [tôi dược yêu cầu đến một nhà từ thiện của Phật Giáo]. Như ở Úc Đại Lợi, có một ni viện, nơi mà các nữ tu hoàn toàn cống hiến đời sống cho việc chăm sóc những người sắp chêt và với những người với những căn bệnh trầm kha. Đây là một cách rất tốt trong việc đưa vảo sự thực tập hàng ngày của chúng ts về bi mẫn vào trong hành động. Điều ấy rất quan trọng. Ẩn Tâm Lộ - Tuesday, December 16, 2014 http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/world_today/reflections_realistic_approach/transcript1.html PHẦN HAI: ĐIỂM GẶP NHAU CỦA ĐÔNG TÂY Tri thức phương Đông và khoa học phương Tây Những điểm gặp nhau giữa Đông và Tây là gì, tôi nghĩ 30 hay 40 năm trước tôi đã đề cập rằng tri thức phương Đông, chính yếu ở Ấn Độ đây - một cách đặc biệt tri thức về những cảm xúc và tâm thức - là rất chi tiết; và đây là bởi vì có sự thực tập về tập trung [chỉ] và phân tích [quán]. Những thứ này không căn cứ trên tín ngưỡng hay ngoan đạo; chúng là để cho việc rèn luyện tâm thức. Một cách tự nhiên, bất cứ giáo huấn nào với sự thực hành tập trung và phân tích sẽ có một sự giải thích về tâm thức: tâm thức hoạt động như thế nào, các cảm xúc hoạt động như thế nào. Rồi thì Phật Giáo cũng có bát nhã hay tuệ [tỉnh thức phân biệt], và cũng trong Phật Giáo quan điểm then chốt là giáo thuyết vô ngã hay anatma. Cho nên nhằm để tranh luận về thuyết vô ngã, tự nhiên quý vị cần một sự thấu hiểu chi tiết hơn về si mê và những quan điểm bị bóp méo hay vọng tưởng. Và đối với những quan điểm vọng tưởng, năng lượng đối kháng duy nhất là cái thấy đúng đắn hay chánh kiến, không phải cầu nguyện, không phải chỉ sự thiền tập mà thôi. Rồi thì trong Mật thừa cũng có thảo luận về những cấp độ khác nhau của các thể trạng tinh thần - thể trạng tỉnh thức, thể trạng giấc mộng, thể trạng ngũ, hay thể trạng vào những lúc ngất xỉu. [đây là tất cả những thí dụ của tri thức phương Đông về tâm thức]. Dĩ nhiên, khoa học đến từ phương Tây. Những nhà khoa học, trong hầu hết mọi trường hợp, đến từ quá khứ Do Thái - Ki Tô giáo, thế nên một cách tự nhiên họ không để ý nhiều đến tâm thức và cảm xúc và những thứ loại này. Trong truyền thống Do Thái - Ki Tô giáo, trình độ thực tập là giống [như những truyền thống tôn giáo phương Đông] - sự thực hành về bi mẫn, tha thứ, bao dung, cũng như toại nguyện và kỷ luật tự giác. Điều này là giống nhau trong tất cả những tôn giáo quan trọng. Nơi mà những tôn giáo này khác nhau là trong những cung cách thúc đẩy những giá trị nhân tính căn bản. Có những tôn giáo căn cứ trên niềm tin vào một đấng tạo hóa, kể cả những truyền thống Ấn giáo [chấp nhận một đấng tạo hóa]; và bởi vì một cách tối hậu tùy thuộc vào đấng tạo hóa, chỉ niềm tin thôi là đã đầy đủ. Nhằm để giảm thiểu tự ngã của quý vị, thái độ vị kỷ, quý vị cần một niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế tạo hóa. Quý vị hoàn toàn quy phục Thượng đế. Như vậy sẽ làm giảm thiểu thái độ vị kỷ của quý vị. Trái lại Phật Giáo không có khái niệm về Thượng đế - cũng như Kỳ Na giáo và một một bộ phận của phái Số Luận [kể cả Lão giáo] không có đấng tạo hóa - do thế tự quý vị phải thực hiện một nổ lực để thay đổi tâm thức quý vị. Không thể thay đổi những thứ này qua cầu nguyện. Loài người đã phát triển niềm tin tôn giáo tối thiểu hơn ba hay bốn nghìn năm qua. Bất cứ khi nào người ta gặp khó khăn, họ sẽ cầu nguyện và đặt niềm hy vọng của họ vào đấng tạo hóa hay Thượng đế hay đặt niềm tin của họ vào Đức Phật. Giống như người Tây Tạng - chúng tôi chỉ đặt niềm tin vào Đức Phật, nhưng thiếu sót về những hành động ở trình độ con người, vì thế đó là tại sao chúng tôi đã đánh mất quê hương, có phải không? Vậy thì trong vài nghìn năm lại đây - tôi nghĩ tối thiểu là bốn hay năm nghìn năm - con người đã đặt hy vọng và niềm tin tột cùng của họ vào Thượng đế. Nhưng bây giờ, hai thế kỷ qua, khoa học và kỷ thuật đã phát triền và bắt đầu thỏa mãn nhiều hy vọng của con người. Trong vài nghìn năm trở lại đây, chúng ta hoàn toàn dựa vào niềm tin; nhưng bây giờ, không có niềm tin, những kết quả rõ ràng đang được sản sinh bởi khoa học và kỷ thuật. Con người, kể của phương Đông, đang dựa vào khoa học và kỷ thuật, và đúng là nhiều thứ đã hấp dẫn họ. Nhưng càng về sau của thế kỷ hai mươi, càng nhiều người nhiều người đang trải nghiệm những giới hạn của việc chỉ có những giá trị vật chất mà thôi. Những sản phẩm vật chất cung cấp cho chúng ta sự thoải mái vật chất và thật sự cho chúng ta một loại hài lòng nào đó về cấp độ cảm giảc, nhưng không phải ở trình độ tinh thần thật sự. Nếu quý vị so sánh kinh nghiệm trình độ tinh thần và trình độ cảm giác, kinh nghiệm trình độ tinh thần là quan trọng hơn nhiều. Tất cả chúng ta kinh nghiệm rằng khi thể trạng tinh thần của chúng ta hạnh phúc và tĩnh lặng, sự đau đớn vật lý có thể bị chinh phục. Nhưng sự thoải mãi vật chất không thể khuất phục thể trạng tinh thần của chúng ta khi chúng ta có quá nhiều đau đớn tinh thần, quá nhiều lo lắng. Thế nên rõ ràng thể trạng tinh thần của chúng ta là thiết yếu hơn. Ngày càng nhiều nhà khoa học và bác sĩ nhận ra thể trạng tinh thần là rất rất quan trọng cho sức khỏe của chúng ta. Một tâm thức khỏe mạnh liên hệ rất nhiều đến một thân thể khỏe mạnh. Nhưng một tâm thức khỏe mạnh không thể được phát sinh từ thuốc men hay bia rượu hay ma túy. Một tâm thức khỏe mạnh không thể được ban cho qua tiêm thuốc hay mua từ siêu thị. Một tâm thức khỏe mạnh phải được phát triển từ trong chính tâm thức - từ niềm tin đến một sự mở rộng nào đóp nhưng không, không thực tế. Một niềm tin vững vàng chân thành có thể chỉ đến qua sự nghiên cứu và khảo sát. Cho nên tôi cảm thấy điểm mà Đông và Tây gặp nhau không phải vì những lý do tôn giáo, mà chỉ đơn giản là vì khoa học về tâm thức. Những Khía Cạnh Khoa Học Của Truyền Thống Na Lan Đà Tôi đã từng tham dự những buổi gặp gở với các nhà khoa học trong 30 năm qua. Vào lúc đầu - tôi nghĩ là 40 năm trước đây - tôi đã phát biểu tới một số người bạn của tôi rằng tôi muốn có một cuộc đối thoại với các nhà khoa học. Một phụ nữ Mỹ đã nói với tôi, "Khoa học là kẻ giết tôn giáo. Hãy cẩn thận." Nhưng rồi thì tôi đã nghĩ về truyền thống Na Lan Đà. Họ có thể khảo sát và thể nghiệm với giáo lý, và nếu họ tìm thấy bất cứ sự mâu thuẩn nào họ sẽ phủ nhận một cách chính xác những lời của chính Đức Phật. Chính Đức Phật cũng nói một cách rõ ràng: "Không môn đệ nào của tôi phải chấp nhận giáo huấn của tôi vì niềm tin, do lòng sùng mộ, mà đúng hơn là qua một sự khảo sát và thể nghiệm toàn diện." Các vị đạo sư có tự do để tiến hành sự khảo sát thậm chí chính lời của Đức Phật. Và cũng thế những người Tây Tạng chúng tôi có từ ngữ drangdon và ngedon - giáo lý nhất thời [bất liễu nghĩa] và giáo lý tuyệt hảo [liễu nghĩa]. Vì thế cho nên tôi nhận ra tầm quan trọng của truyền thống Na Lan Đà là trên sự khảo sát hơn là niềm tin. Toàn bộ hệ thống của Phật Giáo là căn cứ trên thực tại, thực tế ngày nay. Hai chân lý [chân đế và tục đế] là những giải thích về thực tại. Rồi thì căn cứ trên thực tại ấy, chúng ta có thể thực hiện sự phân biệt về chánh kiến và tà kiến [thấy đúng và thấy sai]. Cho nên nhằm để chứng minh đây là những cái thấy sai, chúng ta phải khảo sát thực tại của chúng. Luôn luôn có một lổ hổng giữa những hiện tướng và thực tại. Nhiều cái thấy sai căn cứ trên các hiện tướng, và hầu hết những cảm xúc tàn phá đến từ những cái thấy sai - dính mắc , chấp ngã. Thế nên trên căn bản ấy, chúng ta có ý tưởng về Bốn Chân Lý Cao Quý. Chỉ dựa vào lời của Đức Phật nói. "Ô, Đức Phật tuyên bố về Bốn Chân Lý Cao Quý," là sai. Chúng ta phải chứng minh Bốn Chân Lý Cao Quý. Chúng ta phải biết hệ thống thật sự hay cấu trúc của Bốn Chân Lý Cao Quý. [Xem: giới thiệu vắn tắt về Bốn Chân Lý Cao Quý] Vì thế tôi nhận ra rằng khoa học cũng cố gắng để tìm ra thực tại, sự thật - chân lý, nhưng dĩ nhiên ở một lãnh vực khác. Người Phật tử cũng đang cố gắng để tìm ra thực tại. Tôi nghĩ cả hai thật sự là sự bổ sung cho nhau, tuyên bố nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình: "Hãy tìm sự thật từ những sự kiện." Cả hai truyền thống qua khảo sát cố gắng đẻ tìm sự thật, những sự kiện. Vì thế cho nên tôi nhận thức rõ rằng không có sự mâu thuẩn. Cung cách của khoa học về tiếp cận, khảo sát, là để giữ một thái độ hoài nghi. Phật Giáo giống y như vậy. Thực Hiện Một Sự Phân Biệt Giữa Khoa Học Phật Giáo, Triết Học Phật Giáo, Và Tín Ngưỡng Phật Giáo Vì cuộc gặp gở và hội nghị của chúng ta với những nhà khoa học, một số người đã dùng những chữ: "Cuộc gặp gở của khoa học và Phật Giáo," nhưng điều này là sai lầm. Chúng ta không thảo luận với các nhà khoa học về Phật Giáo, mà chỉ về khoa học Phật Giáo. Vì thế tôi đã thực hiện một sự phân biệt giữa khoa học Phật Giáo [khoa học đến từ kinh luận Phật Giáo], triết lý đến từ kinh luận Phật Giáo, và Phật Giáo. Vì thế Phật Giáo là cho những người Phật tử; nhưng khoa học Phật Giáo và triết học Phật Giáo là phổ thông. Tôi cảm thấy rằng đã từng có một loại gặp gở nào đó của Đông và Tây. Những nhà khoa học hàng đầu của phương Tây bây giờ đang thật sự chú ý nhiều đến giá trị của việc rèn luyện tâm thức, bởi vì điều này rất quan trọng và rất liên hệ đến sức khỏe của chúng ta, cho dù cho xã hội, gia đình hay cá nhân. Giống như Đại học Wisconsin, dưới sự lãnh đạo của Richard Davidson. Ông đã tiến hành một số chương trình về rèn luyện tâm thức, những thứ như thế này; và cũng như Đại học Stanford, vài năm gần đây. Tôi vừa thăm viếng họ. Tất cả những sự thí nghiệm của họ là sự nghiên cứu thật tuyệt vời. Và rồi thì Đại học Emory. Vì vậy, giống như thế, những thứ này không liên hệ gì với tôn giáo. Nó chỉ đơn giản rút ra những thông tin từ kinh luận Phật Giáo để sử dụng như một phương pháp khoa học để rèn luyện tâm thức, để làm lớn mạnh những phẩm chất tốt đẹp của tâm thức chúng ta [như bi mẫn và tình cảm] đến từ những bà mẹ của chúng ta. Cho nên, giống như thế, tôi nghĩ rằng đấy là vị trí thích đáng cho Đông và Tây gặp gở. Đấy là cảm nhận của tôi. Không có tôn giáo, chỉ khoa học. Ẩn Tâm Lộ Wednesday, December 17, 2014 http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/world_today/reflections_realistic_approach/transcript2.html PHẦN BA: PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ 21 Làm Thế Nào Để Là Phật Tử Của Thế Kỷ 21 Tôi luôn nói với những ngưởi Tây Tạng cũng như người Trung Hoa và Nhật Bản, và những người Ladakh và tất cả những Phật tử Himalaya - Tôi cũng đang luôn nói với họ rằng bây giờ chúng ở trong thế kỷ 21, chúng ta phải là những Phật tử của thế kỷ 21. Điều ấy có nghĩa là hãy có một kiến thức toàn diện về nền giáo dục hiện đại, khoa học hiện đại, và tất cả những thứ này, và cũng như việc sử dụng những phương tiện hiện đại, nhưng đồng thời cũng phải có niềm tin vững vàng về những giáo huấn của Đức Phật về lòng vị tha vô hạn, tâm bồ đề và quan điểm về sự liên hệ hổ tương, duyên khởi. Thế thì quý vị có thể là một Phật tử chân thành và cũng thuộc vào thế kỷ 21. Mới đây tôi ở Nabra [Ladakh], và dừng lại một con đường để dùng buổi trưa. Một số người địa phương đến - một số người trong họ chúng tôi đã biết nhau trong 20 hay 30 năm - và tôi đã cũng đã trò chuyện với họ. Tôi đã nói với họ rằng chúng ta cần là những Phật tử của thế kỷ 21, và cũng như là học vấn là rất, rất quan trọng. Rồi thì tôi hỏi họ, "Phật Giáo là gì?" Và họ nói, "Buddham saranam gacchami. Dharmam saranam gacchami. Sangham saranam gacchami " [Con quy y Phật, Pháp, và Tăng.] Đấy là Phật Giáo." Như vậy quá đơn giản. Rồi thì tôi hỏi họ những gì là khác biệt giữa Đức Phật, chúa Giê-su, nhà tiên tri Mô-ha-mét? Họ nói, "Không có gì khác biệt." Như vậy là không đúng. Như được xem là những bậc thầy vĩ đại của nhân loại, các ngài là giống nhau. Nhưng cho đến khi mà những giáo huấn của các ngài được quan tâm đến, có một sự khác biệt lớn lao. Phật Giáo là vô thần[1]. Tôi hỏi quý vị một ngày nào đó Phật Giáo có là một hình thức của chủ nghĩa vô thần hay không, và quý vị nói rằng chủ nghĩa vô thần có nghĩa là "chống lại Thượng đế." Phật Giáo không chống lại Thượng đế - Phật Giáo tôn trọng tất cả các tôn giáo - nhưng Phật Giáo là vô thần trong ý nghĩa rằng không có một đấng tạo hóa, không có khái niệm về một đấng tạo hóa. Cho nên về phía giáo lý, về phía triết lý, có những sự khác biệt giữa Phật Giáo và những tôn giáo khác này, nhưng những người dân làng này cảm thấy tất cả [các giáo chủ và tôn giáo] là giống nhau. Điều này nhắc tôi: Một lần nọ ở Tây Tạng, một lạt ma thuyết giảng, và thính chúng hỏi vị ấy, "Ba Ngôi Tôn Quý ở đâu? Đức Phật ở chốn nào?" Và vị ấy im lặng trong một lú, và rồi thì chỉ lên bầu trời và nói, "Ô, Đức Phật ở trong một cung điện pha lê ở trong không trung, vây quanh bởi những hào quang rực rở." Như vậy là không đúng. Đức Phật xét cho cùng ở trong tâm thức của chúng ta - Phật tánh. Vì thế cho nên tôi muốn chia sẻ với quý vị rằng chúng ta phải đi đến căn bản thật sự của Phật Pháp [giáo huấn của Đức Phật]. Giống như khi quý vị có thức ăn chính - cơm hay bột, hay trong trường hợp của Tây Tạng là tsampa - và rồi thì một ít rau cải. Những rau cải thật tươi ngon; chúng là rất tốt. Nhưng nếu không có thức ăn chính, chỉ có một ít rau cải - ăn một vài dĩa rau cải - không đủ. Và điều ấy là quan trọng để thấu hiểu. Thân Chính Và Những Chi Nhánh Của Truyền Thống Tôi thường diễn tả Phật Giáo Tây Tạng như hiện thân thuần khiết của truyền thống Na Lan Đà [trong ý nghĩa rằng nó thừa kế những giáo huấn của 17 đại đạo sư của Đại học tu viện Ấn Độ Na Lan Đà cổ truyền.] Đấy là điều căn bản. tôi cũng giải thích đến những nhóm Phật tử, kể cả những người ở Ladakh, về sự tương tự của thân cây và những chi nhánh khác nhau. Truyền thống Na Lan Đà giống như thân cây. Rồi thì những truyền thống của Tây Tạng như Nyingma, Sakya, Kaguy, Gelug, Kadam, Jonang - tất cả giống như những chi nhánh. Mới đây tôi ở Trung tâm Dorzong, một trung tâm của Drugpa Kagyu. Những rinpoche ở đấy thường có những chương trình học tập rất hoàn hảo, không chỉ cho những tu sĩ của họ mà cả đến những học nhân cư sĩ Tây Tạng. Vì thế tôi đã giải thích cho họ ở đấy về thân chính và những chi nhánh và vấn đề, như sự thống nhất được quan tâm, Sakya, Nyingma, Kagyu, Gelug, Kadam, và Jonang tất cả đều đi về gốc rể. Không có sự khác biệt. Nhưng khi nhấn mạnh quá nhiều vào những cành lá, thế thì những sự khác biệt nho nhỏ ở đây ở kia biểu hiện quá nhiều. Những chi nhánh này, là quan trọng; một số điều đặc biệt là ở đấy, như Đại Toàn Thiện [dzogchen ] và Đại Thủ Ấn [mahamudra] và Sakya Tùng quả hướng nhân đạo [lamdray] và Hợp Nhất Tịnh Quang và Tánh không [seltong-zungjug]. Mỗi thứ là tốt đẹp, nhưng tất cả đều liên hệ với thân chính. Thật là tốt đẹp khi những chức năng đặc biệt này đi đến đỉnh tri thức trọn vẹn của giáo huấn căn bản của thân chính. Thế là hoàn toàn. Nhưng nếu quý vị quên những giáo huấn căn bản và chỉ nắm giữ những chi nhánh này, như vậy là không hoàn toàn, và cũng có hiểm họa của việc diễn giải sai lầm. Cho nên như vậy là thân chính, những đạo sư Na Lan Đà. Tôi thường diễn tả 17 đạo sư Na Lan Đà. Những luận điển của các ngài là những sự diễn giải về căn bản của Phật Giáo. Những thứ khác là các chi nhánh. Tầm Quan Trọng Của Sự Nghi Ngờ Theo thân chính - những giáo huấn Phật Giáo căn bản - sự nghi ngờ là rất cần yếu. Bây giờ, tôi nghĩ và hy vọng tôi là một Phật tử, nhưng tôi không còn bất cứ sự tin tưởng nào về Núi Tu Di. Hai chân lý và Bốn Chân Lý Cao Quý là những giải thích thật sự về vũ trụ, cho những giải thiên hà và Big Bang. Đấy là giáo huấn thật sự của Đức Phật và Phật Giáo. Sự trình bày của những kinh luận cổ điển được cấu trúc chung quanh 4 sự đặt niềm tin vững vàng [tứ y: không đặt niềm tin vào con người, hãy đặt nó vào sự giáo huấn; đừng đặt niềm tin vào lời nói của vị ấy, hãy đặt niềm tin vào ý nghĩa của chúng;đừng đặt niềm tin vào ý nghĩa nông cạn của chúng, hãy đặt niềm tin vào ý nghĩa tột cùng của nó, (để thấu hiểu chúng) đừng đặt niềm tin vào thức phân biệt của quý vị, hãy đặt nó vào sự tỉnh giác sâu xa của quý vị] Những kinh luận cổ điển đề cập rằng những người xem thật sự của những sách vở này, những độc giả nghiêm túc của chúng, phải có một thái độ nghi ngờ. Người ta cần khảo sát cho dù nội dung của quyển sách là điều gì đó có liên hệ đến đời sống của họ hay không. Chúng có lợi ích tạm thời là gì? Và về lâu dài, nó có lợi ích gì? Độc giả nghiêm túc phải nhận thức rõ ràng về sự liên hệ của kinh luận trước khi tuân theo lời dạy của nó. Đấy chính xác là sự tiếp cận của Na Lan Đà. Mọi người trong thính chúng phải nghi ngờ. Nghi ngờ đem đến câu hỏi; câu hỏi đem đến sự khảo sát; sự khảo sát đem đến những câu trả lời. Đấy là sự tiếp cận hợp lý duy nhất. Phủ Nhận Những Niềm Tin Về Núi Tu Di Và Vị Trí Của Những Thế Giới Địa Ngục Khi tôi ở Sar Ashram 40 năm trước, trong một trường hợp tôi đã đề cập rằng, "Đức Phật đã không đến hành tinh này để vẽ một bản đồ. Vì thế không phải là vấn đề của Phật Giáo cho dù có Núi Tu Di hay không. Không hề gì." Giống như thế. Cho nên chúng ta tự do phủ nhận sự giải thích của Thế Thân [trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, kho tàng những đề tài đặc biệt của tri thức] Chúng ta phải thực hiện một sự phân biệt giữa ý nghĩa thông thường và biểu tượng. Trong Mật pháp Thời Luân, nó cũng đề cập rằng Núi Tu Di và tất cả những thứ này tượng trưng thân thể con người, từ đầu đến bàn chân. Có nhiều sự giải thích mật tông tương tự. Cho nên những biểu tượng này có một ý nghĩa nào đó, một mục tiêu nào đó. Và về những địa ngục, khái niệm về địa ngục: tôi thấy rất khó để chấp nhận những gì A tỳ Đạt ma Câu Xá luận của Thế Thân để cập: rằng 20 do tuần [yojana] dưới Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) là 8 thế giới địa ngục khác nhau. Do tuần dài hơn một cây số. Cho nên nếu quý vị đi sâu hơn và sâu hơn, rồi thì chắc chắn rằng các địa ngục tồn tại ở Mỹ! Nhưng thật hổ thẹn nếu nói rằng Mỹ là một địa ngục. Cho nên những thứ này thật không khó để bác bỏ. Có ba cách để thấu hiểu mọi việc: qua nhận thức cảm giác, qua kết luận căn cứ trên lý trí. Và qua việc dựa trên thẩm quyền của kinh điển. Điều ấy có nghĩa là [trong trường hợp của kinh điển] dựa vào người thứ ba. Tôi thường nói với mọi người rằng giống như ngày sinh của chúng ta: Chúng ta không có cách nào để khảo sát ngày sinh thật sự của chúng ta thế nào. Chúng ta phải dựa vào người thứ ba; thí dụ, mẹ của chúng ta. Và nhằm để chấp nhận sự diễn giải của người thứ ba, trước nhất chúng ta phải chứng tỏ người ấy là trung thực, đáng tin cậy, và có một tâm thức bình thường. Cho nên chúng ta cần thử nghiệm một lãnh vực khác mà người thứ ba đã đề cập, thứ nào đó mà chúng ta có thể khảo sát. Nếu chúng ta khảo sát và thấy rằng nó là đúng, chúng ta biết người này là chân thật và không có lý do gì để dối trá hay hay những thứ giả vờ như vậy. Thế thì chúng ta có thể chấp nhận những tuyên bố khác của người ấy. Cho nên giống như thế, có thể có những hiện tượng huyền bí ngoài trình độ thấu hiểu của chúng ta và chúng ta không có kinh nghiệm về vấn đề ấy. Nếu có những người nói là họ thật sự trải nghiệm những hiện tượng này, chúng ta có thể kiểm chứng những tác phẩm của họ và để thấy chúng đáng tin cậy hay không liên hệ đến những điểm khác. Nếu như thế, chúng ta có thể dựa vào sự giải thích của người thứ ba này về những thứ vượt ngoài tầm lý trí của chúng ta. Chúng ta phải tiếp nhận loại tiếp cận thế này với một số những sự giải thích trong kinh điển Phật Giáo. Bây giờ theo lượng [pramana] - lý luận và nhận thức học - [có những loại chứng cứ và phủ nhận] Một loại phủ nhận liên hệ đến một hiện tượng phải được quán sát, nhưng không thể]. Thí dụ, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, mặt trời và mặt trăng có cùng khoảng cách từ Trái Đất, và khi chúng xoay quanh Núi Tu Di, thành ra ngày và đêm. Dường như chúng ta thật sự kinh nghiệm bóng của Núi Tu Di [vào buổi tối], nhưng nếu chúng ta trải nghiệm bóng của nó, thế thì chúng ta cũng phải có thể thấy ngọn núi. Vào thời xưa ở Ấn Độ, Thế Thân không thể kiểm chứng để thấy có một ngọn Núi Tu Di hay không. Nhưng bây giờ chúng ta có phi thuyền không gian, hay tàu vũ trụ, vì thế chúng ta phải có thể thấy nó. Nếu Núi Tu Di hiện hữu, thì chúng ta phải thấy nó. Nhưng vì chúng ta không thể thấy nó, cho nên chúng ta có thể thấy rằng nó không tồn tại. Thế nên có những phủ nhận liên hệ đến việc không thể quán sát hiện tượng mà quý vị đang cố gắng để chứng minh hay chỗ mà quý vị quán chiếu đối lập với nó. Trần Na và Pháp Xứng đề cập rõ ràng về những thứ này trong những luận điển của họ. Vì vậy việc sử dụng chính nhận thức luận Phật Giáo, sự không hiện hữu của Núi Tu Di được chứng minh một cách dễ dàng. Không có vấn đề gì trong việc phủ nhận những thứ này. Một lần nọ ở Nam Ấn, tại một cuộc tập hợp lớn của các tăng sĩ - tôi nghĩ là hơn 10 nghìn tăng sĩ (tất cả những tăng sĩ của các tu viện chính tập hợp ở đấy)- Tôi đã đề cập quan điểm của tôi về tầm quan trọng của khoa học và rằng chúng ta phải học hỏi khoa học, khoa học hiện đại. Và rồi tôi đã đề cập rằng tôi không tin tưởng về Núi Tu Di và tất cả những thứ này. Sau đó tôi đã nói, "Ô, nhưng đừng xem tôi như một người theo chủ thuyết hư vô." Ngày đầu tiên, sự giảng dạy của tôi nhiều hơn trong mối liên hệ giữa khoa học Phật Giáo và khoa học phương Tây. Rồi thì ngày thứ hai tôi đã giải thích về giáo lý nhà Phật. Thế nên, ngày đầu tiên tôi đã có tính chất đổi mới trong sự giảng dạy của tôi, và ngày thứ hai là giáo lý truyền thống hơn. Do thế, không có rắc rối gì trong việc phủ nhận những thứ này. Những Khả Năng Nguy Hiểm Của Sự Sùng Mộ Đạo Sư Bây giờ nếu chúng ta đi vào gốc rể, không có nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự sùng mộ. Nhưng nếu đi vào những chi nhánh, giống như đại thủ ấn hay đại toàn thiện, thế thì bổn tôn du già (guru-yoga) là rất quan trọng. Điều ấy thật sự đầu độc một số những lạt ma này, và sau đó những trung tâm của họ có thể trở thành những giáo phái. Tại sao? Do bởi sự lãng quên những giáo lý căn bản của Đạo Phật và chỉ tập trung vào những thứ nhánh nhóc. Giống như Naropa, bổn sư là Marpa, vị thầy chính của dòng truyền thừa Kagyu. Naropa là một trong những học giả lớn của Đại học Na Lan Đà. Rồi thì sau này ngài thực tập Mật tông nhìn giống như một hành khất hay một thành tựu giả. Naropa đúng là có khả năng thực tập những thứ này bởi vì ngài đã học hỏi về tất cả những luận điển quan trọng có trong truyền thống Na Lan Đà. Nhưng bây giờ một số hành giả ở phương Tây - cũng như trong người Tây Tạng, trong những người Ladakh cũng thế - không biết đến nền tảng của Phật Pháp, chỉ làm bất cứ điều gì đạo sư của họ nói mà thôi. Ngay cả nếu đạo sư của họ nói, "Tây là đông," học nhân tin: "Ô, đấy là phương đông." Như vậy là chống lại truyền thống Na Lan Đà. Dĩ nhiên, một người thật sự đầy đủ phẩm chất trong tri thức căn bản Phật Giáo là khác với một lạt ma ngồi trên tòa cao - giống như tôi ngồi trên một tòa cao - nhưng nhưng kinh nghiệm của người ấy thật rất giới hạn. Bây giờ nhìn vào giống như tôi hơi có chút ganh tỵ với những lạt ma ấy! Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, tôi nghĩ rằng họ không thích đáng, tri thức đầy đủ, và họ chỉ nhấn mạnh đến chi nhánh của họ mà thôi. Như vậy đã tạo nên nhiều sự thấu hiểu sai lầm. Điều ấy là quan trọng để thấu hiểu. Phật Giáo Thích ứng Với Phương Tây Ý tưởng về Phật Giáo phương Tây là hoàn toàn đúng, hoàn toàn đúng. Quý vị biết rằng Phật Giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Rồi khi đến những vùng đất khác nhau, nó trộn lẫn với những truyền thống văn hóa địa phương và trở thành Phật Giáo Tây Tạng, Phật Giáo Trung Hoa, Phật Giáo Nhật Bản: như thế. Một số nhạc cụ mà những tu viện Tây Tạng sử dụng không đến từ truyền thống Na La Đà, mà đến từ phía Trung Hoa. Có một nhạc cụ gọi là gyaling, nghĩa là "sáo Trung Hoa". Tức cười, có phải không? Thứ ấy không là một bộ phận của Phật Giáo; đấy chỉ là một khía cạnh của văn hóa. Tương tự như ở cộng đồng Phật Giáo phương Tây, quý vị có thể sử dụng những nhạc cụ hiện đại và cầu nguyện trong giai điệu của âm nhạc phương Tây. Tốt thôi. Không hề gì. Nhưng cho đến khi mà những ý tưởng của Bốn Chân Lý Cao Quý và lòng vị tha và tất cả những thứ này được quan tâm: Quý vị thấy, Phật Giáo đối phó với những cảm xúc, và cảm xúc ngày nay của loài người là giống với những cảm xúc của con người 2600 năm trước. Cảm xúc của nhân loại đã giống như nhau tôi nghĩ là trong 3 hay 4 nghìn năm qua và sẽ vẫn như vậy trong vài nghìn năm tới nữa. Sau 10 nghìn hay 20 nghìn năm, một cấu trúc mới nào đó của não bộ sẽ tiến hóa, và rồi thì có thể mọi thứ sẽ hơi khác biệt một chút. Nhưng nói thế là quá xa phía trước. Không cần phải điều chỉnh các giáo huấn cho thế hệ của chúng ta, thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba - đó là cùng não bộ và cùng những cảm xúc của con người. Quý vị có thể hỏi những nhà khoa học về điều này, những nhà chuyên môn về não bộ, và họ sẽ nói, "Ô, sẽ là cùng não bộ cho tối thiểu vài thế kỷ tới. Không có gì thay đổi." Giống như thế. Cho nên giáo lý căn bản của Đạo Phật phải là đáng tin cậy. Một lần ở Pháp, tôi đã đề cập với những người Tân Thời Đại (New Age) - quý vị lấy điều gì đó nơi đây, điều gì đó nơi kia, điều gì đó nơi kia, và kết quả cuối cùng là không đáng tin cậy. Như vậy là không tốt. Tôi nghĩ chúng ta phải gìn giữ truyền thống Na La Đà chân thật. Đấy là quan trọng. Nhưng những khía cạnh văn hóa có thể thay đổi. Vấn Nạn Của Việc Hiểu Sai Những Giáo Lý Phát Triển Bây giờ tôi nghĩ có lẽ tôi có một phê phán xây dựng nào đó. Ở phương Tây, tôi đã từng gặp một số người chỉ biết một chút ít, nhưng lại nghĩ: "Ô, tôi có đầy đủ tri thức!" Sau đó, qua tri thức giới hạn thấu hiểu sai lạc của họ, họ lại hình thành sự giảng dạy. Dĩ nhiên, trong những người Tây Tạng cũng có việc này, đặc biệt những người không học hỏi nghiên cứu những luận điển triết lý lớn này. Có một thí dụ mà tôi nghĩ tôi có thể chia sẻ với quý vị. Tôi đã thăm San Francisco ngay sau một vụ động đất lớn. Tài xế của tôi vào lúc ấy không phải từ Bộ Ngoại Giao. Đấy là một chiếc taxi tư nhân, và tài xế là một thành viên của một trung tâm Phật Pháp, người thực hành Đại Toàn Thiện. Tôi ngẫu nhiên hỏi ông ấy, "Khi trận động đất xảy ra, ông đã nghĩ gì?" Và người ấy nói, "Ô, đấy là một cơ hội lớn để thực hành Đại Toàn Thiện, bởi vì đấy là một cơn sốc, một cơn sốc lớn." Nhưng ở trong tình trạng của cơn sốc không có suy nghĩ nào - nếu ông ấy cảm thấy đấy là một sự thực hành Đại Toàn Thiện chân thành, thế thì tôi nghĩ thật quá dễ dàng: bị rung động và quý vị có thể thực hành Đại Toàn Thiện! Đại Toàn Thiện không dễ dàng như thế. Chính tôi cũng từng thực hành Đại Toàn Thiện. Ô, rất khó, rất khó khăn. Có châm ngôn rằng: "Một chút tri thức là một thứ nguy hiểm." Có một chút sự thật ở đấy, cho nên hãy cẩn thận. Hãy học tập. Và đừng dựa vào sự hướng dẫn của một lạt ma; hãy dựa vào những sách vở đáng tin cậy này. Đấy là quan trọng. Đừng dựa vào lời nói của tôi. Hãy học hỏi những luận điển đáng tin cậy này của Long Thọ, Thánh Thiên, tất cả những đạo sư Phật Giáo này. Những giáo lý này đã từng được thể nghiệm qua hàng thế kỷ bởi những học giả ấy. Tôn giả Vô Trước đã trước tác và tranh luận với một số triết gia khác. Thí dụ, một tác phẩm nào đó của Long Thọ được bình phẩm một ít bởi tôn giả Vô Trước; và rồi thì một đạo sư khác phân tích và bình phẩm những tác phẩm của tôn giả Vô Trước. Những luận điển lớn này được hình thành bởi những đạo sư này được nghiên cứu và kiểm tra qua hàng thế kỷ, vì thế chúng thật sự đáng tin cậy. Và rồi thì có doha, những bài hát tâm linh [những bài hát tâm linh tự phát của những vị chứng đạo sư]. Những hành giả độc đáo này, như Naropa hay Tilopa, học hỏi hoàn hảo truyền thống Na Lan Đà. Rồi thì, qua thực hành, các ngài từ bỏ hoàn toàn đời sống trần tục, kể của đời sống tu viện, và sống hoàn toàn như những khất sĩ hay hành giả du già. Và rồi thì qua những kinh nghiệm của chính mình, các ngài đã sáng tác những thi kệ này tương ứng với sự thấu hiểu sâu xa và từ ngữ giản dị của các ngài. Thế nên có một hiểm họa về sự thấu hiểu sai lạc những thứ này nếu một người chỉ biết truyền thống căn bản [và không biết xa hơn]. Truyền thống Nyingma diễn tả một hệ thống của 9 thừa [9 cổ xe]. Ba thừa đầu - thanh văn thừa, duyên giác thừa, và Bồ tát thừa [ba kinh thừa] - căn cứ chỉ trên sự thấu hiểu về Bốn Chân Lý Cao Quý. Và rồi thì ba thừa tiếp theo - kriya, upa, và yoga [những thừa liên hệ đến ba lớp tantra ngoại] - nhấn mạnh đến sự thanh tịnh. Và rồi thì ba thừa cuối cùng - maha, anu, và ati [ba thừa liên hệ đến ba lớp tantra nội] - nhấn mạnh những sự thực tập cho việc kiểm soát tâm thức. Ý nghĩa thật sự đằng sau ba thừa cuối cùng này là để cho phép cảm xúc phát triển, và rồi thì, thay vì trở thành bị nô lệ bởi cảm xúc ấy, quý tâm thức chính của quý vị có thể nhìn vào bản chất cứu kính của cảm xúc. Đấy là tịnh quang. Cho nên trong ba thừa cuối cùng này, những cảm xúc tàn phá không phải được xem như điều gì đó mà quý vị phải vượt thắng, nhưng quý vị nhìn vào bản chất của những cảm xúc tàn phá này để thấy thực tại. Cho nên đây là trên căn bản của kinh nghiệm sâu xa, và nó là một loại thực hành rất khó khăn đối với những giai tầng trước. Vì vậy, một số giáo huấn từ những hành giả ở trình độ cao cấp những người dã đi qua những giai tầng này là khó khăn để thực hành trong trong trình độ của chúng ta. 9 giai tầng này không dễ dàng. Chúng Ta Nên Hành Động Nhân Danh Loài Người Hay Nhân Danh Phật Giáo? Mới đây tôi đã ở Patna, tiểu bang Bihar. Người ta thực hiện một công trình xây dựng to lớn, một tịnh xá Phật Giáo, một ngôi chùa Phật Giáo. Họ thỉnh cầu có một số xá lợi từ những quốc gia Phật Giáo khác nhau, và tôi cũng đã cúng dường cho họ một số xá lợi. Tại buổi lễ ấy, vị thủ hiến phát biểu rằng qua sự gia hộ của Đức Phật, tiểu bang Bihar sẽ phát triển một cách nhanh chóng. Sau đó tôi nói với ông - vì tôi biết ông, và ông là một người rất thân - "Nếu sự gia hộ của Đức Phật có thể giúp để phát triển tiểu bang Bihar, nó đã phát triển lâu rồi, bởi vì sự gia hộ của Đức Phật đã sẳn rồi. Cho đến khi một vị thủ hiến có hiệu lực đến, sự phát triển sẽ không diễn ra. Sự gia hộ của Đức Phật phải qua hành động của con người." Cầu nguyện không thật sự tác động, mặc dù lời cầu nguyện là điều gì đấy rất dễ thương nhưng hành động lại là điều gì khác biệt, có phải không? Kết quả thật sự đòi hỏi hành động. Đó là tại sao Phật Giáo nói, "Nghiệp, nghiệp." Nghiệp hàm ý "hành động". Do vậy chúng ta phải hoạt động. Hành động phải được thực hiện với niềm tin: "Tôi là một trong gần 7 tỉ người. Tôi có trách nhiệm để quan tâm nghiêm túc về sự cát tường của gần 7 tỉ người." Giống như thế. Khi chúng ta tiến hành cầu nguyện, chúng ta luôn nói nó là cho tất cả chúng sanh. Không người Phật tử nào phát lời cầu nguyện chỉ cho người Tây Tạng. Không bao giờ cầu nguyện cách ấy. Hay chỉ cho thế giới này - có vô số thế giới, vô lượng chúng sanh. Và rồi thì chúng ta phải thêm vào điều ấy; bằng khác đi sự cầu nguyện của chúng ta trở thành đạo đức giả. Sự cầu nguyện trên căn bản của một cái ''chúng tôi'' lớn, nhưng với nghiệp thật sự của chúng ta - ''những hành động'' thật sự của chúng ta - được căn cứ trên một cảm giác mạnh mẽ của ''chúng ta'' và ''họ'' là đạo đức giả. Bây giờ, hành động của chúng ta phải nên được hoàn tất nhân danh con người hay nhân danh Phật Giáo? Nếu quý vị cố gắng để thúc đẩy những giá trị căn bản của loài người trên căn bản của giáo lý Đạo Phật,thế thì nó trở thành hạn hẹp và nó không thể phổ quát. Truyền thống nghìn năm tuổi của Ấn Độ liên hệ đến sự đa nguyên trong tất cả mọi tôn giáo, và nó là thế tục - không ưu tiên trên một tôn giáo đặc thù nào; tôn trọng mọi tôn giáo. Bên cạnh những tôn giáo bản địa, tất cả mọi tôn giáo quan trọng của thế giới cuối cùng được thiết lập tại Ấn Độ. Vì vậy trong hai nghìn năm vừa qua, tất cả mọi truyền thống tôn giáo quan trọng của thế giới đã chung sống với nhau trên xứ sở này. Cho nên một cách tự nhiên, do bởi thực tế ấy, họ đã phát triển những nguyên tắc thế tục. Điều ấy là rất tốt. Có rất nhiều tôn giáo quan trọng cho nên chúng ta không thể nhấn mạnh trên niềm tin tôn giáo của chúng ta. Vì thế cho nên cách thực tiển, thực tế duy nhất là không đụng chạm đến tôn giáo - đơn giản chỉ là những nguyên tắc thế tục. Tôi là một Phật tử chí nguyện tròn vẹn. Nếu ai đấy cho thấy một sự thích thú về Phật Giáo, đôi khi tôi cảm thấy hạnh phúc; nhưng tôi không bao giờ có gắng tuyên truyền về Phật Giáo. Niềm tin tôn giáo là một vấn đề cá nhân. Những nguyên tắc thế tục là vấn đề của toàn thể nhân loại. Cho nên chúng ta, cộng đồng Phật Giáo - bên cạnh sự thực tập hàng ngày như một Phật tử - nên suy nghĩ thêm về những dòng này. Tôi thật sự cảm kích việc làm của những anh chị em Ki Tô giáo. Tôi nghĩ họ đã thực hiện sự cống hiến to lớn nhất cho giáo dục trên toàn hành tinh này. Quý vị không thấy bất cứ tôn giáo nào làm việc ấy. Mới đây ở Ấn Độ Tổ chức Ramakrishna đang làm việc gì đó [trong lãnh vực của giáo dục tập trung], nhưng tất cả những nhóm tôn giáo khác vẫn khép kín trong đền thờ của họ và để thu tiền. Quý vị, phải phải năng động trong việc thúc đẩy cho một xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn. Trên cấp độ ấy, tôi nghĩ những anh chị em Ki Tô giáo của chúng ta đã thực hiện một sự phục vụ tuyệt vời cho nhân loại. Nhưng cùng lúc, họ cũng thực hiện hoạt động truyền giáo, việc đổi đạo, và đó là một điều phức tạp. Một lần ở Salt Lake City, những người Mormon đã mời tôi vào tổng hành dinh của họ. Tôi đã gặp lãnh đạo của họ, và rồi thì tôi đã diễn thuyết công cộng ở đấy. Tôi đã đề cập rằng khi những người truyền giáo đi vào những vùng nơi không có những tôn giáo cụ thể, thế thì thật tốt đẹp để biến đổi những người ở đấy thành Ki Tô hữu. Khi không có triết lý cụ thể nào ở đấy, thì rất tốt. Nhưng trong những vùng đã có những niềm tin tôn giáo cụ thể, sự đổi đạo tạo ra những sự xung đột và rắc rối. Đôi khi họ cung cấp tiền bạc khi họ tiến hành những sự cải đạo. Khi mỗi sự đổi đạo xảy ra, họ cho 15 đô la. Những người Mông Cổ rất tài tình về điều này; họ trải qua sự đổi đạo mỗi năm, và vì thế mỗi năm họ nhận được 15 đô la. Ẩn Tâm Lộ Friday, December 19, 2014 [1] Phật Giáo là vô thần trong ý nghĩa rằng không có một đấng tạo hóa, không có khái niệm về một đấng tạo hóa. PHẦN 4: XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY TỪ QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO Tôn Giáo Như tôn giáo được quan tâm, tôi luôn luôn nói rõ ràng với quý vị những người Tây phương rằng tốt nhất là hãy giữ truyền thống của quý vị. Dĩ nhiên trong hàng triệu người thì cũng có một số cá nhân, như quý vị, những người … À, tôi nghĩ một số quý vị trong những năm sáu mươi như phong trào hippy - hơi rối rắm trong tâm thức của quý vị và có một thái độ hơi nổi loạn đối hoàn cảnh hiện hữu, kể cả đối với những niềm tin tôn giáo Tây phương của quý vị, có phải không? Cho nên khi đi đây đi đó, nơi nọ nơi kia, giống như quý vị quý vị không có bất cứ một phương hướng nào, và cuối cùng quý vị thấy một ý tưởng mới mẻ nào đó của Phật Giáo. Cho nên tốt thôi, nếu quý vị thật sự cảm thấy đấy là điều gì đó có ích, điều gì đấy hữu dụng, thế thì tốt thôi. Giống như người Tây Tạng - hơn 99% là Phật tử, nhưng cùng lúc có những người Hồi giáo Tây Tạng, và tôi nghĩ từ thế kỷ 20 cũng có thêm những người Ki Tô giáo ở đấy. Cho nên điều ấy là khả dĩ. Trong những người phương Tây với truyền thống Do Thái - Ki Tô - và cũng mở rộng đến một số người Hồi giáo - một số họ thấy truyền thống của họ không thực tế lắm, và họ chọn vị thế không tín ngưỡng. Hơi bị xáo động trong cấp độ tinh thần, họ thấy một lợi ích nào đó trong giáo huấn nhà Phật về rèn luyện tâm thức của họ, và vì thế họ quyết định đi theo truyền thống này. Điều ấy tốt thôi, Đấy là một quyền cá nhân. Giáo Dục Như một Phật tử, hay ngay cả bất cứ là loại người gì, chúng ta cần có đầu óc thực tế. Một sự tiếp cận không thực tiển đem đến thảm họa, vì thế chúng ta phải thực tế. tôi nghĩ mục tiêu chính của giáo dục là để giúp chúng ta giảm thiểu khoảng cách giữa hiện tướng và thực tại. Quá nhiều cảm giác không thực tế phát triển do bởi khoảng cách giữa hiện tướng và thực tại. Chúng ta có sự thông minh của con người, và vì thế, vâng, chúng ta cần giáo dục. Mục tiêu chính của giáo dục là tâm thức chúng ta phải thông tuệ, phải có lý trí, phải là thực tế. Mục tiêu thật sự của giáo dục là chúng ta phải thực tế về toàn bộ đời sống của chúng ta, và toàn bộ mục tiêu của chúng ta. Ngay cả với những mục tiêu tàn phá, như khủng bố - nhằm đề đạt được mục tiêu của họ, nhưng phương pháp của họ phải thực tế; bằng khác đi thì họ có thể chết trước khi đạt đến mục đích. Bất cứ hành động con người nào cũng phải thực tế. Bây giờ có sự khủng hoảng về kinh tế. Có quá nhiều suy đoán mà không biết chính xác những gì sẽ xảy ra và sau đó làm ra vẻ mọi thứ là okay. Đôi khi những người này biết những gì sẽ xảy ra, nhưng họ đưa ra công chúng một cảnh tượng đã trù tính trước. Như vậy là không đạo đức . Cho nên nó là do si mê và do tham lam. Theo một số người bạn của tôi, đấy là một bộ phận của nguyên nhân làm ra sự khủng hoảng kinh tế. Nếu người ta đã nói sự thật một cách công khai và đúng đắn một cách hiển nhiên ngay từ đầu, thế thì khi lời tuyên bố cuối cùng đưa ra, công chúng sẽ không quá sốc. Họ phải làm cho nó thật rõ ràng ngay từ đầu. Nhưng bây giờ mọi thứ là rất khó khăn, có phải không? Cho nên chúng ta phải thực tế về toàn bộ đời sống của chúng ta. Và rồi thì cũng dĩ nhiên trong những mối quan hệ quốc tế, và cũng như trong những vấn đề môi trường, hay bất cứ lãnh vực nào - trong bất cứ và mỗi cung cách nào, chúng ta cần phải thực tế. Nền giáo dục hiện đại có thiếu sót một thứ, và đấy là sự dạy dỗ về lòng nhiệt tình, hay sự tốt bụng. Nhưng bây giờ trong một số học viện, một số trường đại học, thật sự đang tiến hành một nghiên cứu nào đó về điều này. Họ đang tiến hành những thí nghiệm với các sinh viên: Nếu họ có một sự thiền tập ngắn hạn nào đó để rèn luyên tâm thức của họ về bi mẫn như một bộ phận trong sự học vấn hàng ngày của họ, nó có thể làm nên một sự khác biệt sau 8 tuần rèn luyện. Cho nên thế nào đi nữa đấy là một khía cạnh. Sức Khỏe So sánh với thú vật và những hình thức sống khác, chúng ta rất may mắn để có thân thể con người, bởi vì chúng ta có bộ não kỳ diệu này - chúng ta có khả năng để phát triển lòng vị tha vô hạn và chúng ta có khả năng để khảo sát về thực tại cứu kính. Bất cứ hình thức nào của sự sống với một bộ não ít phức tạp hơn sẽ không có khả năng để làm việc ấy. Tất cả những chúng sanh bình thường là những kẻ nô lệ của si mê. Chỉ não bộ con người mới có khả năng để biết những sai lầm của si mê này. Vì thế cho nên thân thể con người là điều gì đấy quý giá, và vì thế chúng ta cần bảo về sự sống này. Trong một nghìn năm, tất cả chúng ta có thể làm là cầu nguyện đến một số bổn tôn này theo giả thiết là gia hộ cho chúng ta trường thọ, nhưng bây giờ chúng ta có thuốc men và việc tập thể thao, kể cả yoga, và điều này là rất hữu dụng để bảo vệ thân thể của chúng ta, có phải không? Giống như thế. Kinh Tế Dĩ nhiên tri thức của chúng ta là rất giới hạn trong lãnh vực này. Trước nhất, lý thuyết kinh tế của Karl Marx - tôi nghĩ là rất hấp dẫn đối với quan điểm trong lý thuyết kinh tế của ông về sự chia sẻ tài sản bình đẳng. Đó là một nguyên tắc đạo đức; trái lại chủ nghĩa tư bản không nói về điều này, chỉ nói về vấn đề làm sao tạo nên lợi nhuận. Cho nên, như sự quan tâm đến lý thuyết kinh tế xã hội, tôi vẫn là một người Marxist. Điều gọi là ''chủ nghĩa xã hội'' được thi hành trong cựu Liên Bang Sô Viết và trong thời gian đầu ở Trung Hoa hiện đại - và trong một số quốc gia xã hội chủ nghĩa khác - nền kinh tế của họ cuối cùng đối diện với sự mụ mẫm. Đấy là một thực tế. Cho nên chủ nghĩa tư bản phương Tây là một sức mạnh năng động hơn theo như sự phát triền kinh tế được quan tâm. Dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, Hoa Lục đã hy sinh sự thực thi chủ thuyết kinh tế Marxist và tự động đi theo chủ nghĩa tư bản. Bây giờ, tôi không nghĩ người ta có thể quy trách hệ thống tư bản đối với tất cả những khó khăn mà Hoa Lục đang đối diện ngày nay. Tôi nghĩ một quốc gia tự do có thể đi theo chủ nghĩa tư bản [mà không có những rắc rối này], nhưng [đối với điều ấy] cùng lúc quý vị cần một nền tư pháp độc lập và truyền thông tự do. Nếu truyền thông tuân theo một nguyên tắc trong sáng, chính quyền dân cử có thể chịu trách nhiệm. Cho nên với chủ nghĩa tư bản, chúng ta cần những phương pháp khác để làm cho xã hội công bằng hơn. Bây giờ Trung Hoa chỉ là chủ nghĩa tư bản - không có tư pháp độc lập, không có tư do báo chí, không có trách nhiệm giải trình. Tư pháp bị đảng điều khiển, kinh tế bị kiểm soát bởi đảng, và truyền thông bị khống chế bởi đảng viên. Cho nên đấy là lý do chính tại sao Hoa Lục đang đối diện với những vấn nạn hiện nay. Vô vàn tham nhũng, và không có phương pháp hữu hiệu để kềm chế những điều này. Những người nghèo liên hệ với tham nhũng bị án tử hình, nhưng những kẻ ở vị trí cao thì ở trên luật pháp. Cho nên đó là lý do. Khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, những quốc gia Đông Âu được tự do - thí dụ Cộng hòa Czech và Slovakia. Tôi là người thăm viếng đầu tiên, tôi nghĩ, đến Cộng hòa Czech, qua lời mời của Tổng thống Havel, và rồi thì tôi cũng đã viếng thăm những quốc gia vùng Baltic, cũng như Hungary và Bulgaria. Tôi đã từng ở Romania, tôi đã đi thăm cựu liên bang Nam Tư - Kosovo, Croatia, và Slovenia. Lần đầu tiên thăm Cộng hòa Czech, tôi đã nói, "Bây giờ là đúng lúc để tiến hành thêm nhiều nghiên cứu. Lấy những phần tốt đẹp của hệ thống xã hội chủ nghĩa, lấy những phần ưu thắng của tư bản chủ nghĩa, và có thể tổng hợp thành một hệ thống kinh tế mới." Tôi đã nói điều này, nhưng chúng chỉ trở thành những từ ngữ trống rỗng. Nhưng dĩ nhiên tôi không có kiến thức về kinh tế. Lối Sống Chủ Nghĩa Vật Chất Tôi đã đề cập vắn tắt lối sống phương Tây hôm qua. Và không chỉ phương Tây - có một xã hội vật chất bây giờ ở Ấn Độ bây giờ, có phải không, một cộng đồng vật chất chủ nghĩa hơn? Họ đã tìm thấy niềm vui của họ qua những cửa sổ giác quan - kịch nghệ, phim ảnh, âm nhạc, thức ăn ngon, mùi hương thơm, và những cảm giác vật chất tốt, kể cả tình dục. Cho nên người ta chỉ tìm kiếm những sự thỏa mãn qua những phương tiện bên ngoài, qua trình độ của cảm giác. Tuy nhiên, nguồn gốc cứu kính là sự thỏa mãn bên trong, là qua sự rèn luyện tâm thức, không chỉ qua việc dựa vào những kinh nghiệm cảm giác này. Những hành vi nhiễm ô cần phải chấm dứt. Sự nhiễm ô của người ta không qua môi trường; những hành vi của chúng ta trở thành nhiễm ô do bởi cái nhìn sai lầm [tà kiến] hay si mê. Do thế nhằm để chấm dứt nghiệp nhiễm ô đã làm nên các rắc rối, trước tiên chúng ta phải tẩy trừ si mê ở đây trong đầu của chúng ta. Đấy là cung cách Phật Giáo. VÀ như tôi đã đề cập trước đây, những trung tâm chuyên môn [hàn lâm] bây giờ ngày càng nhận thấy tầm quan trọng của việc chăm sóc các cảm xúc của chúng ta, tâm thức của chúng ta. Đây là dấu hiệu rất lành mạnh. Tuy thế, vẫn tốt hơn nếu có thể nói, "Đời sống của tôi thật là tốt đẹp." Phật Giáo cũng đề cập điều ấy và cho điều này, có 4 nhân tố tuyệt diệu cho một cuộc đời sống tốt đẹp [(1) tái sanh vào cõi hạnh phúc, (2) tìm kiếm tài nguyên, (3) giáo huấn, và (4) giải thoát]. Hai nhân tố tuyệt vời đầu là sự tái sanh vào cõi hạnh phúc hơn hay chỉ là sự tái sanh vào cõi người, và rồi thì những nhu cầu - sự thịnh vượng, tài sản, người cộng sự, v.v…, cho việc đạt đến một đời sống hạnh phúc, một cuộc sống tốt đẹp. Quý vị cần tiện nghi, và vì thế quý vị cần tiền bạc. Và vì thế tiền bạc được đề cập ở đấy. Nhưng rồi thì về lâu về dài, mục tiêu của chúng ta phải nên là niết bàn - một sự chấm dứt thường trực của nổi si mê này và những cảm xúc phiền não này. Cho nên đấy là giải pháp thường hằng, và cho điều ấy chúng ta cần thực hành Phật Pháp. Khoảng Cách giữa Giàu và Nghèo Và rồi thì một rắc rối khác nữa là khoảng cách giữa giàu và nghèo. Đây là một vấn nạn rất nghiêm trọng. Khi tôi ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, tại một cuộc tập họp công cộng lớn, tôi đã nói, "Đây là thủ đô của một quốc gia giàu có nhất, nhưng ngoại ô của thành phố Hoa Sinh Tân có rất nhiều người nghèo và gia đình nghèo. Đây không chỉ là một sự sai sót về đạo đức, mà cũng là nguồn cội của nhiều rắc rối." Giống như sự kiện 11 tháng Chín (9/11) - điều này cũng được liên hệ với khoảng cách lớn lao ấy. Thế giới Ả Rập vẫn nghèo và những tài nguyên tự nhiên của họ bị khai thác tối đa bởi phương Tây, và vì thế công chúng ở đấy đôi khi cảm thấy điều đó là bất công. Có rất, rất nhiều hoàn cảnh phức tạp. Tôi nghĩ cộng đồng Phật Giáo cũng phải thực hiện một hành động nào đó. Tối thiểu cố gắng chăm sóc những người láng giếng của chúng ta; một cách tinh thần cho họ một niềm hy vọng nào đó, một một sự tự tin nào đó. Tôi thường nói với những người bạn Ấn Độ của tôi, những người được gọi là "đẳng cấp thấp", những người theo tiến sĩ Ambedkar - nhiều người trong họ là Phật tử - tôi luôn luôn nói với họ rằng khoảng cách giữa nghèo và giàu này phải thay đổi. Thay vì là những khẩu hiệu hay biểu lộ sự chán nản thất vọng, bộ phận những người nghèo phải xây dựng sự tự tin rằng họ là giống nhau. Tôi nói với họ, "Phạm Thiên tạo ra bốn đẳng cấp từ bốn cái đầu của ngài. Nhưng đấy là cùng một Phạm Thiên, có phải không? Cho nên tất cả chúng ta phải bình đẳng. Tôi luôn luôn nhấn mạnh về giáo dục cho những bộ phận người nghèo. Bộ phận giàu hơn, thịnh vượng hơn, cần cung cấp phương tiện cho họ - giáo dục, huấn luyện, và công cụ - để làm cho họ có khả năng cải thiện tiêu chuẩn sinh sống của họ. Tôi cũng đã phát biểu điều này ở Phi châu trong một vài trường hợp. Thật là khó khăn ở những thế giới phương Nam. Thế giới phương Bắc thường có dư thừa. Những người ở phía Nam thậm chí không có cả những nhu cầu căn bản. Nhưng tất cả những người này cùng là những anh chị em loài người. Nhân Quyền Một vấn đề khác tôi muốn chia sẻ với quý vị là chúng ta đã đặt nhấn mạnh quá nhiều trên tầm quan trọng của những việc ở trình độ thứ yếu - dân tộc, tín ngưỡng, đẳng cấp - những loại thế này. Nhằm để đem đến một lợi ích nào đó ở trình độ thứ yếu, thì chúng ta đang quên đi trình độ căn bản của con người. Đấy là một vấn nạn. Tôi nghĩ, bất hạnh thay, giống như Hội nghị Thượng Đỉnh Copenhagen [Hội nghị Liên Hiệp Quốc 2009 về Thay Đổi Khí Hậu], những quốc gia quan trọng đã chú ý nhiều hơn đến những lợi ích của quốc gia họ hơn là những quan tâm toàn cầu; vì thế đó là tại sao chúng ta đang đối diện nhiều rắc rối không cần thiết. Chúng ta phải thực hiện mọi nỗ lực để giáo dục con người rằng chúng ta cùng là những con người. Rồi thì ưu tiên số một của chúng ta phải là những quyền căn bản của con người. Những quan tâm của các quốc gia và những cộng đồng tôn giáo khác nhau là trình độ thứ yếu. Giống như Trung Hoa - tôi luôn luôn nói với mọi người, "Trung Hoa, cho dù mạnh thế nào đi nữa, vẫn là một phần của thế giới. Cho nên trong tương lai, Trung Hoa vẫn phải đi theo những xu hướng của thế giới." Như thế đấy. Chúng ta phải quan tâm gần bảy tỉ con người này bây giờ trên hành tinh này giống như là một hiện hữu thật sự, một gia đình nhân loại to lớn. Tôi nghĩ đấy là điều gì đó mà chúng ta thật sự cần. Nhưng chúng ta không thể thực hiện nó qua thuyết giảng, mà chỉ qua giáo dục và bằng việc sử dụng tâm trạng cảm nhận chung thông thường. Điều ấy là rất quan trọng. Chiến Tranh Khi chúng ta nói về nhân loại hạnh phúc, loài người hòa bình, con người bi mẫn hơn, thì chúng ta phải thực hiện một nỗ lực để tìm kiếm một câu trả lời thật sự vào những sự khủng bố này và đến việc sử dụng sức mạnh quân sự. mọi thứ là liên hệ hổ tương. Kinh tế châu Âu và tương lai châu Âu tùy thuộc vào châu Á và Trung Đông. Châu Mỹ cũng như thế. Và tương lai của Trung Hoa cũng lệ thuộc vào toàn thể châu Á và toàn bộ thế giới còn lại. Đấy là thực tế. Cho nên tương ứng với thực tế ấy, chúng ta không thể làm việc phân chia ranh giới và nói, "Đây là kẻ thù. Đây là bạn bè". Không có căn bản cứng nhắc cho việc phân chia ranh giới của kẻ thù và đồng minh. Cho nên tương ứng với thực tại ngày nay, chúng ta phải tạo ra một cảm nhận về một "chúng ta" lớn thay vì là "chúng tôi'' và ''họ''. Thời xưa, một nghìn năm trước, căn bản cứng nhắc này về "chúng ta" và "họ" là ở đấy. Và trên căn bản ấy, theo thực tế ấy, sự tàn phá kẻ thù của quý vị - "họ" - là sự chiến thắng của quý vị. Cho nên khái niệm về chiến tranh là một bộ phận của lịch sử loài người. Nhưng, bây giờ, ngày nay, thực tế thế giới là hoàn toàn mới, cho nên chúng ta phải quan tâm đến mỗi phần của thế giới như một phần của "Chúng ta". Chúng ta phải quan tâm nghiêm túc đến sự cát tường của họ. Không có chỗ cho bạo động trong một thế giới mà trong ấy tất cả chúng ta phải sống với nhau, liên hệ hổ tương đến mỗi người. Ẩn Tâm Lộ Sunday, December 21, 2014
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |