Chi tiết tin tức Từ tự tánh Phật A Di Đà sáng soi đến ánh sáng vô lượng Phật quốc hiện tiền 09:34:00 - 03/12/2022
(PGNĐ) - Chừng nào con người còn khát vọng đoạn tận khổ đau, chừng đó con người còn khát vọng xây dựng thế giới hạnh phúc. Chính vì lẽ đó, Đức Phật Thích Ca đã thuyết minh về thế giới Cực lạc ở phương Tây do Đức Phật A Di Đà ngự trị mà bất kỳ chúng sinh nào hướng tâm đến đều được an trú trong niềm phúc lạc của hào quang vô lượng quang, vô lượng thọ và vô lượng công đức.
Sự thật này do bản kinh Vô Lượng Thọ, còn gọi là Đại Vô Lượng Thọ, mô tả về thế giới Tây phương được kiến lập bởi một hình thức trang nghiêm của cung điện vàng ngọc, cây báu… Ở đó còn có Đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp cùng với 48 lời nguyện mà mọi người dân Phật tử hướng nguyện. Trong 48 lời nguyện này, có lời nguyện rằng tất cả chúng sinh, nếu ai niệm Phật A Di Đà thì sẽ được Đức Phật Di Đà tiếp dẫn đưa về thế giới Tịnh độ thanh tịnh, đẹp đẽ khi lâm chung. Tại đây, tự thân người đó không còn bị đau khổ bởi sinh tử, mà còn tự mình diện kiến Phật A Di Đà, sau đó được Ngài dạy bảo và tịnh tâm thành Phật. Rõ ràng, tư tưởng và tín ngưỡng chí nguyện sanh về thế giới Tây phương Tịnh độ để thành Phật là thế. Việc con người sống trong thế giới hiện thực khổ đau này luôn hướng niệm diện kiến hình ảnh Phật A Di Đà ở cõi Tây phương, hẳn nhiên là nhu cầu có thật và cấp thiết. Ngay trong bản kinh A Di Đà (Đại 12 – 354), một bản kinh nhật tụng hằng ngày của Phật tử, cũng mô tả lộ trình về cõi Tây phương rất sống động, thu hút biết bao người dân, mọi thành phần xã hội nỗ lực hành trình về miền Tịnh độ: “…Hành giả đi về phía Tây quá mười vạn ức Phật độ, có một thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”. Chính vì chí nguyện đó, Phật tử cứ đến ngày 17/11 âm lịch hằng năm đều khát ngưỡng hướng về ngày vía Đức Phật A Di Đà, cầu mong ánh sáng vô lượng của Ngài soi chiếu thế gian này để hóa thành Phật quốc hiện tiền. Trong ý nghĩa đó, năm nay cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam đem hết tâm lực, trí lực, tài lực tổ chức Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ IX với thông điệp: “Kỷ cương – Trách nhiệm – Đoàn kết – Phát triển” thành công viên mãn, đã minh chứng cho tự tánh Đức Phật A Di Đà sáng soi thế giới Phật quốc hiện tiền trong niềm hạnh phúc vô biên của Phật tử Việt Nam. Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức), nên vấn đề đặt ra cho người học đạo phải là thiết lập Tín – Hạnh – Nguyện trong hành trình về miền đất an lạc. Nghĩa là một người tu tập pháp môn hướng niệm về cực lạc, trên cơ sở khởi lòng tin bất động có một thế giới Tịnh độ ở Tây phương do Đức Di Đà làm Giáo chủ mà thực thi hành trì niệm Phật, thể nhập hạnh nguyện của mình vào cầu vãng sinh “lâm chung Tây phương cảnh, phân minh tại mục tiền”. Nó lý giải tại sao vào thời kỳ Phật giáo du nhập, tín ngưỡng Tịnh độ đã được người dân nước ta thực thi hành trì, mong cầu trong suốt cuộc đời, ít nhất là khi nhắm mắt xuôi tay, giã từ cuộc đời có thể diện kiến Phật, thấy Đức Di Đà tiếp dẫn về cõi Tây phương Cực lạc. Căn cứ vào các bản kinh cốt lõi của Tịnh độ như: Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Di Đà thì có ba phương thức niệm Phật mà các tín đồ thường hành trì phù hợp cho từng căn cơ, môi trường tu tập. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TIÊN LÀ TRÌ DANH NIỆM PHẬT: Phương thức này được phổ cập hóa trong đời sống thực tiễn. Các Tổ sư thường dựa vào bản Kinh A Di Đà và nguyện 18 trong kinh Vô Lượng Thọ: “Khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu tôi, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào, dốc lòng hồi hướng nguyện sinh về cõi nước tôi, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh, thề không thành Chánh Giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp” mà khuyến bảo hàng Phật tử chỉ chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà ở mọi lúc mọi nơi để nhiếp tâm an tịnh khi đi đứng nằm ngồi, đừng để gián đoạn. Trong quá trình hướng tâm đến Tịnh độ, để thực tập hành trì hữu hiệu cần niệm Phật theo thời khóa quy định, hay thực tập pháp kinh hành niệm Phật. Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng, phát nguyện cầu sanh về Tịnh độ. Pháp thực hành này thích hợp với mọi căn cơ, hễ có niềm tin và chí thành đều thọ trì được. Kinh nghiệm cho thấy, khi trì niệm thuần thục với lòng chí thành lâu ngày sẽ đạt được “nhất tâm bất loạn”, thành tựu tam muội. PHƯƠNG THỨC THỨ HAI LÀ QUÁN TƯỞNG NIỆM PHẬT: Phương thức này được Đức Phật dạy trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Có thể chọn một trong 16 phép quán để thực tập quán y báo và chánh báo trang nghiêm ở quốc độ cực lạc của Phật A Di Đà. Quá trình quán chiếu giúp người quán tưởng niệm Phật đến cấp độ thuần thục thì khi nào cũng nhận chân cảnh giới cực lạc, ngay trong cuộc sống hiện tại có thể cảm ứng thọ dụng thế giới cực lạc mà không phải đến lúc lâm chung. PHƯƠNG THỨC THỨ BA LÀ THẬT TƯỚNG NIỆM PHẬT: Đây là phương thức phù hợp với người có căn trí cao, thuộc về lý nhiều hơn sự. Bản Kinh Niệm Phật Tam Muội nhấn mạnh chánh niệm quán tưởng về thực tướng của các pháp chính là niệm Phật. Niệm Phật cho đến vô niệm, vô niệm mà niệm. Đây chính là thật tướng niệm Phật, nghĩa là trực nhận chân tâm, chứng ngộ chân lý. Thông qua việc thực hành niệm Phật, kết hợp quán chiếu là phương tiện để chứng đắc thật tướng. Một câu Phật hiệu bao gồm lý sự viên dung, năng niệm và sở niệm đều từ chân tâm mà lưu xuất. Đây cũng cũng chính là sự quán tưởng thật tướng hay pháp thân của Phật. Nhìn chung, bất cứ ai thực hành pháp môn niệm Phật đều an trú vào thế giới Tịnh độ. Tịnh độ là trú xứ thường tịnh của mười phương chư Phật và Bồ tát. Chư Phật, chư Bồ tát với tâm đại bi đã hướng mọi chúng sinh trở về an trú trong thế giới Tịnh độ với niềm tin và sự hành trì khát ngưỡng được Phật A Di Đà tiếp dẫn. Khi đạo Phật du nhập và phát triển ở nước ta từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên, người dân Việt đã bước đầu tiếp xúc với tín ngưỡng Tịnh độ qua các bản kinh Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Lục Độ Tập Kinh. Hình ảnh Đức Phật A Di Đà xuất hiện rõ nét qua các câu chuyện trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, đặc biệt là truyện 60 xuất hiện danh hiệu Phật A Di Đà với lòng khát ngưỡng được cứu độ của dân chúng đang trôi lăn trong dòng sinh tử khổ đau. Trong bối cảnh bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, vào thế kỷ III, bản kinh Lục Độ Tập Kinh do nhà sư Khương Tăng Hội biên soạn và dịch cũng nói chức năng, vai trò của sự tu tập theo lý tưởng Bồ tát là: “Bồ tát cứu độ chúng sinh, giải thoát nhân dân ra khỏi cực khổ lầm than”, muốn vậy cần tu tập pháp môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. Đến thế kỷ V, tư tưởng tịnh độ cùng phương thức niệm Phật đã được hành trì và bước đầu phổ cập đến dân chúng nước ta. Rõ nét nhất là sự kiện sư Đàm Hoằng đến Giao Châu tu hành theo giáo lý Tịnh độ, chỉ tập trung hành trì theo bản Kinh Vô Lượng Thọ và Thập Lục Quán với một ước mơ duy nhất là được vãng sinh về thế giới Cực lạc phương Tây [1]. Theo Vãng sinh tịnh độ truyện, q. thượng tờ 112a22-b7 do Giới Châu biên soạn vào năm 1068-1077, Đàm Hoằng đã sống và tu hành như sau: “Thích Đàm Hoằng, người Hoàng Long, hoặc nói là nói người Cao Bưu của Quảng Lăng, trong khoảng Tống Vĩnh sơ, nam du Phiên Ngung, dừng ở chùa Đài, sau đến chùa Tiên Sơn, Giao Chỉ vào khoảng năm 425. Ngoài việc nhang đèn, hoàn toàn không làm gì khác, chỉ tụng Vô Lượng Thọ và Thập Lục Quán (Quán kinh) không biết bao nhiêu lần. Hoằng mỗi lần niệm nói “Một thân muôn nối, niệm chính khó giữ, có thể nương niệm chính, mới sớm thấy A Di Đà”. Điểm đáng nói, sự kiện Thiền sư Đàm Hoằng trong tiến trình tu tập pháp môn Tịnh độ là minh chứng có thật cho giới Phật tử bấy giờ có niềm tin thực hiện hoài bão thấy Phật. Đó cũng là hình ảnh sư đã tự thiêu cúng dường Tam bảo và hóa thân sắc vàng, cưỡi con nai vàng đi về Tây phương như trong Cao Tăng truyện 12 tờ 405c 19-28 lược ghi: “Vào năm Hiếu Kiến thứ 2 (455), sư nhóm củi trên núi, lén vào trong củi lấy lửa tự thiêu. Đệ tử đuổi kịp, ôm giữ đem về, thì nửa mình đã cháy, trải tháng mới biết chút ít. Sau đó, xóm gần có hội cả chùa đối phó. Hoằng vào ngày ấy, lại vào hang núi tự thiêu. Dân xóm đuổi tìm thì mạng Hoằng đã dứt. Do đó họ chất củi thêm, đốt lửa ngày hôm sau mới tắt. Ngày hôm đó, dân xóm đều thấy Hoằng thân vàng, sắc vàng, cưỡi một con nai vàng đi về phía Tây rất nhanh, không nghỉ hỏi han. Tăng tục mới hiểu sự thần dị, cùng lượm xương tro, để dựng tháp thờ”. Từ đó về sau, pháp môn Tịnh độ đã được vận dụng vào các phương thức hành thiền của các dòng thiền Việt Nam như: Tỳ Ni Đa Lưu Chi ra đời vào thế kỷ VI tại chùa Pháp Vân, Vô Ngôn Thông hình thành vào thế kỷ IX tại chùa Kiến Sơ, dòng Thảo Đường khai mở vào thế kỷ XI ngay trong hoàng cung Thăng Long. Và như vậy, có thể nói tư tưởng và pháp môn Tịnh độ đã có xu hướng thể nhập vào Phật giáo Thiền tông nước ta thời đó. Nhất là khi nước nhà độc lập, vấn đề kiến tạo quốc gia Đại Việt hóa thành Phật quốc được giới lãnh đạo Phật giáo và lãnh đạo đất nước chủ trương quan tâm thì tư trào tu tập Tịnh độ phát triển, phổ cập trong đời sống văn hóa tâm linh của nước ta là sự thật hẳn nhiên. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi lại sự kiện vua Lý Thánh Tông (thế hệ thứ nhất dòng thiền Thảo Đường) đã cho tạc pho tượng Đức Phật A Di Đà có một không hai trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc dân tộc, thờ tại chùa Phật Tích (Vạn Phúc Tự). Các thiền sư sử dụng phương pháp niệm Phật trong tu tập thiền định và khát vọng xây dựng một thế giới cực lạc ngay giữa cõi đời này là nhu cầu tất yếu trong bối cảnh đất nước Đại Việt hưng thịnh. Đó cũng là câu trả lời cho câu hỏi tại sao vào thời Lý nhiều pho tượng Phật A Di Đà được tôn trí trong các thiền đường. Sách Thiền Uyển tập anh [2] cũng ghi nhận ngoài việc Thiền sư Không Lộ tôn trí tượng Phật A Di Đà để phụng thờ. Ngoài ra, sách còn đề cập đến việc Thiền sư Tịnh Lực – học trò của Đạo Huệ, thuộc thế hệ thứ 11, dòng Vô Ngôn Thông đã vâng lời Đạo Huệ dạy: “Tâm ấn chư Phật, người đã có sẵn, không cần theo ai mà được”. Sư thưa “Đã được thầy chỉ dạy, nhưng nay nên trụ nơi nào?”. Đạo Huệ bảo: “Chẳng cần đi đâu xa, ở tại Vũ Ninh là tốt”. Sư lên thẳng núi, cất am cỏ, ở tu. Kết quả, qua 12 năm tu hành, chứng đắc pháp “niệm Phật Tam muội” nhờ công phu niệm Phật mà được đại định. Điều quan trọng là thiền sư đã dạy các môn đồ của mình không nên tìm cầu Phật bên ngoài mà nên áp dụng phương pháp niệm Phật bằng cả tâm lẫn miệng đến khi nào thấy tự tính Di Đà (thấy tánh mà thành Phật). Vậy là pháp môn niệm Phật tam muội mà Thiền sư Tịnh Lực chứng đắc và phổ biến trong các thiền đường nước ta vào thời Lý cho mọi người tu tập, thực chất là phương pháp thiền định bằng cách niệm tưởng (nghĩ nhớ) đến Phật, căn cứ trên bản Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh. Sang đời Trần, thiền phái Trúc Lâm ra đời trên cơ sở hợp nhất ba dòng thiền đang sinh hoạt bấy giờ. Với quan điểm Phật tại tâm, phương thức niệm Phật theo Thiền phái Trúc Lâm là loại bỏ niệm xấu thay vào đó là niệm tốt để tâm trở nên trong sạch hoàn toàn. Mục đích cuối cùng mà Phật Hoàng mong muốn là làm hóa hiện thế giới Tịnh độ ngay giữa cuộc đời bằng cách mỗi người dân Đại Việt tu tập thành tựu được tâm thanh tịnh, trong sạch, không có sự cấu bẩn bụi trần (Tịnh độ là lòng trong sạch). Nói như trong Khóa hư lục, bản kinh nhật tụng đời Trần, qua bài Niệm Phật luận thì niệm Phật nhằm có khả năng xử lý những sai lầm, ngõ hầu dập tắt ba nghiệp thân khẩu ý: “Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý” [3]. Trong tinh thần niệm Phật theo sắc thái thiền đó, niệm Phật trở thành phương thức tu tập loại bỏ tập khí dần dần, hướng đến thuần thục để tâm trở nên tịch tịnh. Đối tượng tu tập là nhớ nghĩ về Phật, tập trung nghĩ vào một đối tượng là một hình thức “chỉ”, sâu hơn nữa thấy rõ tâm thức ấy biểu hiện những hành động gì, có sai trái phải nỗ lực hối cải, tẩy rửa tâm thức. Đây là một hình thức “quán”. Mỗi khi hành giả đã quán thấy rõ sự vật, tỉnh thức với những việc sai trái thì sẽ điều chỉnh. Đây là một phương thức “chỉ quán song tu”, thực chất là những bước đi đầu tiên của thiền. Việc vận dụng pháp môn niệm Phật vào việc hành thiền, chứng tỏ Thiền phái Trúc Lâm kế thừa và tùy duyên hướng dẫn quần chúng bước vào nếp sống đạo thiền đi từ thấp đến cao, chú tâm hướng nội, tìm lại Phật thân. Phật thân đó, có thể tóm tắt ngắn gọn tôn ý của Phật Hoàng: “Tịnh độ là lòng trong sạch, Di Đà là tự tính sáng soi”. Đây là kết quả biến đổi từ một nội dung mang màu sắc tư tưởng tịnh độ sang sắc thái “thiền” mà thiền Trúc Lâm nỗ lực thiết lập và vận dụng vào đời sống tu tập thực tiễn. Chủ trương này đã hóa thành hiện thực, lý giải tại sao Phật giáo Đại Việt có thể kiến tạo Phật quốc bằng nếp sống đạo Thiền “Cư trần lạc đạo”, đúng như trong Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung mô tả qua bài kệ Thị tu Tây phương bối: “Thân báu Di Đà tại đáy lòng, Bốn phương thân pháp tỏa mênh mông. Cả trời chỉ thấy vừng trăng quạnh, Đêm lắng vào thu vũ trụ trong” [4]. Đến thời Hậu Lê – Nguyễn, niệm Phật trở thành niềm tin bất động của người dân Việt trong việc hướng đến một thế giới bình an nội tại ngay giữa cuộc đời biến động. Khát ngưỡng về Phật A Di Đà có trí tuệ vô lượng, thọ mạng vô lượng và công đức vô lượng đã tạo nên sức mạnh nội tại duy trì mạng mạch Phật pháp xiển dương, Phật quốc hóa hiện tiền. Kết quả phong trào chấn hưng Phật giáo ra đời, làm nền tảng cho Phật giáo nước ta vững bước kiến tạo thế giới Phật quốc ngày nay. Từ trong mỗi người con Phật hướng về “Tự tánh A Di Đà” đã thắp lên ánh sáng vô lượng của niềm tin và hy vọng về cõi Phật hiện tiền mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam chủ trương kiến tạo. Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong tháng 11/2022 đã thành tựu rực rỡ. Tín đồ Phật tử cả nước sống trong thế giới huy hoàng của màu huỳnh y sáng ngời của chư Tăng Ni hội tụ giữa ánh sáng hào quang mười phương chư Phật chứng minh. Thông điệp của thế giới Phật quốc Việt Nam là “Kỷ cương – Trách nhiệm – Đoàn kết – Phát triển” ở nhiệm kỳ IX đã minh chứng thành hiện thực hạnh phúc. Và như thế “Di Đà là tự tính sáng soi, đâu cần tìm cầu cực lạc ở Tây phương”.
TT. Thích Phước Đạt/VĂN HÓA PHẬT GIÁO 402Chú thích: * Thượng tọa, Tiến sĩ Thích Phước Đạt – Ủy viên Hội đồng Trị sự, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. [1] Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), Nxb. Thuận Hóa, Huế. [2] Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb. TP HCM, tr.223. [3] Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội, tr.84. [4] Viện Văn học, Sđd, tr.242.
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |