Chi tiết tin tức

Quá trình truyền thừa pháp trì danh hiệu niệm Phật từ Trung Quốc đến Việt Nam

20:36:00 - 18/06/2022
(PGNĐ) -  Trì danh niệm Phật nghĩa là xưng danh và nắm giữ câu Phật hiệu. Đây là pháp tu dễ thực hành nhất của Tịnh Độ tông [1]. Cụm từ tuy chỉ có 4 chữ nhưng lại hàm chứa đa dạng phương pháp, nó được thể hiện qua các bậc Cao đức truyền thừa Tịnh Độ tông Trung Hoa. Ngày nay, các phương pháp này đang được thực hành đầy đủ tại Việt Nam. Vậy đó là phương pháp gì, do ai khởi xướng? Bài viết sẽ đề cập các nhân vật tiêu biểu.

ĐẠI SƯ ĐẠO XƯỚC (562-645)

Tuy không xếp vào hệ thống 13 vị Tổ Tịnh Độ tông nhưng không có nghĩa rằng Đại sư Đạo Xước không có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến nền Phật giáo [2]. Bên cạnh việc được liệt vào một trong ba dòng hệ thống tư tưởng lớn của Tịnh Độ, Đại sư còn là nhân vật quan trọng của thuyết Niệm Phật Tha Lực trong Tịnh Độ tông Nhật Bản. Mặt khác, Ngài cũng là hình tượng sáng tạo được tứ chúng tán dương muôn đời. Vì sao? Vì hiện thân của Ngài là chiếc tràng chuỗi, ai ai cũng sở hữu pháp khí này, đặc biệt là hành giả Tịnh Độ.

Tràng chuỗi đã xuất hiện từ rất lâu nhưng đơn thuần nó chỉ làm trang sức anh lạc tôn lên vẻ sang trọng cho chư Thiên, các Bà La Môn và hàng quý tộc Sát Đế Lỵ. Vậy nguyên nhân gì chuỗi trở thành tiểu pháp khí của hành giả Tịnh Độ? Sơ khảo qua tác phẩm Long Thơ Tịnh Độ: Đức Phật Thích Ca nhân vì thấy hai người già chăm chỉ niệm Phật đếm số bằng hạt lúa nên đã từ bi chỉ họ niệm một câu “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Tam Thập Lục Vạn Ức, Nhất Thập Nhất Vạn Cửu Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu, Đại Từ, Đại Bi, A Di Đà Phật” mà có thể siêu vượt ứng với 2000 tạ lúa [3]. Chi tiết này cho thấy pháp niệm Phật ký số đã có từ thời Phật tại thế.

Người kế thừa và tiên phong pháp ký số niệm Phật này là Đại sư Đạo Xước. Thay vì đếm lúa (hạt nhỏ và dễ lẫn lộn), Ngài đếm hạt đậu. Mỗi một câu là một hạt đậu, hoặc ba câu, năm câu, mười câu cũng chỉ trong một hạt đậu. Về sau, Ngài và môn đồ đẽo, gọt gỗ thành hạt để niệm Phật. Để tiện nghi hơn, Ngài đã dựa vào truyền thống tràng chuỗi người xưa chế tác ra xâu chuỗi niệm Phật. Từ đây, hành giả Tịnh Độ không phải vất vả đem số đậu lớn bên mình để niệm Phật, chỉ cần một xâu chuỗi trên người thì dù đi bất cứ nơi đâu, muốn niệm bao nhiêu đều có thể được. Ngoài ra, xâu chuỗi dùng để trì chú hoặc thực tập các pháp tu khác cũng đều giản tiện. Đặc biệt, chuỗi còn tô thêm vẻ đẹp pháp phục, đồng thời là thước đo phẩm giá uy nghiêm, đỉnh đạc của một thầy tu mà Phật giáo Trung Quốc, Đài Loan đã ứng dụng. Trong khi đi, đứng, ngồi, hễ xâu chuỗi càng thể hiện độ dao động tức là hành giả ấy thực sự chưa hành trì rốt ráo oai nghi của người xuất gia.

Tại Việt Nam, chuỗi hạt (lớn và nhỏ) là người bạn thân thiết không những của người xuất gia, tại gia mà còn là của những người tín ngưỡng Đạo Phật. Đối với người tu hành, chuỗi có công năng giúp họ niệm Phật được nhiếp tâm, thậm chí chuỗi là biểu tượng của pháp môn Tịnh Độ. Có lẽ vì vậy, Đại đức Nguyên Hiền đã từng tự bạch rằng niềm tin Tịnh Độ của mình xuất phát từ sợi chuỗi trên tay của người thầy [4]. Vậy công năng tràng chuỗi của Đại sư Đạo Xước được biểu hiện như thế nào ở Tịnh Độ Việt Nam?

Xâu chuỗi là pháp khí được nhiều hành giả chú trọng tu niệm, do vậy chúng trở nên quan trọng và thân quen với pháp môn Tịnh Độ hiện đại.

Phương pháp niệm Phật lần chuỗi được tìm thấy qua một số danh tăng điển hình như: Thiền sư Toàn Nhật – Quang Đài (1757-1834) luôn khuyến khích mọi người lần chuỗi niệm Phật: “… Vui lòng một chuỗi giới châu/ Sớm khuya tưởng niệm công phu mà lần” [5]; Thiền sư Giác Đạo Tuân Minh Chánh (triều vua Gia Long, 1762 -1820), tuy chủ trương Tự tánh Di Đà nhưng về hành sự Ngài phòng hộ sáu căn, nhiếp phục phiền não bằng niệm Phật qua lần chuỗi [6]. Tổ Tánh Thiên – Nhất Định (1784-1847), trong bài Tự Châm Văn cũng khẳng định muốn phá vỡ cốt tử Di Đà để nhận ra bộ mặt xưa nay của mình thì phải “Cầm chuỗi hạt một xâu, thề chết mới thôi, vin hàng cây bảy dãy trông thẳng bước lên” [7]. Thiền sư Thanh Phước – Chu Toàn (1836-1899) khổ công tu hành, đạt được công phu chánh định bởi mỗi ngày lần hơn mấy chục chuỗi [8]. Sư Nguyên Biểu – Nhất Thiết (1836-1906) cũng dạy đại chúng nhiếp tâm trong tràng hạt [9]. 

Như vậy, pháp ký số tràng hạt là một phương thức giúp cho hành giả thoát khỏi vọng tưởng trong lúc trì niệm. Vì lẽ đó, khi kết tập các yếu điểm quan trọng của pháp môn Tịnh Độ, vì để khuyến dương, Hòa thượng Liên Tôn không bỏ qua thành tố này [10]. Về sau, khi xã hội càng đa sự, tâm tưởng con người càng vọng loạn thì việc nhiếp tâm niệm Phật càng không dễ. Xâu chuỗi là pháp khí được nhiều hành giả chú trọng tu niệm, do vậy chúng trở nên quan trọng và thân quen với pháp môn Tịnh Độ hiện đại. Thậm chí chúng là vật dụng cấp thiết được sử dụng trong lúc giao tiếp của hành giả Tịnh Độ, nhìn vào hình ảnh Đức cố Đệ Tam Pháp chủ Thích Phổ Tuệ vừa lần chuỗi vừa giảng pháp là một ví dụ điển hình [11]. Luận về pháp quán tưởng kết hợp với trì danh niệm Phật, Đại sư Đạo Xước cũng là người chủ trương. Toàn bộ tác phẩm An Lạc Tập đã thể hiện tất cả tư tưởng của Ngài [12]. Phương pháp quán tưởng làm tăng thuận duyên cho pháp trì danh, trong tác phẩm Pháp môn Tịnh Độ, Hòa thượng Trí Thủ cũng đề cập rõ ràng [13].

Tóm lại, công phu niệm Phật sẽ được sâu hơn nếu biết dùng chuỗi làm phương tiện trợ duyên. Do vậy, sự mở đầu ký số tràng hạt của Đại sư Đạo Xước không những làm đa dạng cách thức tu tập mà còn để lại một biểu tượng truyền thống cho pháp môn Tịnh Độ.    

ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO (613-681)

Trong quá trình truyền thừa, quan điểm cho rằng tất cả phàm phu đều có thể vãng sanh Cực lạc và chứng thành Phật quả đã được ngài Đàm Loan và Đạo Xước khẳng định nhưng chính ngài Thiện Đạo là nhân vật tiêu biểu đề cao những hạng phàm phu căn cơ thấp kém đều có thể nhập vào Báo Độ Cực Lạc. Ngài đã dùng hình ảnh Hoàng hậu Vi Đề Hi (Vidhehi) trong tác phẩm Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ để khẳng định phàm phu đều do nguyện lực của Phật mà được vãng sanh [14]. Đương thời, Đại sư đã nêu ra một nguyên lý Tịnh Độ thuần chánh và cho rằng phàm phu là đối tượng quan trọng nhất của pháp môn Tịnh Độ.

Đến thời Lão Pháp sư Tịnh Không, các hành giả đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp quán tưởng niệm Phật và chấp trì danh hiệu.
(Ảnh: sưu tầm)

Trong Niệm Phật Cảnh, Đại sư khẳng định chỉ cần hành giả lấy Tín – Nguyện làm căn bản cho sự nghiệp tu hành, ứng dụng Ngũ Niệm Môn [15] của ngài Thế Thân thì sẽ được vãng sanh [16]. Thuyết chấp trì danh hiệu Đại sư đưa ra khá đơn giản, chỉ cần chuyên xưng Di Đà Phật danh, nguyện sanh Di Đà Tịnh Độ. Một lòng chuyên hướng và chuyên niệm về Phật A Di Đà, chính là đạo lý nhất tâm bất loạn. Vì lẽ đó, Hòa thượng Minh Thông (Huệ Nghiêm) cảm thấy rất nhẹ nhàng khi được tiếp cận tư tưởng của Đại sư. Hòa thượng nói: “Khi mà chúng tôi gặp được tư tưởng của Hòa thượng Thiện Đạo rồi thì chúng tôi thấy chắc chắn nắm phần niệm Phật vãng sanh trong tay chứ bây giờ chờ nhất tâm bất loạn, bao nhiêu việc mà theo trong Kinh thật sự làm không nổi trong đời này” [17].

Trong Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, Ngài khẳng định sâu hơn: “Ba tâm là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện. Đầy đủ ba tâm này ắt sẽ được vãng sanh” [18]. Tâm chí thành là tâm chân thật; tâm sâu thiết là lòng tin sâu, kiên cố; tâm hồi hướng phát nguyện là dâng công đức tu tập một lòng hồi hướng nguyện sanh về cực lạc.

Ngoài việc chuyên nhất thực tập Ngũ Niệm Môn, hành giả cần thọ trì thêm ba phước để làm thành quả cho phẩm vị, đó là: (1) Thiện căn thế tục (hiếu dưỡng cha mẹ, kính phụng Sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười thiện nghiệp); (2) thực hành Giới phước (quy y Tam Bảo, thọ trì giới cấm, không lỗi oai nghi); (3) phát Bồ đề tâm và khuyến người hành Bồ tát đạo [19].  Chín phẩm vãng sanh tùy thuộc vào mỗi duyên sai khác của từng chúng sanh (căn cơ: thượng, trung, hạ) [20]. Học thuyết của Đại sư đã làm sống dậy tâm ý cầu học của tất cả mọi người, do đó, Đại sư mau trở thành bậc long tượng của Phật giáo Trung Quốc. Đặc biệt hơn, Đại sư là nhân vật tối hậu quan trọng của Tịnh Độ tông Nhật Bản. Trường phái Niệm Phật Tha Lực (chủ trương dùng tư tưởng ngài Thiện Đạo, tên gọi khác: Bản nguyện niệm Phật, Bản nguyện xưng danh) cho rằng ngài Thiện Đạo mới đích thực là Cao Tổ của Tịnh Độ, bởi Ngài là chánh tông truyền thừa từ tông Tịnh Độ [21].

Đại sư Thiện Đạo đã họa hơn 300 bức ảnh và tượng dựa theo Quán Kinh, hiện còn hơn 20 chứng tích đang lưu giữ ở thạch động Đôn Hoàng (Cam Túc). Trong đó có các bức như: Tượng Tam Tôn, cảnh giới Cực Lạc, Tây Phương Thánh Chúng Tiếp Dẫn… Phật giáo Việt Nam đã tham khảo những bức họa Tịnh Độ tông Trung Hoa và tiếp biến văn hóa thành những tác phẩm mang đậm màu sắc dân tộc.

ĐẠI SƯ PHÁP CHIẾU (tịch năm 821)

Nhắc đến Đại sư Pháp Chiếu, ta cũng nên nhắc đến Ngũ Hội Niệm Phật. Đó là một phương pháp niệm Phật thích ứng với thị hiếu của phàm phu. Nhân khi quán tưởng cõi Cực lạc, các hàng cây báu phát ra các loại âm thanh vi diệu mà Ngài phát minh ra niệm Phật theo âm điệu. Phương pháp niệm Phật này không gây nhàm chán, đồng thời còn kích thích sự tập trung cao độ của các hành giả, từ đó dễ đi vào niệm Phật tam muội. Vì để thu hút thính giác của người nghe nên Ngũ Hội Niệm Phật sử dụng các pháp khí (ít nhất là 4 pháp khí) để tạo ra âm thanh nhịp nhàng như ca hát. Mỗi một pháp hội chia làm năm hội: Hội thứ nhất: khởi đầu niệm Phật thong thả đều đều; Hội thứ hai chuyển dần niệm nhanh hơn so với mức độ trung bình, nhưng vẫn còn thong thả; Hội thứ ba là niệm không nhanh không chậm; Hội thứ tư bắt đầu niệm nhanh dần; Hội thứ năm chuyển sang niệm nhanh gấp (4 chữ) và càng ngày càng thôi thúc [22].

Thuở ấy, phương pháp Niệm Phật Ngũ Hội làm say lòng người. Với những người ưa thích tiếng nhạc thì phương pháp niệm Phật này rất thích hợp. Vua quan vương triều cũng vì đó mà quy kính cửa Phật, hưng thịnh tông môn. Ngày nay, trong các pháp hội niệm Phật, hành giả Trung Quốc vẫn còn ứng dụng, tuy nhiên có những sự cách tân để phù hợp với thời đại (thêm tiếng đàn, sáo…). Hành giả Việt Nam cũng vui ưa theo phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật nhưng không đơn giản tìm thấy ở các tự viện đang tu tập Tịnh Độ hằng ngày. Tuy nhiên, xuất phát từ ngài Pháp Chiếu, ở các chùa xưa và nay đều niệm Phật có âm điệu. Những ngôi chùa có thanh điệu niệm Phật rất tha thiết và hứng khởi như: Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn), chùa Hộ Pháp (Vũng Tàu), chùa Phổ Đức (Tiền Giang), chùa Lam Sơn Tịnh Độ (Bình Phước)…

Phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật đòi hỏi phải có nhiều nhân lực chuyên môn trong việc sử dụng pháp khí và âm giọng tốt, do vậy khi đến các pháp hội siêu độ vong linh, Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm và các đạo tràng chuyên về pháp sự như: Chùa Di Lặc (TP. HCM), chùa Long Phước Thọ (Đồng Nai), chùa Hồng Liên (Cà Mau), chùa Từ Quang (TP. HCM), đạo tràng Niệm Phật – Hộ Niệm Vãng Sanh (online)… mới rõ tường tận. Sự nhịp nhàng của các pháp khí khiến cho người người đều rúng động chân tâm, sự trầm bổng của các âm điệu niệm Phật khiến cho chúng hữu hình, vô hình tưởng chừng như đang ngự trên cực lạc. Pháp Ngũ Hội Niệm Phật vẫn có thể tìm thấy qua các phương tiện truyền thông. 

Thiết nghĩ, ngày nay chỉ một câu “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” mà đã sản sinh ra rất nhiều giai điệu trong âm nhạc. Không những vậy, cộng hưởng theo đó là các tiếng ngân của chuông mõ, chim hót, suối reo, gió thổi… khiến cho hàng sơ cơ vui thích niệm Phật. Đây cũng là phương tiện khéo léo dẫn dắt chúng sanh hướng đến pháp môn Tịnh Độ. Như vậy, nhờ tiền đề xưa kia ngài Pháp Chiếu đã chủ xướng Ngũ Hội Niệm Phật mà hôm nay Tịnh Độ càng trở nên đa dạng.

ĐẠI SƯ ẤN QUANG (1861-1940)

Đề cập đến pháp môn Tịnh Độ Việt Nam thời hiện đại không thể không liên hệ đến những ảnh hưởng từ Đại sư Ấn Quang. Ngài là một nhà tư tưởng lớn của Tịnh Độ tông, các nguyên tác đồ sộ của Ngài đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, chủ trương mới của Đại sư cũng do sự kết tinh từ người đi trước. Đại sư đề cao nhất là vấn đề tu nhân học Phật và nhất hướng chuyên niệm. Tất cả giáo yếu học Phật tu nhân đều được cô đọng trong Lời Khai Thị Của Ấn Quang Đại Sư. Kết hợp với đạo lý Nho gia và tánh đức nhà Phật, Ngài cho rằng: Trọng mối luân thường; hiếu hòa, nhẫn nhục; ứng xử lợi tha; kỷ luật bản thân như: Hổ thẹn, sám hối, khiêm hạ… “Hãy coi mọi người như Bồ tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu” [23] là phẩm chất căn bản của một đệ tử Phật, lại là chánh nhân của việc vãng sanh.

Đại sư dạy: Đừng quan tâm những chướng ngại ở thân, tâm và cảnh, từ sáng đến tối chỉ lo niệm Phật, nếu khởi vọng niệm tức thời liền bỏ. Niệm sao mà tâm phải nghe rõ ràng, phân minh là được. Hoặc nên trợ duyên bằng pháp Thập niệm ký số [24]. Ngài hoàn toàn không đề cập đến công phu chứng đắc, dùng Tín – Nguyện chân thiết, miên mật niệm Phật là đủ. Đó là quan điểm nhất hướng chuyên niệm. Nếu được vậy thì đến lúc mạng chung Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng lai nghinh tiếp đón. Những phương pháp tu học Đại sư đưa ra không hề cao siêu, nó ẩn ngay trong cuộc sống ứng đối môi trường xã hội hằng ngày. Do vậy, rất nhiều hành giả Việt Nam từ các chùa, niệm Phật đường, các đạo tràng đã dán những lời khai thị súc tích này vào nơi dễ nhìn thấy nhằm nhắc nhở họ ghi nhớ hằng ngày.

Đề cập đến pháp môn Tịnh Độ Việt Nam thời hiện đại không thể không liên hệ đến những ảnh hưởng từ Đại sư Ấn Quang. Ngài là một nhà tư tưởng lớn của Tịnh Độ tông, các nguyên tác đồ sộ của Ngài đã chứng minh điều đó.

Ngoài ra, Đại sư rất quan tâm đến giới luật và tâm cung kính. Cũng giống như ngài Liên Trì, ngoài khuyên nhắc mọi người nghiêm trì giới cấm, Đại sư tha thiết kêu gọi trường chay – niệm Phật, thực hành phóng sanh. Ngài khẳng định: Bảo vệ sự sống của chúng sanh là bảo vệ chính mình, bởi vì tránh được nạn nước, lửa, đao binh và quả báo đọa lạc [25]. Đặc biệt ở Ngài là tâm cung kính, cả cuộc đời Ngài là một biểu pháp của một bậc oai nghi cung kính Tam bảo. Trong lời dạy Khuyên Nên Giữ Lòng Thành Kính [26], Đại sư cho rằng đó là yếu tố quan trọng của kẻ chân thật học Phật, là nguồn mối của sự nghiệp tiến đạo.

Hòa thượng Trí Tịnh rất ngưỡng mộ Đại sư Ấn Quang, qua các lời tâm sự với đại chúng, Hòa thượng thường ca ngợi: “Đại sư Ấn Quang là bậc long tượng trong thế kỷ này… Đúng là bậc thiện tri thức của mọi người, đáng là đấng Đại Đạo Sư của mọi giới” [26], thậm chí Hòa thượng khuyên mọi người nên ghi chép, in ấn và lưu truyền cẩn thận lời khai thị của Đại sư.

Hòa thượng Thiền Tâm vô cùng cảm phục tài năng của Đại sư. Hòa thượng căn cứ vào tư tưởng Tịnh Độ của Đại sư qua tác phẩm Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao để kết tập thành Lá Thư Tịnh Độ và Tịnh Độ Tân Lương ngưỡng mong người đời xây dựng cách nhìn chân chính về Tịnh Độ. Kể cả văn phong viết sách của Hòa thượng (được cho là rất đặc biệt) có nhiều nét rất giống Đại sư.      

Hiện nay, nhiều hành giả dùng các tác phẩm Ấn Quang Đại sư Gia Ngôn Lục, Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao làm kim chỉ nam cho việc học Phật. Trong các buổi pháp thoại, các giảng sư Tịnh Độ cũng thường đem lời dạy của Ngài truyền dạy đến thế nhân. Bên cạnh đó, giáo thuyết y cứ của pháp môn Tịnh Độ giờ đây gồm 5 Kinh 1 Luận. Bộ Kinh thứ năm: Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông Chương rất được Ni trưởng Hải Triều Âm quan tâm. Vào thời công phu Tịnh Độ, ngoài việc trì Kinh A Di Đà do Ni trưởng soạn dịch, các môn đồ còn tụng đọc thêm Kinh này hằng ngày [27].

Đại sư Ấn Quang rất coi trọng Hộ niệm [28], toàn bộ quan điểm của Ngài thể hiện trong Lâm Chung Tam Đại Yếu [29]. Do nhìn được thế cuộc, Đại sư cho rằng Hộ niệm là việc tối cực quan trọng trong thời kỳ Tịnh Độ ngày nay. Ở điểm này, hành giả Tịnh Độ Việt Nam hưởng ứng rất mạnh mẽ. Các bậc Tôn đức như: Hòa thượng Liên Tôn đã trình bày ở điểm 13 về tư tưởng Tịnh Độ của mình [30]; Hòa thượng Trí Thủ đề cập ở tiết thứ 5 của chương III trong Pháp Môn Tịnh Độ [31]. Hòa thượng Thiền Tâm diễn đạt chu toàn ở chương X trong Niệm Phật Thập Yếu [32]. Đặc biệt, Hòa thượng Phổ Tuệ đã mở một buổi tọa đàm “Niệm Phật – Hộ Niệm Vãng Sanh”, trong đó cư sĩ Diệu Âm Minh Trị và Vụ trưởng Vụ Phật giáo Bùi Hữu Dược là những nhân vật chủ tọa giải đáp mọi thắc mắc về hộ niệm [33].

Nhìn vào thực tế, đạo tràng Hộ niệm có ở khắp nơi trong cả nước. Hai đạo tràng nổi tiếng nhất là: Diệu Âm Minh Trị và Thu Hương (Sư cô Tịnh Khai) hoạt động rất tích cực trên 60 tỉnh thành. Họ không những tổ chức Hộ niệm sống động ở đời thường mà kể cả công nghệ online như Zoom, Zalo cũng được ứng dụng triệt để. Những chủ xướng mà Đại sư Ấn Quang để lại đã góp phần làm cho Tịnh Độ Việt Nam ngày nay thêm hưng thịnh. Không cần nhìn ở đâu xa, có những ngôi chùa còn mang tên Ngài (chùa Ấn Quang – TP. HCM), điều này cho thấy hành giả Việt Nam luôn xem Đại sư là bậc đáng kính ngưỡng muôn đời.

Xin bàn rộng thêm, hiện nay Lão Pháp sư Tịnh Không (1927) đang giữ vai trò Thượng thủ về Tịnh Độ tông. Chủ trương của Ngài là phát triển tinh thần của Đại sư Ấn Quang (tu học pháp môn Tịnh Độ từ Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Lão Cư sĩ là đệ tử Đại sư Ấn Quang). Về vấn đề tu nhân, Hòa thượng Tịnh Không dùng Nho – Phật nhất trí để khuyên dạy đại chúng. Các tác phẩm: Kinh Thập Thiện Nghiệp (Giáo dục Phật Đà), Kinh Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Giáo dục nhân quả), Đệ Tử Quy (Giáo dục luân lý), Liễu Phàm Tứ Huấn rất được quan tâm. Về vấn đề niệm Phật, Ngài kế thừa tư tưởng chư Tổ, nhưng nghiêng nặng về Đại sư Ấn Quang và Ngẫu Ích.

Tịnh Tông Học Hội được kiến lập khắp nơi trên thế giới. Một số hành giả Việt Nam đang tham gia Hội này học tập tư tưởng và phát triển cùng Ngài. Pháp hội Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm [34] cũng là một trào lưu ảnh hưởng từ Lão Pháp sư. Những chiếc ca sa nâu, áo tràng nâu tay rộng đang hoạt động ở các đạo tràng Tịnh Độ là biểu hiện của các hành giả đang tiếp nhận tư tưởng tu học từ Lão Hòa thượng. Hoặc nhiều hành giả tuy học tập từ Ngài nhưng hình tướng lại là tín chúng Phật giáo Việt Nam. Đến thời Lão Pháp sư Tịnh Không, các hành giả đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp quán tưởng niệm Phật và chấp trì danh hiệu. Nhất là các Ban Hộ niệm, hai phương pháp này dường như không thể tách rời, chúng rất cấp thiết cho người bệnh và người sắp lâm chung.

Tóm lại, Cao tăng trong Tịnh Độ tông Trung Hoa rất nhiều và có năm bậc Thượng thủ lưu danh muôn đời về pháp Trì danh niệm Phật. Những vị ấy là Ngài: Đạo Xước, Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Ấn Quang và Tịnh Không. Các phương pháp niệm Phật ấy rất đơn giản, dễ thực hành và sớm đạt thành tựu. Đồng thời tông chỉ Tịnh Độ mỗi vị đưa ra rất thích hợp với văn hóa đạo đức của người Việt, vì lẽ đó uy danh và hành pháp của các Ngài được lưu truyền và phổ biến đến các hành giả Tịnh Độ Việt Nam.

 

Thích Nữ Liên Hiền/VĂN HÓA PHẬT GIÁO 391

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Bên cạnh pháp Trì danh niệm Phật còn có các phương thức thực hành khác của Tịnh Độ tông như: Quán tượng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật, Tham cứu niệm Phật.

[2] Để giải thích lí do Đại sư Đạo Xước không được xếp vào chư vị Tổ sư Tịnh Độ, học giả Nghiệp Lộ Hoa cho biết: do nhiều lần bị triệt phá Phật giáo trong sự kiện “Hội Xương pháp nạn”, khiến cho Đại sư Tông Hiểu, Chí Bàn không biết đến tư tưởng và sự lừng danh của ngài Đạo Xước. Vì vậy, Ngài bị lãng quên ở địa vị Tổ sư, người đời sau cũng y theo tiêu chí này khiến cho địa vị của ngài Đạo Xước không còn được coi trọng. Xem tại: Bản Nguyện Niệm Phật, Nhiều tác giả (2015), NXB. Tôn giáo, TP HCM, tr.295.

[3] Vương Nhựt Hưu (2009), Long Thơ Tịnh Độ, Thích Hành Trụ (dịch), Thư viện Ebook, tr.62.

[4] Thích Nguyên Hiền., “Pháp Môn Tịnh Độ Tại Việt Nam”, Nghiên Cứu Phật Học, (Hà Nội), số 9 (2016), tr.30-36, tr.36.

[5] Thích Thái Hòa (2013), Đi Vào Bản Nguyện Tịnh Độ, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, TP HCM, tr.80.

[6] Thích Thái Hòa (2013), Sđd, tr.82.

[7] Thích Thái Hòa (2013), Sđd, tr.83.

[8] Thích Thái Hòa (2013), Sđd, tr.95.

[9] Nguyễn Tiến Sơn, “Kinh Điển Y Cứ Của Pháp Tu Tịnh Độ và Các Nhân Vật Tiêu Biểu Thực Hành Pháp Tu Tịnh Độ”, Nghiên Cứu Tôn Giáo, (Hà Nội), Số 1&2 (160), (2017), tr.28-54, tr.48.

[10] Điểm thứ (4), HT. Liên Tôn cho rằng pháp niệm Phật cần phải có ký số lần chuỗi, ghi nhớ lượt niệm để được chú tâm – chánh niệm. Xem thêm: Thích Đồng Thành, “HT Liên Tôn và Tư Tưởng Tịnh Độ Nhân Gian”,  Xưa Và Nay, (Hà Nội), số 497 (7/ 2018), tr.22-28, tr.25.

[11] HT. Thích Phổ Tuệ, Đại Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ Nói Về Hành Trạng Chư Tổ Chùa Ráng và Pháp Tu [12] Đại sư Đạo Xước rất đề cao pháp trì danh niệm Phật và tán thán Đại sĩ Vi Đề Hy vì tình thương chúng sanh nên đã thỉnh Đức Thích Ca mở bày pháp môn Tịnh Độ, do vậy Ngài cũng lấy Quán Kinh làm kim chỉ nam để quán tưởng về thế giới Cực Lạc. Xem thêm: An Lạc Tập, Sa môn Đạo Xước, Như Hòa (chuyển ngữ), thư viện Ebook, tr.4.   

[13] HT. Thích Trí Thủ (2002), Pháp Môn Tịnh Độ, Nxb. Phú Lâu Na, Mỹ, tr.68-71.

[14] Các Đại sư đương thời như: Tịnh Ảnh Huệ Viễn, Trí Giả, Khuy Cơ cho rằng bà Vi Đề Hy là một hóa thân Bồ tát để mở bày pháp tu Tịnh Độ thì ngài Thiện Đạo lại cho rằng bà cũng phàm phu được Phật A Di Đà cứu độ. Xem thêm: Bản Nguyện Niệm Phật, Nhiều tác giả (2015), Nxb. Tôn giáo, TP. HCM, tr.303-307.

[15] Ngũ Niệm Môn gồm: (1) Lễ bái Phật A Di Đà, (2) tán thán (xưng danh và nhớ tưởng) Phật A Di Đà, (3) mong nguyện về Cực Lạc, (4) quán sát trang nghiêm cõi Cực Lạc, (5) hồi hướng chúng sanh cùng mình sanh về Cực Lạc và sẽ trở lại Ta Bà thế giới giáo hóa chúng sanh cùng hướng về Phật đạo. Xem tại: Đàm Loan Đại Sư (2017), Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá – Nguyện Sinh Kệ Chú, Thích Nhất Chân (dịch), Nxb. Hồng Đức, TP. HCM, tr.240-50.

[16] Đại sư Thiện Đạo (2005), Niệm Phật Cảnh, Thích Minh Thành (dịch), Nxb. Tôn giáo, TP HCM, tr.7-9.

[17] HT. Thích Minh Thông, Khai Thị Niệm Phật [online], đã phát: 17/4/2009, https://www.youtube.com/watch?v=bXbAp-_6tlw.

[18] Hòa Thượng Thiện Đạo (2009), Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, Thích Thiền Tâm (dịch Kinh văn), Thích Pháp Chánh (dịch Sớ văn), Tường Quang Tùng Thư số 9, tr.157.

[19] Pháp Sư Tịnh Tông (2017), Tư Tưởng Tịnh Độ Của Đại Sư Thiện Đạo, Liên Mãn dịch, Nxb. Hồng Đức, TP. HCM, tr.215.

[20] Nhiều tác giả (2015), Bản Nguyện Niệm Phật, Nxb. Tôn giáo, TP. HCM, tr.95.

[21] Xem thêm: Tư Tưởng Tịnh Độ Của Đại Sư Thiện Đạo, Pháp Sư Tịnh Tông (2017), Liên Mãn dịch, Nxb. Hồng Đức, TP HCM, tr.34-35.

[22] Pháp Tạng Phật giáo Việt Nam, Luận Sử Tịnh Độ tông, Thư viện Ebook, tr.108.

[23] Trích trong “Lời Khai Thị của Đại sư Ấn Quang”.

[24] Có hai cách hiểu về Thập niệm ký số: Cách thứ nhất dành cho người chuyên niệm: Không được dùng chuỗi. Dùng tâm niệm từ một đến mười câu, rồi niệm trở ngược lại mười đến một. Nếu quá số thì không được tính kể. Nếu chưa quen thì chia làm hai hơi: từ câu một đến câu năm, từ câu sáu đến câu mười. Cách thứ hai dành cho người bận rộn. Đây là phương pháp của ngài Từ Vân Sám Chủ đời Tống đề xướng. Cách này dùng một hơi bất kể dài hay ngắn là một niệm, niệm đến mười hơi. Thực hành như vậy giúp cho tâm không bị xen tạp. Mỗi ngày càng nhiều thời càng tốt, hoặc tới chín thời. Lâm chung ắt có phần vãng sanh. Xem thêm: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, Lý Viên Tịnh (kết tập), Như Hòa (dịch), Thư viện Ebook, tr.49. 

[25] Nguyễn Minh Tiến (dịch và soạn giải) (2016), Cẩm Nang Phóng Sinh, Nxb. Tôn giáo, TP HCM, tr.115.

[26] Trích trong: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, Lý Viên Tịnh (kết tập), Như Hòa (dịch), Thư viện Ebook, tr.105-113.

[27] HT. Thích Trí Tịnh (2014), Hương Sen Vạn Đức, Nxb. Hồng Đức, TP HCM, tr.247.

[28] NT. Hải Triều Âm (dịch) (2015), Kinh A Di Đà, Nxb. Tôn giáo, TP HCM, tr.31-33.

[29] Hộ niệm là phương pháp dùng âm thanh niệm Phật của người còn khỏe mạnh trợ giúp cho người sức yếu hoặc vừa mới lâm chung duyên theo tiếng niệm Phật để được nhiếp tâm. Ứng dụng phương pháp Hộ niệm để kịp thời hỗ trợ tích cực cho nhau an tâm hơn trên con đường vãng sanh cực lạc. Xem tại: Hộ Niệm là một Pháp Tu, Diệu Âm Minh Trị (2017), Nxb. Hồng Đức, TP HCM, tr.02

[30] Nguyên tên của tác phẩm là “Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung”, trích trong: Ấn Quang Đại Sư Khai Thị (Tại Pháp Hội Hộ Quốc Tức Tai Ở Thượng Hải ), Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương (dịch) (2009), Thư viện Ebook, tr.72-78.

[31] Thích Đồng Thành., “HT Liên Tôn và Tư Tưởng Tịnh Độ Nhân Gian”, Xưa Và Nay, (Hà Nội), số 497 (7/2018), tr.22-28, tr.26.

[32] HT. Thích Trí Thủ (2002), Pháp Môn Tịnh Độ, Nxb. Phú Lâu Na, Mỹ, tr.43-47.

[33] Thích Thiền Tâm (2011), Niệm Phật Thập Yếu, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.306-316.

[34] HT. Thích Phổ Tuệ, Khai Thị và Hỏi Đáp Về Niệm Phật – Trợ Niệm Vãng Sanh, đã phát 29/2/2016, https://www.youtube.com/watch?v=cZGpA999g7M&t=563swatch?v=cZGpA999g7M&t=563s.

[35] Trung Phong là một tên gọi khác của Thiền sư Minh Bổn (nhà Nguyên). Ngài là người biên soạn và thực hành pháp Tam Thời Hệ Niệm. Nghĩa đen là ngày ba thời, đêm ba thời; nghĩa bóng là ngày đêm không trễ lười. Hệ niệm tức là niệm niệm nối nhau liên tục. Đây là pháp sự cầu vãng sanh cho người âm và tích chứa lợi ích vãng sanh về sau cho người dương. Xem tại: HT. Tịnh Không (giảng) (2014), Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm – Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Như Hòa (dịch), Nxb. Hồng Đức, TP HCM, tr.22-23.

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin