Chi tiết tin tức

CON ĐƯỜNG THÀNH TỰU A LA HÁN QUẢ - ARAHATTAMAGGA ARAHATTAPHALA

09:49:00 - 19/06/2014
(PGNĐ) -  Tổng hợp các bài pháp thoại của Hòa Thượng Ãcariya Mahã Boowa về hành trình tu tập của ngài   Tác Giả: Hòa Thượng Ãcariya Mahã Boowa Nguyên Tác Anh Ngữ: Bikkhu Dick Sìlaratano Chuyển Ngữ: Nhất Như


“Món quà pháp bảo là cao quý hơn tất cả”

Đức Phật


 

Pháp bảo không được mua bán như hàng hóa ở xóm chợ

Được quyền tái bản tự do như món quà của Pháp Bảo, không cần phải xin giấy phép

Tái bản dưới bất cứ hình thức nào vì mục đích thương mại đều tuyệt đối ngăn cấm.

 

www.forestdhamma.org


 

MỤC LỤC

  1. Arahattamagga: Con đường trực tiếp chấm dứt tất cả mọi đau khổ.
  2. Arahattaphala:Rơi lệ trước sự diệu kỳ của giáo pháp.
  3. Arahattapatta: Bậc Thánh A La Hán vì sao phải rưng lệ?
  4. Phụ lục: Tâm – Cốt lõi bản chất thấy biết của tâm trí.
  5. Chú giải: Thuật ngữ Phật học.

 

 

PHẦN I
 

A LA HÁN ĐẠO

(Arahattamagga)
 

Con đường trực tiếp chấm dứt tất cả mọi đau khổ


 

Hiện thời, tất cả những gì còn lại của Phật Giáo là lời dạy của Đức Phật. Chỉ có giáo pháp của ngài –những tạng kinh – là còn lại. Hãy làm ơn ý thức điều này. Do sự bại hoại gây ra bởi bản chất cấu uế ô nhiễm của nghiệp, nguyên lý chân thực tâm linh không còn được thực hành trong Phật Giáo vào thời hiện tại. Khi là Phật tử, chúng ta cho phép tâm trí náo động không ngừng, khó chịu bực bội và chìm đắm trong mọi ô nhiễm đang tấn công chúng ta từ mọi phía. Chúng áp đảo tâm trí chúng ta khiến chúng ta không bao giờ có thể vượt trên mọi ảnh hưởng của cấu uế dù chúng ta cố gắng thế nào đi nữa. Đa số mọi người thậm chí không đủ hứng thú để nỗ lực. Họ chỉ đơn thuần nhắm mắt lại cho phép sự tấn công dữ dội này lấn áp họ. Thậm chí họ không một chút kháng cự. Vì không đủ tỉnh giác để ý thức tất cả mọi hậu quả của tư duy, tất cả mọi suy nghĩ, mọi tác hành và lời nói của họ qua nghiệp lực, họ quy phục quyền năng của lực tác hại này quá lâu đến mức họ thiếu động cơ để kiềm chế các vọng tưởng bất thường này. Khi chánh niệm vắng bóng, nghiệp công hành đã không được khắc chế trong mỗi phạm vi tâm hành. Qua quá trình, chúng tăng thêm gánh nặng và đè bẹp trái tim và tâm trí mọi người khắp ngã qua Khổ (dukkha).

Vào thời của Đức Phật, các môn đệ trực tiếp của ngài là những bậc hành giả chân chánh trên lộ trình Phật Giáo. Họ từ bỏ thế gian nhằm mục đích nhanh chóng chuyển hoá đau khổ. Bất chấp địa vị xã hội, tuổi tác hoặc giới tính, khi họ được thọ giới dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, họ thay đổi mọi thói quen tư duy, hành động và ngôn ngữ trên con đường Giáo pháp. Gạt bỏ mọi tác nghiệp qua một bên, các bậc đệ tử này không còn bị chúng lôi kéo nữa từ giây phút đó. Với nỗ lực chân thành, họ hướng tất cả mọi năng lực của họ để thanh lọc tâm và tẩy uế tất cả mọi ô nhiễm gây ra bởi nghiệp.

Chủ yếu, nỗ lực chân thành đồng nghĩa với sự gắng sức duy trì chánh niệm liên tục và vững vàng, không ngừng quán sát tâm trí. Khi chánh niệm giám thị tất cả mọi hoạt động tinh thần và cảm thọ trong tất cả mọi thời và qua mọi tư thế, điều này được gọi là “Chánh tinh tấn”. Dù chúng ta có thực hành qua hình thức tu tập của thiền hay không, nếu chúng ta nhiệt tâm tinh tấn duy trì tâm trí chúng ta chú tâm vững chắc ngay trong thời khắc hiện tại, chúng ta sẽ không ngừng phủ lấp mối đe dọa của nghiệp. Nghiệp làm việc không chút mệt mỏi, không ngừng khuấy động mọi vọng niệm của quá khứ và tương lai. Hiện tượng này khiến tâm trí bị quấy nhiễu, lôi kéo nó khỏi thời khắc hiện tại và từ nhiệt tâm tỉnh giác đang được duy trì qua nỗ lực của chúng ta.

Vì lý do này, hành giả không nên cho phép tâm trí của họ lang thang trong các vọng niệm trần tục của quá khứ hoặc tương lai. Lối tư duy như vậy lúc nào cũng sẽ ràng buộc họ với nghiệp lực, và do vậy, cản trở sự tu tập. Thay vì theo đuổi khuynh hướng của nghiệp hay đặt tâm đến vấn đề bên ngoài của thế giới trần tục, thiền nhân nhất định phải hướng nội và ý thức thế giới nội tại của tâm. Điều này cần yếu.

Trên một qui mô lớn, bởi vì họ không đủ kiên quyết ứng dụng các nguyên lý căn bản của thiền, nhiều thiền nhân đã thất bại trong việc gặt hái những kết quả vừa ý. Tôi luôn luôn dạy các đệ tử của tôi hãy cực kỳ nghiêm ngặt qua sự theo đuổi của họ và phải có sự chú tâm rõ ràng đặc biệt trong pháp thiền của họ. Bằng cách đó, chắc chắn là họ sẽ gặt hái những kết quả tốt đẹp. Rất quan trọng trong việc tìm kiếm một đối tượng chú tâm thích hợp, chuẩm bị tâm trí đúng mức cho loại công việc này. Tôi thường khuyến khích họ dự bị một thuật ngữ thiền dành cho sự lặp đi lặp lại không ngừng của tinh thần, hoạt động như một mũi neo để có thể nhanh chóng đặt tâm trí trong trạng thái tĩnh lặng và tập trung của thiền. Nếu thiền nhân đơn giản đặt chú tâm trên sự tỉnh thức hiện tại trong tâm trí mà không ứng dụng một thuật ngữ thiền nào để giữ chặt họ, kết quả chắc chắn là lúc được lúc không. Tính thấy biết hiện tại của tâm trí quá đỗi vi tế khiến chánh niệm không có được một nền tảng vững chắc nên chắc chắn là sẽ bị phóng tâm và tán loạn – lôi kéo bởi tiếng còi báo động của nghiệp. Sự hành thiền sau đó trở nên vá víu. Vào thời điểm nào đó, xem ra nó tiến triển một cách khá trôi chảy, hầu như không cần phải nỗ lực, để rồi bỗng nhiên trở nên khó khăn một cách không ngờ. Nó giao động và tất cả mọi tiến triển hốt nhiên tan biến. Với sự tự tin bị rung chuyển, tâm trí chỉ còn lại sự hoang mang lúng túng. Tuy vậy, nếu chúng ta sử dụng thuật ngữ thiền như một mũi neo đặt nền móng vững chắc cho chánh niệm thì tâm trí chắc chắn sẽ đạt đến một trạng thái tĩnh lặng và tập trung trong một thời gian ngắn nhất. Nó cũng là một phương tiện duy trì trạng thái tĩnh lặng một cách tinh tế nhẹ nhàng.

Tôi chia sẻ ở đây qua kinh nghiệm cá nhân. Khi tôi mới bắt đầu hành thiền, sự tu tập của tôi đã thiếu sót một nền tảng vững chắc. Vì tôi vẫn chưa khám phá phương pháp đúng đắn để chăm lo tâm trí, sự tu tập của tôi luôn trong trạng thái của một dòng chảy liên tục. Nó tiến triển vững vàng vào một lúc nào đó để rồi sau đó suy sụp thật nhanh chóng, và trở ngược lại tình trạng man khai như chưa từng được dạy dỗ. Qua nỗ lực mãnh liệt mà tôi gắng sức lúc ban đầu, tâm trí của tôi thành công trên quá trình đạt đến trạng thái tĩnh lặng và tập trung của định, vững chắc uy nghi như núi. Tuy nhiên vẫn thiếu sót một phương pháp thích hợp để duy trì trạng thái này, tôi xem nhẹ vấn đề và đã hài lòng với thành tựu mà tôi đã đạt được. Hiện tượng đó khiến sự tu tập của tôi bị sa sút nghiêm trọng. Sự hành trì của tôi bắt đầu trở nên xấu đi, nhưng tôi không biết làm sao để đảo nghịch sự suy sụp này. Tôi đã suy gẫm rất lâu, nỗ lực tìm kiếm một nền tảng vững chắc mà tôi có thể kỳ vọng ổn định được tâm trí. Cuối cùng, tôi đi đến kết luận là chánh niệm đã rời bỏ tôi bởi vì các nền tảng này của tôi đã sai; Tôi thiếu một thuật ngữ thiền xúc tác như là điểm tập trung chính xác cho sự chú ý của tôi. Tôi bắt buộc phải bắt đầu lại cuộc hành trì của tôi. Lần này, trước tiên tôi nỗ lực bám chặt vào điểm trú và giữ chặt dù bất cứ hiện tượng gì xảy ra. Điểm trú đó là Buddo, sự nhớ tưởng đến Đức Phật. Tôi khiến thuật ngữ Buddho là đối tượng chú ý duy nhất của tôi. Tôi đặt tâm trên sự lặp đi lặp lại thuật ngữ Buddho và loại trừ tất cả mọi thứ khác. Buddo trở thành đối tượng duy nhất ngay cả lúc tôi phải chắc chắn rằng chánh niệm đang luôn luôn kiểm soát và hướng dẫn nỗ lực. Tất cả mọi suy tưởng về sự tiến triển hoặc sa sút đều bị gạt hết qua một bên. Tôi sẽ để cho mọi sự việc diễn ra như nó sẽ diễn ra. Tôi kiên quyết không nuông chiều theo thói quen khuôn mẫu cũ kỷ của tâm trí; và phóng tâm vào quá khứ khi sự tu tập của tôi đang tiến triển một cách tốt đẹp – và nó đã sụp đổ như thế nào; sau đó nó lại tư duy đến tương lai, hy vọng rằng bằng cách này hay cách khác qua ước muốn mãnh liệt được thành tựu, sự hài lòng trước kia của tôi sẽ trở về.

Suốt thời gian này, tôi đã thất bại khi tạo ra mọi điều kiện với ý muốn mang lại một kết quả như ý. Tôi đơn giản mong ước thấy sự cải thiện này, để rồi sau đó lại thất vọng não nề khi nó không trở thành hiện thực. Trong thực tế, ham muốn được thành tựu không mang lại thành tựu; mà chỉ với ý chí nỗ lực tỉnh giác. Bực bội về sự tiến triển hoặc sa sút là nguyên nhân gây ra khích động, phân tâm tôi với thời khắc hiện tại và sự hành trì của tôi. Chỉ với sự lặp đi lặp lại nhiệt tâm chuyên chú của Buddho mới có thể ngăn chặn mọi giao động qua sự tham thiền của tôi. Với sự chú ý tột bực, tôi nhiệt tâm tập trung tâm trí tỉnh thức vào thực tại tức thì. Vọng tưởng lan man không thể cho phép phá vỡ sự tập trung đó.

Nhiệt tâm tham thiền để chấm dứt tất cả mọi đau khổ, quí vị chắc chắn phải hết lòng gia công vào pháp hành ở mỗi giai đoạn tiếp tới của lộ trình. Không có gì quan trọng hơn là sự cam kết tuyệt đối đưa đến thành tựu này. Hãy kinh nghiệm các lãnh vực sâu thẳm nhất của định và hãy thành tựu các tuệ ở mức sâu thẳm thâm thúy nhất. Quí vị không thể nửa vời và lơ đãng thờ ơ, hay luôn mãi lưỡng lự bởi vì quí vị thiếu các nguyên lý vững chắc để hướng dẫn sự tu tập của quí vị. Những thiền nhân thiếu sự cam kết chắc chắn với nguyên lý thực hành thì dù họ có thể hành thiền suốt cả cuộc đời họ nhưng sẽ không thể nào mang đến các kết quả chính đáng. Trong các trạng thái ban đầu của sự tu tập, nhất định quí vị phải tìm kiếm một đối tượng vững chắc của thiền để giữ chặt tâm trí quí vị. Đừng chỉ đặt tâm một cách hời hợt trên một đối tượng mơ hồ, như sự tỉnh giác luôn có mặt như bản chất chân thực của tâm trí. Thiếu một đối tượng chú ý đặc biệt để nắm giữ tâm trí, hầu như không thể nào duy trì được sự chú ý của quí vị không bị lang thang. Đây là công thức cho thất bại. Cuối cùng, quí vị sẽ trở nên thất vọng và không còn gắng sức nữa.

Khi chánh niệm mất đi sự tập trung của nó, nghiệp lực hối hả lôi kéo vọng niệm của quí vị vào quá khứ đã trôi qua, hoặc tương lai chưa đến. Tâm trí trở nên thiếu ổn định và lang thang vô định trên mảnh đất tinh thần, không bao giờ tĩnh lặng hoặc hài lòng dù chỉ một phút chốc. Đây là cách mà các thiền nhân đánh mất nền tảng khi thấy tinh thần của họ bị sụp đổ. Liều thuốc giải độc duy nhất là một điểm tập trung của sự chú ý, không lắm phức tạp, như thuật ngữ thiền hoặc hơi thở.

Hãy chọn phương pháp nào xem ra thích hợp với căn cơ của quí vị, và hãy đặt tâm vững chắc trên đối tượng đó và hãy loại bỏ tất cả mọi thứ khác. Sự cam kết toàn triệt là cần yếu cho công việc này.

Nếu quí vị chọn hơi thở làm điểm tập trung, hãy tự mình ý thức hoàn toàn trên từng mỗi hơi thở ra vào. Hãy chú ý đến cảm giác tạo ra bởi sự chuyển động của hơi thở và đặt sự chú ý của quí vị trên điểm mà cảm giác ở đó rõ ràng nhất; nơi mà cảm giác của hơi thở nhạy bén nhất: thí dụ, trên đầu sóng mũi. Hãy chắc chắn là quí vị thấy biết khi nào hơi thở vào và hơi thở ra, nhưng đừng theo đuổi nó – Hãy đơn giản chú tâm ngay điểm mà nó thông qua. Nếu quí vị cảm thấy điều này có thể giúp đỡ được, hãy phối hợp hơi thở của quí vị với sự lặp đi lặp lại thầm lặng của thuật ngữ Buddho. Hãy chú tâm trên Bud hơi thở vào và Dho trên hơi thở ra. Đừng cho phép các vọng niệm lan man can thiệp vào công việc mà quí vị đang làm. Đây là bài tập tỉnh giác trong giây phút hiện tại để duy trì sự cảnh giác và hoàn toàn chăm chú.

Khi chánh niệm dần dần tự nó thiết lập, tâm trí sẽ không còn chú ý đến các tư tưởng và cảm xúc nguy hại nữa. Nó sẽ mất đi hứng thú mọi ưu tư thường ngày của nó. Không còn bị phân tâm, nó sẽ ổn định xa hơn và xa hơn trong sự trầm mặc và tĩnh lặng. Cùng lúc đó, hơi thở thô tế khi quí vị bắt đầu đặt trọng tâm trên nó – dần dần trở nên thanh nhẹ hơn. Thậm chí có thể nó đạt đến trạng thái hoàn toàn dứt bặt từ ý thức tỉnh giác của quí vị. Nó trở nên cực kỳ vi tế và thanh nhẹ đến mức nó dần tan biến. Không còn hơi thở nào lúc đó - chỉ còn cốt lõi tánh thấy biết của tâm.

LỰA CHỌN CỦA TÔI LÀ THIỀN BUDDHO. Từ khoảnh khắc đó tôi lập quyết tâm, giữ chặt tâm tôi không lang thang nữa qua sự lặp đi lặp lại thuật ngữ Buddho. Từ lúc tôi thức dậy vào buổi sáng cho đến lúc đi ngủ vào buổi tối, tôi ép mình chỉ tư duy đến Buddho mà thôi. Cùng một lúc, tôi chấm dứt không còn bận rộn với mọi ý nghĩa tiến triển hoặc sa sút nữa. Nếu thiền của tôi tiến triển thì nó sẽ như vậy với Buddho. Nếu nó sút giảm thì nó cũng sẽ đi xuống với Buddho. Trong cả hai trường hợp, Buddho là điều quan tâm duy nhất của tôi. Tất cả mọi vấn đề khác không quan hệ. Đúng là tôi phải cưỡng ép tâm trí tôi.

Duy trì sự chú tâm duy nhất đó không phải là một công việc dễ dàng gì. Tôi phải cưỡng ép tâm trí của mình buộc chặt vào Buddo từng giây phút không ngừng gián đoạn. Dù là tôi đang tọa thiền, kinh hành hoặc chỉ làm các công việc thường ngày, thuật ngữ Buddo âm vang thật sâu trong tâm trí của tôi ở tất cả mọi thời. Qua bản tánh và khí chất, tôi luôn luôn kiên quyết đến mức bất thoả hiệp. Khuynh hướng này đem lại lợi lạc cho tôi. Cuối cùng, tôi trở nên hết lòng và nhiệt tâm với công việc mà không có gì lưu chuyển được tâm kiên cố của tôi, không có một tư tưởng vô định nào có thể tách lìa tâm trí của tôi với thuật ngữ Buddo.

Thực tập như vậy mỗi ngày và mỗi ngày, tôi luôn nhất định là Buddo âm vang qua sự hài hoà cận kề với sự tỉnh thức trong từng giây phút hiện tại. Chẳng sớm, tôi bắt đầu thấy được kết quả của sự tĩnh lặng và tập trung khởi lên rõ ràng từ tâm, bản chất thấy biết cốt lõi của tâm trí. Ở trạng thái đó, tôi thấy được bản chất vi tế và thanh nhẹ của tâm. Tôi càng hướng tâm đến Buddho thì tâm lại càng vi tế hơn, cho đến cuối cùng tính chất vi tế của Buddho và tâm tan chảy vào nhau và trở thành một và sở hữu cùng bản chất cốt lõi thấy biết. Cố gắng nếu tôi có thể, tôi vẫn không thể nào khiến thuật ngữ Buddo hiện ra trong tâm trí tôi. Qua sự quyết tâm và cần mẫn, Buddo đã gần như hợp nhất với tâm mà chính Buddo không còn hiện ra trong ý thức của tôi nữa. Tâm trí trở nên tuyệt đối trầm tịch và vắng lặng, hoàn toàn vi tế một cách thâm thúy đến mức thậm chí Buddo không còn âm vang ở đó nữa. Trạng thái thiền liên biến với sự biến mất của hơi thở, như được nhắc bên trên.

Khi kinh nghiệm này diễn ra, tôi cảm thấy kinh ngạc. Tôi đã khẳng định toàn bộ tu tập của tôi trên sự buộc chặt vững chắc trên Buddho. Bây giờ thì Buddho không còn rõ ràng nữa thì tôi sẽ đặt tâm chú ý vào đâu? Cho đến điểm này, Buddho trở thành điểm trụ của tôi. Bây giờ nó biến mất. Dù cố gắng như thế nào đi nữa để đem lại sự chú tâm này, nó vẫn bị mất đi. Tôi đang trong tình thế bối rối khó xử. Tất cả những gì còn lại là bản tánh thấy biết thâm thúy của tâm, một sự tỉnh thức thuần khiết và đơn thuần, tỏ chiếu và sáng suốt. Không có gì cụ thể trong sự tỉnh thức đó có thể gài chốt được.

Tôi nhận thức là không có gì thấm nhập phạm vi tỉnh thức của tâm trí khi ý thức – thấy biết thực tại của nó – đạt đến tình trạng vi tế và thâm sâu như vậy. Tôi chỉ còn một sự lựa chọn mà thôi. Buddho bị mất đi thì tôi đặt sự chú ý trên ý thức cốt lõi của sự tỉnh thức và tánh thấy biết đang đồng hiện hữu và rõ rệt ở khoảnh khắc đó. Ý thức đó không biến mất; Ngược lại, tất cả đều đang tỏa khắp. Tất cả sự tỉnh thức chuyên chú đó tập trung trên sự lặp đi lặp lại của Buddho rồi sau đó lại tập trung vững chắc trên tánh thấy biết vi tế này của một cái tâm tĩnh lặng đồng quy. Sự chú ý của tôi duy trì cố định và vững chắc trên cốt lõi thấy biết vi tế này cho đến khi cuối cùng sự rõ ràng của chúng bắt đầu tan biến dần, cho phép sự tỉnh thức bình thường của tôi được tái thiết lập.

Khi sự tỉnh thức bình thường trở về, Buddho tự nó biến hiện một lần nữa, nên tôi tức thì lại đặt chú tâm trên sự lặp đi lặp lại thuật ngữ thiền này của tôi. Sau đó không lâu, sự tu tập hàng ngày của tôi mang một giai điệu mới. Tôi chú tâm mạnh mẽ trên Buddho cho đến khi ý thức biến thành một trạng thái sáng suốt, kỳ diệu của cốt lõi bản chất thấy biết của tâm, thấm thấu trong tánh thấy biết vi tế này cho đến khi sự tỉnh thức bình thường quay trở lại, và sau đó tôi lại chuyên chú gia tăng mãnh liệt lặp đi lặp lại Buddho.

Trong giai đoạn này, trước tiên tôi gặt hái được nền tảng tâm linh vững chắc trong pháp thiền. Từ đó về sau, sự tu tập của tôi tiến triển một cách vững vàng… không bao giờ còn bị thối lùi nữa. Mỗi ngày trôi qua, tâm trí của tôi càng trở nên tĩnh lặng, an lạc và tập trung hơn. Mọi sự thăng trầm lên xuống gây tai hại lâu dài cho tôi không còn là vấn nạn nữa. Mọi quan tâm về trạng thái hành trì của tôi được thay thế bởi chánh niệm bám rễ ngay trong giây phút hiện tại. Cường độ mãnh liệt của niệm bất khả so sánh với mọi tư tưởng của quá khứ hoặc tương lai. Trọng tâm hoạt động của tôi là giây phút hiện tại – mỗi câu niệm Buddho thầm lặng khi nó sanh lên và diệt đi. Tôi không còn hứng thú với bất kỳ hiện tượng gì khác. Cuối cùng, tôi nhận thấy rằng lý do mà trạng thái thay đổi liên tục trước kia là do tôi thiếu chánh niệm và bởi vì tôi không thể bám trụ sự chú ý của tôi trên thuật ngữ thiền. Thay vì vậy, tôi chỉ tập trung trên cảm xúc bình thường của sự tỉnh thức nội tâm mà không có đối tượng đặc biệt nào, không cho phép tâm trí lang thang vô định một cách dễ dàng như tư tưởng ắp chế.

Một khi tôi thấu hiểu phương pháp đúng đắn cho giai đoạn đầu tiên của thiền, tôi tự mình ứng dụng công việc này qua sự cam kết chân thành và tôi nhất định khước từ không cho phép chánh niệm bị gián đoạn thậm chí dù chỉ trong một sát na. Bắt đầu vào mỗi buổi sáng, khi tôi thức dậy và tiếp tục cho đến khuya. Mỗi khi tôi buồn ngủ, tôi ý thức tỉnh giác trong thiền mỗi và từng sát na trong những giờ khắc tỉnh táo. Đây là một sự thử thách gay go, đòi hỏi sự tập trung cao độ và kham nhẫn. Tôi không thể cho phép mình thả lỏng và thư giản thậm chí dù chỉ một giây phút.

Khi tập trung mạnh mẽ nội quán Buddho, tôi không còn chú ý đến mọi sự kiện đang diễn ra quanh tôi. Mọi tương tác của đời sống thường nhật của tôi trôi qua trong sự mập mờ nhưng Buddho vẫn tập trung một cách nhạy bén. Sự cam kết của tôi với thuật ngữ thiền là toàn triệt. Với nền tảng vững chắc nâng đở sự tu tập của tôi, sự trầm tịch của tinh thần và tập trung trở nên đến mức không còn gì có thể lay chuyển nữa, rắn chắc và cứng cỏi như núi.

Cuối cùng, điều kiện vững chắc như đá của tâm trí trở nên là điểm tập trung chính cho chánh niệm. Khi tâm kiên định gặt hái được một nội tâm định tĩnh hơn, kết quả là sự hợp nhất ở cấp độ cao hơn, thuật ngữ thiền Buddho tan biến dần từ sự tỉnh thức, lìa bỏ trạng thái định tĩnh và tập trung của bản chất cốt lõi thấy biết của tâm trí.Ở giai đoạn này, tâm trí đã thể nhập trong định – trạng thái tập trung mãnh liệt của tỉnh giác, tự nó có sự sống riêng của nó, độc lập với bất kỳ pháp thiền nào. Định tĩnh và hợp nhất, tánh thấy biết tự nó trở thành trọng tâm duy nhất của sự chú ý, một trạng thái của tâm trí nổi bật và quyền năng đến mức không có gì sanh khởi có thể khiến nó bị đánh bật ra. Kinh nghiệm này được biết như tâm trí trong một trạng thái đại định liên tục. Nói một cách khác, tâm tức là định – cả hai là một và như nhau.

Nói theo định nghĩa của những lãnh vực thâm sâu hơn của thiền, có một nền tảng khác biệt tồn tại giữa trạng thái định tĩnh của thiền và trạng thái đại định. Khi tâm trí đồng quy và rơi vào trạng thái tịnh tĩnh và tập trung, nó có thể duy trì trong một thời gian khá lâu trước khi quay trở về với thu hoạch tốt ý thức bình thường thì kinh nghiệm này được biết như là sự định tĩnh của thiền. Sự định tĩnh và tập trung là trạng thái tạm bợ chỉ kéo dài cho đến khi tâm trí vẫn còn cố định trong trạng thái an lạc đó. Khi ý thức bình thường quay trở về, các trạng thái phi phàm dần dần tan biến. Dù vậy, khi thiền nhân trở nên thiện xảo ở sự tu tập này – thể nhập và xuất trạng thái định tĩnh, hợp nhất lần nữa và lần nữa… tâm trí bắt đầu xây dựng một nền tảng nội tâm vững chắc. Khi nền tảng này trở nên bất khả lay chuyển trong mọi hoàn cảnh, thì tâm trí được biết là đang an trú trong một trạng thái đại định liên tục. Sau đó, thậm chí khi tâm trí thoát khỏi trạng thái định tĩnh của thiền dù vậy nó vẫn cảm giác vững vàng và chặt chẽ, như không có gì có thể quấy nhiễu được sự chuyên chú của tâm.

Tâm liên tục hợp nhất trong định luôn bằng phẳng và không bị nhiễu loạn. Cảm giác hoàn toàn hài lòng. Bởi vì chính sự chặt chẻ và ý thức tập trung của một nội tâm quy nhất, vọng niệm và cảm xúc mỗi ngày không còn gây tác động. Trong một trạng thái như vậy, tâm trí không ham muốn suy nghĩ về bất cứ điều gì. Hoàn toàn an lạc và thỏa nguyện trong chính nó, cảm thấy không có gì thiếu thốn cả.

Trong trạng thái định tĩnh và tập trung như vậy, tâm trở nên cực kỳ quyền năng. Khi tâm trí trước kia mong cầu kinh nghiệm tư duy và cảm xúc, bây giờ nó xa lánh chúng như một sự phiền toái. Trước kia nó khó chịu bực bội đến mức không thể nào ngừng suy tưởng ngay cả nếu nó muốn. Hiện thời, với định như trạng thái quen thuộc của nó, tâm trí cảm thấy không còn ham muốn suy nghĩ về bất cứ thứ gì. Nó xem ý niệm như sự phiền toái vô ích. Khi cốt lõi thấy biết của tâm nổi bật rõ ràng trong tất cả mọi thời, tâm tập trung đến mức nó không dung thứ bất kỳ quấy nhiễu nào. Bởi vì trạng thái an lạc siêu phàm này… và định có xu hướng ru ngủ tâm trí vào trạng thái tĩnh lặng hài lòng này – thiền nhân đã đạt đến đại định thường hay bị dính mắc mãnh liệt với nó. Nó duy trì như vậy cho đến khi ta đạt đến trình độ khi tuệ chiếm ưu thế, và kết quả thậm chí sẽ càng trở nên hài lòng hơn.

TỪ DẠO ĐÓ, TÔI DỤNG CÔNG GIA TĂNG THÊM NỖ LỰC CỦA TÔI. Vào khoảng thời gian này, tôi bắt đầu tọa thiền suốt đêm, từ chạng vạng cho đến sáng bình minh. Khi tọa thiền vào một đêm, tôi bắt đầu hướng nội như bình thường. Bởi vì nó đã phát triển thành một nền tảng tốt đẹp và mạnh mẽ, tâm dễ dàng nhập vào đại định. Miễn là tâm yên nghỉ một cách tĩnh lặng thì nó không còn ý thức được các cảm giác bên ngoài của thân. Nhưng khi tôi xuất định nhiều giờ sau, tôi bắt đầu kinh nghiệm chúng đầy tràn. Cuối cùng, cơ thể của tôi bị đau đớn đến mức tôi không thể nào chịu đựng nỗi. Tâm bỗng nhiên mất cả nhuệ khí, nền tảng vững chắc mạnh mẽ hoàn toàn bị sụp đổ. Toàn thân tràn ngập với cơn đau đớn khủng khiếp khiến nó run rẩy từng chập một.

Sau đó bắt đầu là một trận chiến xáp lá cà đã ban cho tôi một tuệ kiến về sự quan trọng của kỹ xão thiền. Cho đến khi cơn đau khủng khiếp không ngờ trước được vào đêm đó, tôi chưa nghĩ là phải nỗ lực tọa thiền suốt đêm. Tôi chưa bao giờ kiên định như vậy. Tôi chỉ đơn thuần tọa thiền như tôi thường làm, nhưng khi cơn đau bắt đầu chiếm hữu tôi, tôi suy nghĩ, “Ủa, có chuyện gì xảy ra ở đây? Tôi chắc chắn là phải nỗ lực để tìm hiểu cơn đau này tối nay.” Như vậy, tôi nghiêm trang quyết tâm là dù bất cứ chuyện gì xảy ra, tôi sẽ không rời tọa cụ cho đến khi bình minh ló dạng vào ngày tới. Tôi kiên quyết khảo sát bản chất cơn đau cho đến khi tôi thấu hiểu nó rõ ràng và minh bạch. Tôi sẽ phải đào sâu. Nhưng nếu cần thiết, tôi sẵn sàng chết để khám phá sự thật của cơn đau.

Tuệ bắt đầu giải quyết vấn đề trong sự nhiệt tâm. Trước khi tôi thấy mình bị đặt vào một ngỏ hẹp không lối thoát, tôi không bao giờ tưởng tượng được là tuệ có thể quá sắc bén và sâu sắc đến như vậy. Nó bắt đầu làm việc không ngừng, xoay vòng như nó đang thăm dò vào gốc rễ của cơn đau với sự quyết tâm của một chiến sĩ không bao giờ lùi bước hoặc chấp nhận thất bại. Kinh nghiệm này thuyết phục tôi là trong những giây phút khủng hoảng thật sự, tuệ phát khởi để đón nhận thử thách. Số phận chúng ta không phải là để vĩnh viễn vô minh… khi bị ép vào một góc chúng ta chắc chắn có thể tìm cách để tự giúp đỡ chính chúng ta. Nó xảy ra với tôi vào đêm đó. Khi tôi bị ép vào một góc và bị áp đảo bởi cơn đau khủng khiếp này, chánh niệm và tuệ giác đào sâu vào bao cảm giác của cơn đau khủng khiếp.

Cơn đau bắt đầu qua những tia chớp nóng bỏng dọc theo sau tay và chân, nhưng thật sự cũng chỉ nhẹ nhàng mà thôi. Khi nó sanh khởi qua sức mạnh vô biên, toàn thân bùng cháy trong sự đau đớn. Tất cả mọi rẻ xương, những đầu nối các mẫu xương vào nhau, đều như đang bị dầu đổ vào lửa nhận chìm cả thân xác. Cảm giác như mỗi xương cốt trong thân của tôi bị vỡ tan ra, như cổ của tôi sẽ bị gẫy ra và đầu rơi xuống đất. Khi tất cả mọi phần của thân cùng đau một lúc, cơn đau mãnh liệt đến mức ta không biết làm thế nào bắt đầu để vật lộn với những cơn thủy triều đủ lâu để có thể hít thở được.

Cơn khủng hoảng khiến chánh niệm và tuệ giác không còn sự lựa chọn nào ngoài cách đào sâu vào cơn đau, tìm kiếm ở điểm mà nó cảm thấy khốc liệt nhất. Chánh niệm và tuệ giác điều tra và khảo sát ngay nơi cơn đau mãnh liệt nhất, cố gắng cô lập nó để nó có thể thấy biết rõ ràng, "Cơn đau từ đâu phát sanh? Ai là người chịu đựng cơn đau này? Chúng hỏi những câu hỏi này trên mỗi phần cơ thể và khám phá ra là trên mỗi phần cơ thể vẫn lưu giữ thực chất của nó. Da là da, thịt là thịt, gân là gân, vân vân và vân vân. Chúng đã như vậy từ ngày được sinh ra. Cơn đau đớn, ngược lại, là một cái gì sinh diệt theo tính cách tuần hòan. Nó không tồn tại cùng một cách như thịt và da. Thông thường, cơn đau và cơ thể có vẻ ràng buộc nhau. Nhưng chúng có thật sự như vậy hay không?

Hướng tâm vào trong, tôi có thể thấy mỗi phần cơ thể là một thực tại vật chất. Những gì thực đều lưu lại như vậy. Khi tôi dò xét toàn thể cơn đau của cơ thể, tôi thấy có một điểm khốc liệt hơn tất cả thành phần khác. Nếu cơn đau và thân là một thì tất cả mọi phần của cơ thể phải thực như nhau, nếu vậy tại sao cơn đau lại mạnh mẽ ở phần này hơn phần kia? Do đó , tôi cố gắng tách rời và cô lập ở mỗi một khía cạnh.

Ở điểm khảo sát đó, chánh niệm và tuệ giác rất cần thiết. Chúng quét qua các khu vực đau đớn nhất và sau đó xoay vòng chung quanh ở những phần căng thẳng nhất, không ngừng làm việc để tách rời cảm giác qua thân. Khi quan sát thân, chúng nhanh chóng chuyển đổi sự chú ý đến cơn đau, sau đó đến tâm. Ba phần này: thân, cơn đau và tâm, là nguyên lý chủ yếu trong sự khảo sát này.

Mặc dù cơn đau của cơ thể hiễn nhiên vô cùng mãnh liệt, tôi có thể thấy được là tâm định tĩnh và không bị khổ sở. Dù thân bị khó chịu đến mức như thế nào, tâm vẫn không bực bội hoặc phiền não. Điều này khiến tôi thích thú. Thông thường thì nghiệp tăng lực với cơn đau, và sự liên minh này khiến tâm bị quấy nhiễu bởi cơn thống khổ của thân. Hiện tượng này thúc đẩy tuệ giác đào sâu vào bản chất của thân, bản chất của cơn đau và bản chất của tâm cho đến khi tất cả ba hiện tượng này được nhận thức rõ ràng như là những thực tại riêng rẽ. Mỗi hiện tượng chân thực trong phạm vi bản chất của riêng nó.

Tôi thấy rõ ràng là tâm định nghĩa là cảm giác đang bị đau đớn và khó chịu. Nếu không, cơn đau đơn thuần chỉ là hiện tượng tự nhiên đang xảy ra. Nó không phải là phần nguyên nhất của thân, hay là nó thực chất đối với tâm. Chẳng bao lâu, nguyên lý này trở nên tuyệt đối rõ rệt hơn và cơn đau lập tức biến mất. Ngay khoảnh khắc đó, thân đơn thuần là thân… một thực tại riêng rẽ trên phần của riêng nó. Cơn đau đơn giản là cảm giác, và qua một tia chớp sáng, cảm giác đó tan biến trong tâm. Khi cơn đau tan biến trong tâm thì tâm biết là cơn đau đã không còn. Nó biến mất không còn một dấu vết nào.

Thêm nữa, toàn bộ thân vật lý này biến mất từ sự tỉnh thức. Ngay khoảnh khắc đó, tôi không hề ý thức hoặc hay biết về thân. Chỉ còn lại một sự tỉnh giác đơn thuần và hài hoà, đơn độc riêng nó. Chỉ có vậy. Tâm cực kỳ thanh nhẹ, bất khả thuyết. Nó đơn thuần thấy biết - một trạng thái nội tại vi tế của sự tỉnh thức lan tỏa cùng khắp. Thân hoàn toàn mất đi. Mặc dù hình tướng của thân vẫn còn đang ngồi tọa thiền, tôi hoàn toàn không ý thức nó. Cơn đau cũng biến mất. Không còn những cảm giác vật lý. Chỉ có cốt lõi của tánh thấy biết là còn lại. Tất cả mọi tư duy đồng dứt bặt; Tâm trí không còn tựu lại ý nghĩ nào nữa. Khi tư duy dứt bặt, không chút chuyển động nào quấy nhiễu tính chất vắng lặng của tâm. Khi không còn rúng động nữa, tâm duy trì cố định vững chắc trong thanh tịnh của riêng nó.

Do quyền năng chánh niệm và tuệ giác, cơn đau bốc lửa như sắt nung khiến cơn khổ sở trong thân của tôi hoàn toàn biến mất. Ngay cả thân tôi cũng biến mất qua ý thức. Tánh thấy biết hiện hữu đơn độc, như tư duy bị treo lơ lững giữa không trung. Hoàn toàn rỗng không, nhưng cùng một lúc tỉnh thức rúng động, bởi các nguyên tố vật lý không tác động qua lại với nó. Tâm không ý thức là thân này đang tồn tại. Tánh thấy biết này là sự tỉnh thức thuần khiết đơn độc và không liên thông với bất kỳ hiện tượng gì. Nó thậm thâm vi diệu, uy nghi và thật sự huy hoàng lộng lẫy.

Đây là một kinh nghiệm diệu kỳ đến mức không thể tưởng tượng được. Cơn đau hoàn toàn biến mất. Thân cũng biến mất. Sự tỉnh thức thanh nhẹ và vi tế đến mức tôi không thể mô tả nó là hiện tượng duy nhất biến mất. Nó đơn thuần hiển lộ, và đó là tất cả những gì mà tôi có thể nói. Nó thật sự là trạng thái bản thể nội tại diệu kỳ nhất. Không chút chuyển động… thậm chí không chút gợn sóng… trong tâm. Nó hoàn toàn thấm thấu trong sự vắng lặng cho đến khi đủ thời gian trôi qua thì nó bắt đầu khuấy động khi nó bắt đầu xuất định. Nó gợn sóng ngắn ngủi và sau đó lại yên tịnh lần nữa.

Tiến trình gợn sóng này xảy ra một cách tự nhiên theo tính hài hoà của riêng nó. Nó không thể nẩy sinh ý muốn. Bất kỳ ý muốn nào cũng sẽ mang tâm trở về trạng thái tâm thức bình thường. Khi tâm thấm thấu trong sự vắng lặng đầy đủ thì nó lại khuấy động. Nó ý thức gợn sóng đó giao động một cách ngắn ngủi và sau đó dứt bặt. Vài khoảnh khắc sau nó lại gợn sóng trong phút chốc một lần nữa, sau đó lại tan biến tức thì. Khi tâm đã đồng quy vào chính nền móng của định, nó không rút lui ngay tức thì. Đây chính là bằng chứng xác thực đối với tôi. Tâm gợn sóng nhẹ nhàng, có nghĩa là nghiệp hình thành một cách ngắn ngủi chỉ để rồi sau đó tan biến trước khi nó có thể nhận thức. Gợn sóng rồi tan biến. Lần nữa và lần nữa tâm gợn sóng rồi tan biến, dần dần tăng tầng số cho đến khi tâm tôi cuối cùng trở về với ý thức bình thường. Rồi thì tôi trở nên ý thức thân vật lý của tôi, nhưng cơn đau đã qua đi. Trước đó, tôi không hề có cảm giác đau đớn, và nó mới bắt đầu tái xuất một cách chậm chạp .

Kinh nghiệm này củng cố nền tảng tâm linh vững chắc trong tâm tôi với một sự khẳng định bất khả tư nghì. Tôi nhận thức được một nguyên lý căn bản khi vật lộn với cơn đau: cơn đau, thân và tâm tất cả là ba hiện tượng riêng rẽ. Nhưng bởi sự ô nhiễm tinh thần - ảo tưởng - chúng đồng quy thành một. Ảo tưởng bao trùm tâm như độc dược đang âm ỉ ô uế mọi nhận thức của chúng ta và bóp méo thực tại. Cơn đau đơn giản là một hiện tượng tự nhiên tự nó xảy ra. Nhưng khi chúng ta nắm bắt nó như là một sự nóng bỏng bực bội khó chịu thì nó tức thì trở nên nóng bỏng bực bội… bởi vì sự định nghĩa của chúng ta qua cách đó khiến nó bị khó chịu bực bội.

Sau một lúc, cơn đau lại trở về, nên tôi phải tấn công nó một lần nữa… không thối lui. Tôi đào sâu trong các cảm giác đau đớn, khảo sát chúng như tôi đã làm trước đó. Nhưng lần này, tôi không thể ứng dụng cùng những kỹ xão khảo sát mà tôi đã sử dụng trước đó với một ảnh hưởng tốt đẹp. Kỹ xão được dùng trong quá khứ không còn liên hệ với giây phút thực tại. Để duy trì tốc độ với mọi hiện tượng nội tâm khi chúng mở rộng ra, tôi cần có những kỹ xão tân kỳ phát minh bởi chánh niệm và tuệ giác đã được chế tác cho các tình huống hiện tại. Bản chất của cơn đau vẫn như nhau, nhưng những kỹ xão đó phải phù hợp với tình trạng ngay tức thì. Ngay cả mặc dù tôi ứng dụng một cách thành công trước đó, tôi vẫn không thể điều trị tình huống mới mẻ bằng cách nắm giữ các kỹ xão khảo sát củ kỷ xưa kia. Những kỹ xão tươi mát, tân tiến cần phải có. Những kỹ xão được chế tác trong trận chiến đối đầu với mọi tình huống hiện tại. Chánh niệm và tuệ giác lại bắt đầu làm việc lại, và trước một thời khắc lâu dài, tâm một lần nữa đồng quy chính nền móng của định. Trong tiến trình diễn biến của đêm đó, tâm đồng quy như vậy đến ba lần, nhưng tôi đã sẵn sàng trong trận chiến xáp lá cà này ở mỗi một lần. Sau lần thứ ba, bình minh rực chiếu, mang đến một trận đánh tới tấp. Tâm xuất hiện một cách táo bạo, hả hê đắc chí và hoàn toàn vô úy. Nỗi sợ hãi cái chết dứt bặt vào đêm đó.

CÁC CẢM GIÁC ĐAU ĐỚN CHỈ LÀ hiện tượng xảy ra tự nhiên liên tục thăng trầm lên xuống từ nhẹ nhàng đến khốc liệt. Miễn là chúng ta không biến nó thành gánh nặng cá nhân thì chúng không mang ý nghĩa đặc biệt gì với tâm. Trong và của chính nó, cơn đau không có ý nghĩa gì, nên tâm không bị ảnh hưởng. Thân vật lý cũng vô nghĩa trong và ngoài tự thân nó, và nó không thêm ý nghĩa vào cảm xúc hoặc với chính nó… trừ phi, dĩ nhiên, tâm khảo sát nó với ý nghĩa đặc biệt, tích tập qua kết quả đau khổ hỏa thiêu chính nó. Mọi nhân duyên ước định bên ngoài không thật sự chịu trách nhiệm cho mọi phiền não của chúng ta, chỉ tâm mới có thể tạo ra hiện tượng đó mà thôi.

Thức dậy vào mỗi buổi sáng, tôi cảm thấy táo bạo và phiêu lưu không thể nào mô tả được. Tôi kinh ngạc trước bản chất diệu kỳ qua kinh nghiệm của tôi. Không có gì qua kinh nghiệm thiền của tôi trước đó có thể so sánh được, Tâm đã hoàn toàn cắt đứt mối liên hệ của nó với tất cả mọi đối tượng chú ý, đồng quy hướng nội với sự dũng cảm chân chánh. Nó đồng quy vào sự vắng lặng thanh tịnh huy hoàng bởi vì những thẩm xét toàn triệt, cần cù của tôi. Khi nó rút lui, nó vẫn đầy gan dạ và táo bạo khi thấy biết là nó không còn sợ hãi cái chết nữa. Hiện thời tôi đã biết thế nào là kỹ xão thẩm xét, nên tôi chắc chắn là lần tới tôi không còn sợ hãi khi nó xuất hiện. Nó sẽ, dù vậy, vẫn là cơn đau cùng có chung một đặc tính. Thân vật lý sẽ vẫn là tấm thân củ kỷ này. Và tuệ giác sẽ vẫn là chức năng mà tôi đã ứng dụng trước đó. Với lý do đó, tôi cảm thấy công khai thách đố mà không sợ đau hoặc sợ chết.

Một khi tuệ giác đạt đến nhận thức bản chất thực sự của cái chết và cái không chết, cái chết trở thành một cái gì khá bình thường. Tóc, móng tay, răng, da thịt, xương cốt; giảm thiểu thành yếu tố hình tướng ban sơ, chúng đơn thuần là yếu tố đất. Khi nào mà yếu tố đất chết đi? Khi chúng tan rã và phân hoại, chúng trở thành cái gì? Tất cả mọi phần cơ thể trở về đặc tính nguyên thủy của nó. Nguyên tố nước và đất trở về đặc tính nguyên sơ của nó cũng như nguyên tố gió và lửa. Không có gì bị tiêu huỷ. Các nguyên tố này đơn thuần đồng hợp để tạo ra cái bứu trong tâm và bám trụ ngay đó. Tâm - Chủ nhân ông vĩ đại của ảo tưởng – tìm đến và hô hấp sinh khí cho nó, và sau đó chuyên chở toàn bộ gánh nặng bằng cách đồng hóa nó, “Đây là tôi. Cái này thuộc về tôi.” Đảo nghịch toàn bộ cục bứu đó cho chính nó, tâm tích lũy liên tu bất tận bao nhiêu nỗi đau khổ và phiền não, tự hỏa thiêu chính nó với biết bao nhiêu giả định và huyễn giả.

Chính tâm là một học giả thực sự, không phải là vết u của nguyên tố vật chất. Thân không phải là một thực thể thù địch luôn thăng trầm lên xuống đe dọa bản thể lành mạnh của chúng ta. Nó là một thực thể riêng rẽ biến hiện tự nhiên theo mọi ước định cố hữu của riêng nó. Chỉ khi nào chúng ta tạo ra vô số giả định về nó thì nó trở thành gánh nặng mà ta chắc chắn là ta phải gánh chịu. Đó là chính xác tại sao mà chúng ta phải chịu đau khổ qua cơn đau và nỗi nhọc nhằn của thân xác. Thân vật lý này không sản sinh ra đau khổ cho chúng ta. Chính chúng ta đã sản sinh ra nó. Do vậy tôi thấy rõ ràng là không có một điều kiện bên ngoài có thể gây đau khổ cho chúng ta. Chúng ta là người đã nhận thức sai lầm về sự vật, và sự nhận thức sai lầm này tạo ra ngọn lửa đau khổ gây ra bao rắc rối cho trái tim của chúng ta.

Tôi thấu hiểu rõ ràng là không có gì chết. Tâm chắc chắn là không chết. Trên thực tế, nó trở nên rõ rệt hơn. Chúng ta càng thẩm xét Tứ đại, chia chẻ chúng thành đặc tính nguyên thủy, thì tâm càng hiển lộ tính chất khác biệt đó. Nếu vậy thì sự chết tìm thấy ở nơi nào? Và cái gì đang chết?

Nguyên tố Tứ đại – đất, nước, lửa, gió… chúng không chết. Cũng như tâm, làm sao nó có thể chết được? Nó càng trở nên sáng tỏ hơn, ý thức và trí tuệ hơn. Cốt lõi của tánh thấy biết này không bao giờ chết. Bởi vì nó tự dối gạt chính nó. Hằng bao thiên niên kỹ và hằng bao thiên niên kỷ qua nó đã tự gạt chính nó vào niềm tin về cái chết khi thật sự là không có gì chết cả.

Cho nên khi cơn đau khởi xuất qua thân, chúng ta chắc chắn nhận thức rằng nó đơn thuần chỉ là cảm giác, không gì khác. Đừng định nghĩa nó theo định nghĩa cá nhân và giả định là có một cái gì đang xảy ra với quí vị. Cơn đau khiến thân bị khổ sở từ thuở quí vị mới chào đời. Cơn đau mà quí vị đang kinh nghiệm ngay từ giây phút quí vị thoát ra từ thai tạng mẹ của quí vị vốn cực kỳ khủng khiếp. Chỉ qua sự sinh tồn nỗi nhọc nhằn như vậy mà con người được sinh ra. Cơn đau bắt đầu từ thuở ban sơ và nó sẽ không đảo nghịch vòng quay hoặc thay đổi đặc tính của nó. Cơn đau của thân luôn hiển lộ cùng những đặc tính cơ bản, sinh và tồn hữu trong một sát na ngắn ngủi rồi diệt đi. Sinh, tồn tại một sát na ngắn ngủi rồi diệt. Nó chỉ vậy mà thôi.

Khảo sát những cảm xúc đớn đau sanh khởi để có thể thấy biết chúng rõ ràng như chúng đang là. Chính tự thân đơn thuần là một hình tướng vật chất, một thực tại vật lý mà quí vị thấy biết từ thuở khai sinh. Nhưng khi quí vị tin quí vị là thân của quí vị, và thân quí vị bị đau thì quí vị trong cơn đau. Được xem cân bằng ngang nhau, thân, cơn đau và sự tỉnh thức, nhận thức chúng rồi sau đó thì đồng quy thành một: cơn đau của thân. Cơn đau vật lý này phát khởi do thân bị hư hỏng. Nó sanh khởi lệ thuộc và vài khía cạnh nào đó của thân, nhưng chính nó không phải là một hiện tượng vật chất. Hay biết thân và cảm giác lệ thuộc vào tâm – cái thấy biết chúng. Nhưng khi người ý thức chúng biết chúng là giả tạm, thì không còn quan tâm đến thân, nguyên nhân của cơn đau và cường độ mãnh liệt rõ ràng của chúng khiến cơn đau tâm lý sanh khởi.

Cơn đau không chỉ nhức nhối nhưng nó biểu hiện rằng có một cái gì sai lạc với quí vị… thân quí vị. Trừ phi quí vị có thể chia chẻ ba thực tại khác biệt này, cơn đau vật lý vẫn sẽ mãi mãi gây ra những cơn xúc cảm tâm lý. Chúng ta tin là chúng ta có thể thích thú bất kỳ cái gì về nó, nhưng hiện tượng sẽ không thay đổi được nguyên lý nền tảng của thực tại. Sự tồn hữu vật lý là một trong thực tại nền tảng này. Đặc tính của Tứ đại… đất, nước, lửa, gió tập hợp qua hình tướng trong cái được gọi là “con người”. Bản thể vật chất này có lẽ được xem như là nam hoặc nữ và được đặt danh, được ban cho xã hội địa vị nhưng cốt yếu nó chỉ là rupa khandha (tập hợp của uẩn - sắc). Tập hợp tất cả cấu tạo để thành hình tướng qua thân con người, một thực tại vật chất khác biệt. Và mỗi phần riêng rẽ này là một phần chủ yếu của nền tảng thực tại. Tứ đại đồng quy bằng nhiều cách khác nhau. Trong thân xác con người, chúng ta nói đến da, thịt, gân, xương, vân vân và vân vân. Nhưng đừng bị dối gạt qua tư duy và cho rằng chúng là những thực tại riêng rẽ, đơn thuần bởi vì chúng mang nhiều tên gọi khác nhau. Thấy biết tất cả như là một thực tại tinh yếu… thân ngũ uẫn.

Với thọ, chúng hiện hữu trong phạm vi riêng của chúng. Chúng không phải là một phần của thân vật lý. Thân cũng không cảm giác. Nó không dự phần trực tiếp trong cơn đau của thân. Hai uẩn này, thân và thọ… rõ rệt hơn là các uẩn khác, tưởng, hành, thức, bởi vì chúng tan biến nhanh chóng sau khi chúng sanh khởi, rất là khó thấy. Thọ, ngược lại, duy trì trong phút chốc trước khi tan biến. Hiện tượng này khiến chúng nổi bật và dễ dàng cô lập chúng trong thiền hơn.

Tập trung trực tiếp trên những cảm thọ đau đớn này khi chúng khởi lên và nỗ lực thấu hiểu thực tánh của chúng. Đối đầu với thử thách. Đừng cố gắng trốn chạy cơn đau qua cách đặt chú ý của quí vị nơi nào khác. Hãy cưỡng lại bất kỳ ý muốn cám dỗ kỳ vọng cơn đau tan biến đi. Mục tiêu của thẩm xét chắc chắn phải là cuộc tầm cầu sự hiểu biết chân chánh. Trung lập hóa cơn đau đơn giản chỉ là sản phẩm phụ của sự hiểu biết thấu suốt trên các nguyên lý thực tại. Nó không thể xem như là đối tượng chính yếu. Điều đó sẽ tạo ra cho vô số ước định gây ra những cảm xúc tâm lý nặng nề hơn khi sự dễ chịu mà ta ao ước không hiện thực hóa được. Chịu đựng sự khắc kỷ trên cường độ đớn đau cũng sẽ không đưa đến thành công hay nhất tâm tập trung trên cơn đau tức là chia tách thân và tâm. Để thành tựu kết quả chính đáng, ba yếu tố này nhất định phải bao gồm trong sự thẩm xét. Sự thẩm xét chắc chắn phải trực tiếp và có chủ định.

ĐỨC PHẬT DẠY CHÚNG TA hãy khảo sát với mục tiêu thấy biết tất cả mọi cơn đau chỉ là hiện tượng sanh khởi, tồn tại ngắn ngủi rồi diệt đi. Đừng vật lộn với nó. Đừng xem cơn đau theo định nghĩa cá nhân, như là phần không thể tách rời với cái quí vị đang là, bởi vì đây là cuộc hành trình đối đầu với thực tánh của cơn đau. Nó xem nhẹ các kỹ xão sử dụng trong việc thẩm xét cơn đau, cản trở tuệ giác thấy biết thực tại của cảm thọ. Đừng tạo thêm cho rắc rối chính mình khi không có gì hiện hữu. Hãy thấy biết thực tại khi nó sanh khởi trong mỗi khoảnh khắc của cơn đau, quan sát nó khi nó hiện lên ngắn ngủi rồi diệt đi. Cơn đau chỉ có vậy.

Khi quí vị ứng dụng chánh niệm và tuệ giác để cô lập cảm giác đau đớn, hãy quay sự chú ý của quí vị về tâm và so sánh cảm thọ với sự tỉnh thức đang thấy biết nó, và thấy biết là nó có thật sự không riêng rẽ hay không. Hãy quay về tâm và so sánh tâm và thân vật lý cùng cách đó: chúng có giống nhau không? Hãy chuyên chú tập trung trên từng phần một và đừng cho phép sự chú tâm của quí vị lang thang ngoài điểm mà quí vị đang khảo sát. Hãy bám vào nó một cách vững vàng và cố định trên một khía cạnh. Thí dụ, hãy đặt sự chú ý trên cơn đau và phân tích nó cho đến khi quí vị thấu hiểu mọi đặc tính cá biệt của nó; Chúng có giống nhau không? Hãy so sánh chúng. Cảm thọ và sự tỉnh thức đang thấy biết nó là một và có cùng một thứ hay không? Có cách gì để khiến chúng như vậy? Và thân, nó có chia sẻ cùng các đặc tính giống nhau như tâm hay không? Có giống cảm thọ hay không? Có phải là bất kỳ ba đặc tướng này giống nhau đến mức phải tập hợp lẫn nhau?

Thân là hình thể vật chất… làm sao nó có thể giống tâm được? Tâm là hiện tượng tinh thần, sự tỉnh thức đang thấy biết. Nguyên tố vật chất hợp thành thân không sở hữu sự tỉnh thức chân thật này. Chúng không có khả năng thấy biết. Nguyên tố đất, nước, lửa, gió không biết gì cả; Chỉ yếu tố tâm... Manodhãtu—thấy biết. Đây là một trường hợp, làm sao cốt lõi của tánh thấy biết và nguyên tố của thân có thể ngang hàng với nhau. Chúng rõ ràng là thực tại riêng rẽ.

Cùng một nguyên lý ứng dụng với cơn đau. Nó không có sự hay biết thực chất, không có khả năng thấy biết. Cơn đau là hiện tượng tự nhiên sanh khởi qua sự liên kết với thân, nhưng nó không ý thức sự hiện hữu của thân hoặc chính nó. Những cảm thọ đau đớn lệ thuộc trên căn bản vật chất. Thiếu thân thì chúng không thể xảy ra. Nhưng chúng không sở hữu thực tại vật chất của riêng nó. Cảm thọ sanh khởi liên kết với thân được dịch giải theo cách của chúng khiến chúng khác biệt qua phạm vi thân đang bị ảnh hưởng.

Theo bản năng, thân và cơn đau ngang nhau nên chính thân có vẻ bị đau. Chúng ta phải đối trị phản ứng bản năng bằng cách thẩm xét cả hai, mọi đặc tính của cơn đau như là hiện tượng giác quan và các đặc tính vật chất qua phần đó của thân khi cơn đau khốc liệt nhất. Mục tiêu là quyết định rõ ràng dù không phải là vị trí của thân… chỗ nối xương của đầu gối… hiển lộ các đặc tính liên kết với cơn đau. Hành động và tư thế của chúng thuộc loại gì? Cảm thọ không có hành động hoặc tư thế. Chúng đơn thuần xảy ra như một cảm xúc vô định hình. Thân có hình thể rõ rệt, mầu sắc và khí sắc và các hiện tượng này không thay đổi bởi diễn biến cảm giác của thân. Nó vẫn như vậy trước khi cơn đau này khởi lên. Thực chất vật lý không gì thay đổi bởi cơn đau bởi cơn đau là một thực tại riêng biệt, không ảnh hưởng trực tiếp trên nó.

Thí dụ, khi đầu gối bị đau hoặc bắp thịt bị nhức nhối: bắp thịt chỉ là xương, gân và thịt, tự chúng không phải là cơn đau. Mặc dù cả hai đồng trụ, chúng vẫn duy trì đặc tính riêng rẽ của chúng. Tâm thấy biết cả hai nhưng bởi vì sự tỉnh thức bị che mờ bởi ảo tưởng ds, nó tự động giả định rằng cơn đau lẫn lộn với xương, gân và bắp thịt tổng hợp thành chỗ kết xương đầu gối. Bởi cùng lý do vô minh nền tảng đó, tâm giả định rằng thân qua tất cả mọi khía cạnh đó là một phần chủ yếu của bản thể ta. Cho nên cơn đau cũng trở nên bị ràng buộc với ý thức cá thể, “Đầu gối của tôi bị đau. Tôi đang nhức nhối, nhưng tôi không muốn bị đau đớn. Tôi muốn cơn đau mất đi.” Ý muốn loại trừ cơn đau là hành nghiệp đang gia tăng mức độ khó chịu bằng cách khiến cơn đau thể xác trở thành cơn đau tâm lý. Cơn đau càng mạnh mẽ thì ý muốn loại trừ nó càng khiến nó hình thành, càng dẫn đến tình trạng khủng hoảng tâm lý lớn lao hơn. Các yếu tố này trưởng dưỡng cho nhau. Do vậy, qua sự vô minh của chúng ta, chúng ta đè nặng chúng ta với bao đau khổ.

Để thấy được cơn đau, thân và tâm là hai thực tại riêng biệt, chúng ta phải thấy biết chúng từ cảnh quan đúng đắn, một cảnh quan cho phép chúng trôi nỗi tự do thay vì tổng hợp lại thành một. Khi chúng ràng buộc lẫn nhau như là một phần hình ảnh bản ngã của chúng ta thì sẽ không sở hữu quan điểm độc lập, và do vậy thiếu phương tiện hiệu quả để chia tách chúng. Miễn là chúng ta càng khăng khăng xem cơn đau theo định nghĩa cá nhân, thì sẽ không thể nào phá vỡ được sự bế tắc này. Khi các uẫn và tâm nhập lại thành một, chúng ta không có không gian để xê dịch. Nhưng khi chúng ta khảo sát chúng với chánh niệm và tuệ giác, trở tới trở lui giữa chúng, phân tích chúng và so sánh đặc tính riêng biệt của chúng, chúng ta thấy được những dị biệt rõ rệt giữa chúng và thấy được thực tánh của chúng rõ ràng. Mỗi một hiện tượng tự nó hiện hữu như là một thực tại riêng rẽ. Đây là nguyên lý phổ thông.

Khi sự nhận thức thâm thúy này chìm sâu tận đáy tim, cơn đau bắt đầu dịu đi và tan biến dần. Cùng lúc đó, chúng ta nhận thức nền tảng liên kết giữa kinh nghiệm của cơn đau và một “bản ngã” đang nắm bắt nó. Mối liên hệ đó được thiết lập từ tâm và kéo dài ra ngoài bao gồm cả cơn đau và thân. Kinh nghiệm thật sự của cơn đau phát xuất từ tâm và sự dính mắc sâu thẳm với bản ngã, khiến cơn đau cảm xúc phát khởi để đáp ứng với cơn đau thể xác. Ý thức toàn triệt suốt thời gian, chúng ta theo đuổi cảm giác của cơn đau bên trong với gốc rễ của nó. Khi chúng ta chuyên chú trên nó, cơn đau mà chúng ta đang khảo sát bắt đầu co rút lại, dần dần quay ngược về tâm. Một khi chúng ta nhận thức rõ rệt rằng thực sự là sự dính mắc tạo ra bởi tâm khiến chúng ta kinh nghiệm cơn đau như là một vấn đề cá nhân, thì cơn đau tan biến. Có lẽ nó hoàn toàn biến mất, chỉ để lại cốt lõi tánh thấy biết của tâm đơn độc riêng nó. Hoặc là,hiện tượng bên ngoài của cơn đau có lẽ đang hiện hữu nhưng bởi vì sự dính mắc, cảm giác đã được trung lập hóa, không còn kinh nghiệm như là một cơn đau. Đây là một thực tại khác hơn. Cả hai không tương tác. Ngay khoảnh khắc đó tâm không còn nắm bắt cơn đau nữa. Tất cả mọi liên kết đều bị chặt đứt. Những gì còn lại là cốt lõi tâm… tánh thấy biết của tâm… thanh tịnh vô nhiễm giữa cơn đau của các uẫn.

Dù cơn đau có khốc liệt như thế nào ngay lúc đó, nó sẽ không thể nào ảnh hưởng tâm trong bất cứ hình thức nào. Một khi tuệ giác nhận thức rõ ràng tâm và cơn đau trong mỗi hiện tượng là thật, nhưng thật theo tính cách riêng biệt của chúng, cả hai sẽ không hề ảnh hưởng lẫn nhau. Thân chỉ đơn thuần là một khối hình thể vật chất. Vẫn thân đó khi cơn đau có vẻ vẫn còn dù khi cơn đau đã dứt bặt. Cơn đau không thay đổi bản chất của thân. Thân không ảnh hưởng đến bản chất của cơn đau. Tâm là bản chất thấy biết khi cơn đau hiện ra, tồn tại trong chốc lát và diệt đi. Nhưng tâm, tánh thấy biết tinh yếu này không sinh và diệt như thân và thọ. Tánh thấy biết của tâm bền vững và mãi thường hằng.

Đây cũng là một trường hợp, cơn đau… dù khốc liệt như thế nào… vẫn không ảnh hưởng đến tâm. Thậm chí quí vị có thể mỉm cười khi cơn đau khủng khiếp khởi lên… Quí vị có thể mỉm cười!... bởi vì tâm riêng rẽ. Nó hằng thấy biết nhưng nó không liên hệ với thọ nên nó không bị đau khổ.

Lãnh vực này được thành tựu thông qua ứng dụng sâu sắc chánh niệm và tuệ. Đây là giai đoạn khi tuệ phát triển định. Và bởi vì tâm đã khảo sát trọn vẹn tất cả mọi khía cạnh cho đến khi chúng được thấu suốt tận tường, tâm đạt đến mức độ cao tột nhất của định vào lúc đó. Nó đồng quy với tính thấy biết, vi tế thâm sâu đến mức bất chấp mọi miêu tả. Sự tỉnh thức diệu kỳ này đạt đến từ sự phân tích mọi sự vật một cách hoàn toàn và rốt ráo, rồi sau đó rút khỏi chúng. Bình thường, khi tâm dựa trên năng lực của thiền định quy vào trạng thái tập trung và định tĩnh, nó trở nên bất động và yên lặng. Nhưng trạng thái định đó gần như không quá vi tế thâm sâu như khi ta chứng thực thông qua năng lực của tuệ. Một khi chánh niệm và tuệ giác trong trận chiến xáp lá cà với nghiệp và thắng thế, tính vắng lặng của định đã thành tựu sẽ càng ngoạn mục hơn mỗi lần như vậy.

Đây là lộ trình cho người đang tu tập thiền có thể thấu suốt sự thật của ngũ uẫn, áp dụng cảm thọ của cơn đau như trọng tâm chính yếu. Sự tu tập này hình thành nền tảng ban đầu cho tính vô úy của tôi trong thiền. Tôi thấy biết sự sáng suốt rõ ràng là cốt lõi bản chất thấy biết của tâm sẽ không bao giờ bị phân hoại. Ngay cả dù tất cả mọi thứ khác đều bị phân hoại, tâm sẽ hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Tôi nhận thức được sự thật này với sự sáng suốt tuyệt đối ngay giây phút khi cốt lõi thấy biết của tâm riêng nó đơn độc, hoàn toàn không liên hệ với bất kỳ hiện tượng gì. Chỉ có tánh thấy biết nổi bật rõ rệt diệu kỳ trong sự huy hoàng của nó. Tâm buông xả thân, thọ, tưởng, hành, thức và thể nhập vào tính chất trong sạch thuần khiết của riêng nó, tuyệt đối không liên hệ với ngũ uẩn. Trong khoảnh khắc đó, ngũ uẩn không hoạt động qua bất cứ hình thức nào tương quan với tâm. Nói theo một cách khác, tâm và ngũ uẩn hiện hữu độc lập bởi vì chúng hoàn toàn bị chặt đứt mối tương quan lẫn nhau qua nỗ lực kiên định của thiền.

Sự thành tựu này mang đến sự diệu kỳ và phi phàm đến mức không có bất kỳ kinh nghiệm nào mà chúng ta đã trải qua có thể so sánh được. Tâm an trú trong nguồn thanh tịnh an lạc một thời gian khá lâu trước khi rút lui và trở về ý thức bình thường. Khi rút lui, nó lại liên kết với ngũ uẩn như trước đó, nhưng nó hoàn toàn được tin chắc rằng tâm vừa mới đạt đến trạng thái thanh tịnh phi phàm đó đã hoàn toàn đoạn trừ ngũ uẩn. Nó thấy biết rằng nó đã kinh nghiệm một trạng thái bản thể tâm linh tối thượng vi diệu. Điều đó sẽ không bao giờ bị xóa bỏ.

Qua niềm tin bất khả lay chuyển này cố định trong tâm tôi như là hệ quả của kinh nghiệm và do vậy không hề mang lại bất kỳ nghi vấn, hoặc quyết đoán vô lý hoặc phủ định, tôi lại tiếp tục thiền định như trước kia trong niềm hăng hái… Lần này tăng thêm kiên quyết, ý thức thấm thấu phát xuất từ sức hút nam châm mà tín có trong tâm, tâm nhanh chóng thể nhập vào trạng thái vắng lặng và tập trung của định như trước đó. Mặc dù tôi không thể hoàn toàn giải tỏa tâm qua sự thâm nhiễm của năm uẩn. Tôi hứng khởi cực kỳ nỗ lực kiên trì để đạt đến các lãnh vực cao tột của Pháp.

MẶC DÙ THÂM SÂU HOẶC THƯỜNG HẰNG NHƯ THẾ NÀO, định tự nó không phải là một cứu cánh. Định không chấm dứt tất cả mọi đau khổ. Nhưng định thiết lập nền móng lý tưởng để có thể tấn công mãnh liệt vào nghiệp đã tạo ra lắm phiền não. Sự tập trung và định tĩnh phát xuất từ định đem lại nền tảng xuất sắc cho sự phát triển tuệ giác.

Vấn đề của định là quá an tĩnh và thỏa nguyện đến mức thiền nhân vô tình hoặc cố ý trở nên nghiện ngập nó. Hiện tượng này xảy ra với tôi: Năm năm trước tôi đã bị nghiện ngập với sự an lạc tĩnh lặng của định, đến mức tôi tin là chính sự thanh tịnh an tĩnh đó là yếu tính của Niết Bàn. Chỉ khi bậc thầy của tôi Ãcariya Mun, cưỡng chế tôi phải đối đầu với khái niệm sai lạc này, nên tôi mới có thể tiến hành trên con đường tu tập tuệ giác.

Trừ phi được hỗ trợ qua sự phát triển của tuệ, định có thể khiến thiền nhân bị lạc đường trên lộ trình chấm dứt mọi đau khổ. Tất cả mọi thiền nhân gia công nỗ lực phát triển định nên ý thức cạm bẫy này.

Chức năng chính yếu của định trên lộ trình tu tập là hỗ trợ, duy trì và phát triển tuệ giác. Nó phù hợp với công việc này bởi vì một tâm trí tập trung và định tĩnh khi đã hoàn toàn thỏa nguyện thì sẽ không tìm kiếm những nhiễu loạn bên ngoài. Mọi ý niệm về xúc, giác, vị, hương, sắc, và thọ không còn tác động đến sự tỉnh thức cố định vững vàng trong định. Sự định tĩnh và tập trung là sự bồi dưỡng tự nhiên của tâm trí. Một khi nó thoả mãn với sự bồi dưỡng yêu thích này của nó thì nó sẽ không còn lang thang lạc lối vào những ý niệm nhàn cư rảnh rỗi. Bây giờ nó đã được chuẩn bị đầy đủ để bảo đảm một loại tư duy có mục đích, truy cứu và phản chiếu để thiết lập sự tu tập tuệ. Nếu tâm vẫn chưa được ổn định… nếu nó vẫn còn khao khát chạy đuổi theo các ấn tượng giác quan, nếu nó vẫn còn chạy đuổi theo ý niệm và cảm xúc… sự khảo sát của nó sẽ không bao giờ dẫn đến tuệ giác chân chánh. Chúng sẽ dẫn đến tư duy lan man, thiếu mạch lạc, phỏng đoán, suy xét, và lý giải thực tại nền tảng không tìm thấy dựa trên những gì được học hỏi và nhớ đến. Thay vì dẫn đến tuệ giác và chấm dứt tất cả mọi đau khổ, ý niệm vô định hướng này trở thành trở thành Samudaya… Nhân sanh khổ — nguyên nhân gây ra đau khổ.

Khi nội tâm sắc bén và tập trung bổ sung thêm vào công việc khảo sát và suy xét tuệ giác đến mức toàn hảo, Đức Phật dạy chúng ta trước nhất nên cần phát triển định. Một tâm trí không bị khuấy động bởi vọng tưởng và cảm xúc bên ngoài có thể chuyên chú đặc biệt trên hiện tượng sanh khởi qua địa hạt tỉnh thức của nó và khảo sát hiện tượng như thế trong ánh sáng Chân lý mà không có sự can thiệp của phỏng đoán hoặc suy xét. Đây là một nguyên lý tối quan trọng. Sự khảo sát tiến hành một cách trôi chảy, tinh luyện và thành thạo. Đây là phẩm chất của tuệ giác chân chánh: Khảo cứu, quán xét và hiểu biết nhưng không bao giờ bị phân tâm hoặc bị hướng dẫn sai lầm bởi ước đoán.

Tu tập tuệ bắt đầu với cơ thể con người, phần hợp thành thô tế và hữu hình nhất qua thực thể cá nhân của chúng ta. Mục tiêu là xuyên thấu thực tại qua thực tánh như thị của nó. Có phải thân của chúng ta là những gì mà chúng ta hằng giả định nó như vậy… phần tổng hợp và khát vọng con người thật sự của chúng ta là gì? Để kiểm tra giả định này chúng ta phải khảo sát tận tường thân này bằng cách chia chẻ thành phần cấu tạo của nó từng phần một, từng mảnh một. Chúng ta phải truy cứu sự thật về thân với những gì mà chúng ta quá đỗi quen thuộc bằng cách xem xét nó qua từng góc độ khác nhau. Bắt đầu với tóc trên đầu, lông trên thân, móng tay, răng và da, và tiến đến thịt, máu, gân và xương. Sau đó mổ xẻ bộ phận bên trong, từng cái một cho đến khi toàn thân hoàn toàn bị chia cắt. Phân tích toàn khối của mỗi phần khác nhau để có thể thấu hiểu tỏ tường bản chất chân thực của nó.

Nếu quí vị thấy khó khảo sát cơ thể của quí vị bằng cách đó, hãy bắt đầu mổ xẻ cơ thể của một ai khác trên phương diện tinh thần. Hãy chọn một cơ thể ngoài chính mình: thí dụ, cơ thể của người khác phái. Hãy tưởng tượng từng phần một, mỗi bộ phận của thân xác đến mức mà quí vị có thể và hãy tự hỏi mình: Mảnh nào mới thực sự quyến rũ? Phần nào mới thật sự đầy tính cám dỗ đây? Hãy đặt tóc thành một đống, răng và móng tay vào một đống khác. Hãy làm tương tợ như vậy với da, thịt, gân, và xương. Đống nào mới thật sự là đối tượng yêu thích của quí vị? Hãy quan sát chúng tận trường và trả lời một cách hết sức thành thật. Hãy lột bỏ da và chồng chất nó trước mặt quí vị. Chỗ nào là vẻ đẹp trong đống mô này, vỏ ngoài che đậy thịt và lòng ruột? Những phần khác nhau này có lập thành một con người hay không? Một khi da được lột bỏ, chúng ta tìm thấy những gì mà chúng ta có thể ngưỡng mộ trên thân xác con người? Đàn ông và phụ nữ, họ đều như nhau. Không một mảnh nhỏ của vẻ đẹp nào có thể tìm thấy trên cơ thể con người. Nó chỉ là túi đựng thịt, máu và xương có thể xoay xở để dối gạt tất cả mọi người trong thế gian khát vọng nó.

Đây là bổn phận của tuệ để phơi bày sự dối gạt đó. Hãy quán sát da một cách thật cẩn thận. Da là kẻ dối gạt vĩ đại nhất. Bởi vì nó bao bọc toàn bộ cơ thể con người, nó là phần mà chúng ta luôn thấy. Nhưng nó bao bọc những gì? Nó bao bọc bắp thịt, da, nước và mở trong loài vật. Nó bao bọc xương với gân, lòng và ruột. Nó bao bọc gan, thận, bao tử, ruột già, ruột non và tất cả mọi nội tạng. Chưa có ai bao giờ khuyến dụ chúng ta là bộ phận trong thân xác là những thứ đẹp đẽ, xứng đáng được hâm mộ với đam mê và khát vọng. Hãy đào sâu, không sợ hãi và không một chút do dự, tuệ phơi bày sự thật trắng trợn về thân. Đừng bị dối gạt bởi tấm màn mỏng của mô vẩy. Hãy lột bỏ nó và thấy biết những thứ đang nằm đàng sau. Đây là sự tu tập tuệ giác.

Để chính mình có thể thấy biết sự thật này, rõ ràng và một cách chính xác, không có chỗ cho hoài nghi, quí vị phải rất kiên trì và cực kỳ cần mẫn. Chỉ đơn thuần tu tập thiền một hay hai lần, lúc này lúc khác sẽ không đủ mang lại những kết quả mang tính thuyết phục. Quí vị phải hướng đến sự tu tập như là đây là công việc của cả cuộc đời quí vị… như không có gì khác là quan trọng hơn sự phân tích mà quí vị đang làm trong khoảnh khắc này. Thời gian không phải là một yếu tố. Nơi chốn không phải là yếu tố; sự thoải mái dễ chịu không phải là yếu tố. Bất kỳ trường kỳ như thế nào hoặc khó khăn mà sự tu tập chứng minh, quí vị phải kiên cố vững chãi với tiến trình quán xét cho đến khi mọi hoài nghi và không vững chắc tất cả đều được loại trừ.

Sự quán xét thân nên chuyên chú trên từng mỗi hơi thở, mỗi ý niệm, mỗi cử động cho đến khi tâm trí trở nên thắm đẫm hoàn toàn vào nó. Không gì ít hơn sự cam kết toàn triệt sẽ mang đến tuệ kiến trực tiếp và chân chánh vào Chân lý. Khi quán xét thân được tu tập với cường độ nhất tâm, mỗi phần một của cơ thể tiếp theo trở thành một loại dầu hỏa đổ vào ngọn lửa chánh niệm và tuệ giác. Chánh niệm và tuệ giác sau đó trở thành một đám cháy lớn, thiêu đốt cơ thể từng phân loại, từng phần một khi chúng được quán xét và khảo sát sự thật với cường lực nóng bỏng. Đó là ý nghĩa của Tapadhamma (Pháp Khắc kỹ).

Tập trung mãnh liệt trên các phần của cơ thể thật sự thu hút sự chú ý của quí vị, những phần mà sự thật cảm thấy hiển nhiên nhất đối với quí vị. Hãy sử dụng chúng như là đá mài để mài dũa trí tuệ của quí vị cho thêm phần sắc bén. Thiền Asubha (Quán thân bất tịnh) là tuệ kiến quán xét vào sự nhờm tởm vào cơ thể con người. Đây là điều kiện tự nhiên của thân, qua bản chất gớm ghiếc và nhơ bẩn. Chủ yếu toàn thân là một tử thi sống, hôi hám…hầm chứa phân đang hít thở đầy hôi thối. Chỉ có làn da mỏng manh khiến toàn bộ sự hổ lốn đó có vẻ xem ra vừa mắt. Tất cả chúng ta đều bị lường gạt bởi vỏ bọc bên ngoài, đang che đậy sự nhờm tởm nền tảng qua tầm mắt. Đơn giản loại bỏ da sẽ phơi bày được thực chất của thân.

Qua sự so sánh thịt và nội tạng, da xem ra khá quyến rũ. Nhưng hãy quán xét nó một cách cận kề. Da có vẩy, nhăn nheo và gấp nếp. Chúng ta phải chùi rửa nó mỗi ngày để giữ nó được sạch sẽ. Điều đó hấp dẫn như thế nào? Và da dính chặt trên thịt và do vậy nói nối kết chặt chẽ vào nội tạng ghê tởm. Tuệ càng đào sâu chừng nào thì thân càng nhờm tởm bấy nhiêu. Từ da cho đến xương không có gì đáng hài lòng cả.

THÀNH TỰU ĐÚNG ĐẮN, QUÁN XÉT THÂN mãnh liệt và nỗ lực tinh thần không ngừng nghỉ; Như vậy, cuối cùng tâm trí đâm ra mệt mỏi. Sau đó dừng lại để nghĩ ngơi là một điều chính đáng. Khi thiền nhân đang tập trung quán xét và toàn thân muốn yên nghỉ, thì họ sẽ quay lại sự tu tập định mà họ đã phát triển và duy trì một cách siêng năng cần mẫn. Thể nhập vào niềm an lạc và định tĩnh của định, họ trú xứ trong sự tịnh tĩnh mà không sanh khởi vọng niệm hoặc hoặc tưởng tượng khiến tâm bị nhiễu loạn. Gánh nặng tư duy và tiến trình khảo sát tuệ tạm thời gác qua một bên để tâm trí có thể hoàn toàn thư giản, trầm lắng trong thanh tịnh. Một khi tâm trí thoả mãn với định rồi thì nó tự rút lui sau khi cảm thấy tràn trề sinh lực, tươi mát và nó sẵn sàng quán xét thân một cách nghiêm mật lần nữa. Theo cách đó, định hỗ trợ công việc của tuệ, khiến nó tinh thông lão luyện và sâu sắc hơn.

Khi xuất định, sự khảo sát của thân lại tức thì bắt đầu. Mỗi lần quí vị khảo sát với chánh niệm và tuệ giác, khảo sát sẽ chuyển tải sát na hiện tại. Để đủ hiệu quả, mỗi lần khảo sát mới nhất định phải tươi mát và tự sinh tự phát. Đừng cho phép chúng trở thành bản sao của những lần khảo sát củ. Ngay lập tức, hãy chuyên nhất trong giây phút hiện tại và cần phải duy trì trong tất cả mọi thời. Hãy quên đi bất cứ những gì mà quí vị đã học qua…Hãy quên đi những gì xảy ra vào lần cuối cùng quí vị đào sâu vào phạm vi của thân… Đặt sự chú ý của quí vị một cách trung thực ngay trong giây phút hiện tại và khảo sát chỉ từ điểm thuận lợi đó. Tối hậu, điều này có nghĩa là nhiệt tâm. Chánh niệm gắn chặt tâm trí vào thực tại, cho phép tuệ giác tập trung một cách sắc bén. Kinh nghiệm đã học qua được lưu trữ trong ký ức hãy nên gạt hết qua một bên, nếu không ký ức sẽ giả dạng là tuệ. Hiện tại đang mô phỏng quá khứ. Nếu ký ức được cho phép thay thế thời khắc thực tại ngay tức thì, thì trí tuệ sẽ không hiển lộ. Cho nên vì vậy, hãy canh phòng xu hướng này trong sự tu tập của quí vị.

Hãy tiếp tục đào sâu và phân tích bản chất của thân lần nữa và lần nữa. ứng dụng càng nhiều thiện xảo khi tuệ của quí vị có thể sáng chế được cho đến khi quí vị trở nên thấu suốt và tinh thông trong mỗi khía cạnh nhận thức quán xét thân. Thật sự thành thạo trong sự tu tập này sẽ sinh ra các tuệ kiến nhạy bén và sáng suốt. Nó xuyên thấu trực tiếp vào cốt lõi hiện hữu tự nhiên của thân theo lối chuyển hoá tri kiến của thiền nhân về thân. Lãnh vực tinh thông có thể đạt đến mức mỗi khi thiền nhân nhìn một người nào thì cơ thể của ai thì lập tức cơ thể đó xem ra đang vỡ tan ra thành từng mảnh một. Khi tuệ tinh thông đến mức toàn triệt qua sự tu tập, chúng ta sẽ chỉ thấy thịt, lòng, ruột và xương nơi mà có người đã từng đứng nơi đó. Toàn thân biểu lộ một mảng mô màu đỏ, thô tế và nhớt nháp. Da sẽ tan biến như một tia chớp, và tuệ sẽ nhanh chóng xuyên thấu những nơi sâu kín của nội tạng. Dù là một người đàn ông hay một người phụ nữ, da… thường được xem là hấp dẫn…. Tuệ xuyên thấu tức thì vào nơi mà một mớ nội tạng hỗn độn, nhờm tởm gớm guốc và nước của thân tràn ngập chan chứa từng mỗi một lổ hổng.

Tuệ có thể xuyên thấu sự thật của thân với sự soi sáng cao tột nhất. Tính hấp dẫn của thân hoàn toàn biến mất. Sau đó thì còn gì để dính mắc? Có gì ở đó để mà thèm khát ham muốn nữa? Cái gì trong thân đáng được bám víu? Trong chỗ nào của khối thịt tươi này là con người? Nghiệp thêu dệt nên mạng lưới dối trá liên quan đến thân, dối gạt chúng ta với mọi nhận thức của vẻ đẹp con người và kích thích chúng ta với vô số ý niệm tà dục. Sự thật là đối tượng khát vọng đó giả dối… hoàn toàn là sự lường gạt. Trong thực tế, khi thấu suốt tận tường qua tuệ, thân qua bản chất của nó khước từ mọi thèm muốn. Khi ảo tưởng này được phơi bày dưới ánh sáng trí tuệ, thân con người hiện ra trong tất cả mọi chi tiết đầy máu mủ là một cảnh tượng kinh hoàng. Hãy thấy biết với sự sáng suốt tuyệt đối, tâm trí sẽ co rút ngay tức thì.

Bí quyết của sự thành tựu là kiên định và kham nhẫn. Hãy luôn luôn chăm chỉ và cảnh giác khi ứng dụng chánh niệm và tuệ giác vào sự tu tập. Đừng hài lòng với sự thành công nửa vời. Mỗi lần quí vị quán xét thân, hãy khảo sát xuyên suốt cho đến kết luận hợp lý của nó, sau đó hãy tái thiết lập hình ảnh của thân trong tâm trí quí vị và bắt đầu tiến trình này lại một lần nữa. Khi quí vị đào sâu hơn và sâu hơn trong nội tạng của thân, những phần khác nhau sẽ dần dần chia tách, rơi rụng từng phần một và tan rã ngay trước mắt quí vị. Hãy theo đuổi tiến trình tan rã và phân hoại này một cách chuyên chú. Hãy nhiệt tâm trên từng mỗi chi tiết. Hãy tập trung tuệ của quí vị trên bản chất vô thường và bất định của hình tướng này mà thế gian đang cuồng say mê đắm. Hãy khiến trực giác trí tuệ bắt đầu tiến trình phân hoại này của nó và hãy thấy biết mọi hiện tượng đang diễn ra. Đây là giai đoạn tiếp tới qua quá trình quán xét thân.

Hãy theo đuổi mọi tình trạng tan rã khi thân phân hoại và trở về trạng thái nguyên tố ban sơ. Tan rã và phân hoại là quá trình diễn biến tự nhiên của tất cả mọi đời sống hữu cơ. Tự nhiên rằng, tất cả mọi sự vật đều giảm thiểu nguyên tố hợp thành của chúng, và các nguyên tố này tan rã đi. Hãy khiến tuệ là kẻ hủy diệt. Hãy hình dung qua nhãn quan tâm trí tiến trình của sự tan rã và phân hoại này. Hãy tập trung trên sự tan rã của thịt và các mô mềm. Hãy quán xét nó đang dần dần tan rã cho đến khi không gì còn lại nhưng chỉ là những nốt xương cốt bị rời ra. Sau đó hãy cấu trúc thân và lại bắt đầu khảo sát một lần nữa. Mỗi lần như vậy, tuệ giác lại khiến thân bị tan rã, rồi thầm hoàn trả lại tình trạng trước đó và sau đó lại bắt đầu tiến trình củ.

Sự tu tập này là hình thức huấn luyện mãnh liệt, đòi hỏi mức độ thiện xảo cao tột và sự dũng cảm ngoan cường của tinh thần. Phần thưởng dành cho sự phản chiếu quyền năng và cường lực của sự nỗ lực là một khi tuệ càng thành thục thì tâm trí càng trở nên sáng suốt rực rỡ hơn và quyền năng hơn. Sự sáng suốt của tâm trí và sức mạnh này xem ra vô biên giới… tốc độ và sự linh động của nó vi diệu vô cùng. Ở giai đoạn này, thiền nhân được kích thích bởi nhận thức cấp bách thâm sâu khi họ nhận thức được mối nguy hại gây ra do sự dính mắc trong hình tướng con người. Mối nguy hiểm tìm ẩn có thể được thấy rõ ràng.

Chỗ mà trước đó họ nắm bắt thân xác như là một cái gì giá trị vô cùng… một cái gì đáng được ngưỡng mộ và yêu mến… bây giờ họ chỉ thấy một đống xương đang mục nát và họ hết lòng cự tuyệt nó.

Thông qua quyền năng của tuệ, một xác thân chết, mục rữa và đang sinh động, một xác thân đang hít thở trở thành một và cùng là xác chết đó, không có gì khác biệt giữa chúng.

Quí vị phải liên tục khảo sát, huấn luyện tâm trí của quí vị cho đến khi quí vị trở nên tinh thông đến mức cao tột khi ứng dụng tuệ. Hãy tránh đi bất kỳ mọi hình thức ước đoán và giả định. Đừng cho phép suy nghĩ là quí vị phải nên làm gì hoặc những kết quả gì có lẽ xâm phạm sự khảo sát đó. Chỉ tập trung trên sự thật mà tuệ đang hiển lộ và hãy để sự thật tự nó diễn bày. Tuệ sẽ biết con đường đúng đắn để hành trình và sẽ thấu hiểu một cách rõ ràng mọi sự thật mà nó đang khám phá. Và khi tuệ đã hoàn toàn nhận thấy tất cả mọi khía cạnh của thân, nó sẽ tự nhiên giải tỏa mọi dính mắc của nó với khía cạnh đó. Dù gia công theo đuổi sự khảo sát như thế nào, tâm trí cảm thấy hoàn toàn hài lòng một khi sự thật tự nó biến hiện với sự chắc chắn tuyệt đối. Khi sự thật về một mặt của sự quán xét thân được nhận thức, không có gì xa hơn cần phải tìm kiếm trên lộ trình đó. Vì vậy, tâm trí sẽ tiếp tục xem xét một khía cạnh khác và sau đó là một khía cạnh khác, các dữ kiện cuối cùng và tất cả mọi hoài nghi đồng được loại trừ.

Hãy nỗ lực bằng cách đó. Hãy đào sâu hơn và sâu hơn vào bản chất cố hữu của thân với sự chuyên chú mãnh liệt trên thời khắc hiện tại, một trạng thái tỉnh thức cao tột hơn nhất định phải được duy trì, và cường độ của sự nỗ lực cuối cùng không còn chịu đựng được nữa. Khi quá mệt mỏi, những thiền nhân đầy kinh nghiệm qua bản năng biết là đã đến thời điểm để họ trở về yên nghỉ tâm trí trong định. Do vậy họ chấm dứt tất cả mọi khía cạnh khảo sát và tập trung chỉ trên một đối tượng. Tự thân họ hoàn toàn trút bỏ mọi gánh nặng, và họ thể nhập vào một sự bình an, tĩnh lặng, yên bình và hồi sinh của định. Qua cách đó, định là sự tu tập riêng rẽ. Không một ý niệm nào xâm phạm vào cốt lõi tự tánh thấy biết của tâm khi nó yên nghỉ trong nguồn an lạc và định tĩnh. Khi tâm hoàn toàn thấm thấu trong sự vắng lặng, thân và thế giới bên ngoài tạm thời biến mất qua sự tỉnh thức. Một khi tâm no đủ, tự nó sẽ rút khỏi ý thức bình thường. Như người sau bữa ăn hoàn toàn no đủ và có được một sự nghỉ ngơi đầy đủ, chánh niệm và tuệ giác lại được tươi mới và sẵn sàng trở về làm việc với năng lực vừa được tái tạo. Sau đó, mục tiêu đã giải quyết, sự tu tập của định được gạt qua một bên, và sự thực hành của tuệ lại được tái thiết lập. Qua cách đó, định là một sự bổ sung xuất sắc nhất cho tuệ.

THÂN RẤT QUAN TRỌNG PHẢI CẦN NÊN SUY XÉT. Đa số ham muốn của chúng ta đều bị ràng buộc với nó. Hãy ngắm nhìn chung quanh chúng ta, chúng ta có thể thấy thế giới này đang nằm trong móng vuốt của sự khát khao điên cuồng trong sự tôn thờ hình tướng con người. Khi là thiền nhân, chúng ta phải đối đầu với biết bao thử thách qua yêu sách của dục vọng, phát xuất từ khát vọng sâu xa hầu mong được thỏa nguyện tất cả mọi giác quan. Trong giai đoạn hành thiền, lậu hoặc là một trong các chướng ngại quan trọng trong tiến trình của chúng ta. Chúng ta càng khảo sát sâu hơn trong thân thì nó sẽ càng trở nên rõ rệt hơn. Không có một hình thức nghiệp nào lôi kéo mãnh liệt như vậy trên tâm trí hay nỗ lực dùng quyền năng lớn lao trên tâm trí hơn là lậu hoặc của sự thèm khát dục vọng. Khi sự khao khát điên cuồng này bám rễ trong thân xác con người, phơi bày bản chất thực sự của nó thì nó nới lỏng dần sự nắm bắt kiên cố của tâm trí trên thân.

Quán xét thân là liều thuốc tốt nhất cho sức hút của dục vọng. Sự tu tập thành tựu trên thân được đo lường qua bao ham muốn dục vọng trong tâm trí. Từng bước và từng bước một, tuệ sẽ lột bỏ mặt nạ thực tại của thân, chặt đứt và hủy diệt mọi dính mắc ăn sâu trên tiến trình. Những kết quả này sẽ khiến trạng thái tinh thần được tự do và gia tăng sự khai mở. Để thấu hiểu ý nghĩa của chúng, thiền nhân phải tự mình kinh nghiệm các kết quả này. Sẽ phản tác dụng nếu tôi cố gắng mô tả nó… Điều đó sẽ chỉ dẫn đến sự suy đoán vô ích. Những kết quả này sanh khởi riêng biệt trong tâm trí thiền nhân, đặc biệt đối với cá tánh và bản chất của người đó. Hãy đơn thuần đặt tất cả mọi sự chú ý của quí vị trên các nguyên nhân thực tiễn này và hãy cho phép kết quả của nỗ lực đó phát sanh như chúng sẽ. Khi chúng phát sanh rồi, quí vị sẽ thấy biết chúng với sự sáng suốt không thể nào chối cãi được. Đây là nguyên lý tự nhiên.

Khi quán xét thân đạt đến giai đoạn chỗ mà lý trí và kết quả trở nên hoàn toàn hợp nhất với tuệ, ta trở nên hoàn toàn thấm thấu trong mọi tiến trình khảo sát này ngày và đêm. Thật sự là phi thường. Tuệ di chuyển xuyên suốt qua thân với tốc độ linh động và biểu hiện tính khéo léo của nó một cách thiện xảo đến mức xem ra quay cuồng một cách không ngừng nghỉ ngoài và trong và quanh từng phần một, mỗi mặt của thân, đào sâu vào từng ngỏ ngách, xó xỉnh để khám phá sự thật. Ở giai đoạn này của sự tu tập, tuệ bắt đầu tự động nổi lên, trở thành một thói quen thật sự khi tự nó biến hiện. Bởi vì nó quá nhanh chóng và sắc bén, nó có thể nắm bắt thậm chí với lậu hoặc vi tế nhất và làm tê liệt ngay cả lậu hoặc không thể khuất phục được. Tuệ ở lãnh vực này cực kỳ táo bạo và đầy tính phiêu lưu: Không có gì có thể cản trở lộ trình của nó. Tuệ vỡ tung tới trước để đón nhận bất kỳ mọi thử thách của khát vọng và dính mắc thể hiện qua lậu hoặc. Bởi vì địch thủ của nó quá ngoan cố, trận chiến của tuệ với sự thèm khát dục vọng là một trận chiến ở mức độ mãnh liệt nhất.

Vì lý do đó đó, chỉ có chiến lược táo bạo và bất thoả hiệp mới hầu mong thành tựu. Chỉ có một hoạt động đúng đắn duy nhất… là cuộc vật lộn hết sức mình và thiền nhân sẽ thấy biết kinh nghiệm này qua bản năng.

Khi tuệ bắt đầu làm chủ nhân ông của thân, nó sẽ không ngừng thay đổi những kỹ xão khảo sát của nó để nó sẽ không bị rơi vào móng vuốt mưu chước của lậu hoặc. Tuệ sẽ nỗ lực duy trì một bước trước lậu hoặc, không ngừng xem xét các tiến trình khai mở và liên tục điều chỉnh mưu chước của nó. Đôi lúc nó chuyển đổi sự nhấn mạnh, đôi lúc chạy đuổi theo nhiều kỹ xão khác nhau một cách vi tế.

Sự tinh thông lão luyện càng thành tựu, đến thời điểm khi tất cả mọi dính mắc với thân của riêng ta và với mọi đối tượng khác xem ra đều tan biến. Trên thực tế, sự dính mắc vẫn còn rơi rớt lại. Nó chỉ ẩn trốn mà thôi. Nó chưa hoàn toàn bị đoạn trừ. Hãy cẩn thận chú ý đến hiện tượng này. Có lẽ cảm giác rằng nó đã được đoạn trừ nhưng thật sự nó bị che dấu sau quan kiến qua năng lực của pháp quán thân bất tịnh (Asubha). Cho nên, đừng vội hài lòng. Hãy không ngừng cải tiến vũ khí của quí vị… chánh niệm, tuệ giác và tinh tấn… để đón nhận thử thách. Hãy lặng lẽ đặt toàn khối của mọi phần thân xác trước mặt quí vị và hãy tập trung một cách mãnh liệt. Đây là thân của quí vị. Hiện tượng gì sẽ xảy ra với nó? Bây giờ tuệ rất nhanh chóng và quyết tâm đến mức chỉ trong phút chốc sẽ phá huỷ và phân hoại trước mắt quí vị. Mỗi một lần quí vị trải thân quí vị ra trước quí vị… dù là thân của quí vị hoặc của ai khác… tuệ sẽ tức khắc bắt đầu chia cắt nó ra từng mảnh và hủy diệt nó. Hiện giờ, hoạt động này đã trở thành một thói quen.

Cuối cùng, khi tuệ đã đạt đến sự tinh thông lão luyện tối đa nhất khi xuyên thấu đến tận cùng cốt lõi bản chất gớm ghiếc của thân. Quí vị phải đặt toàn bộ đống thịt và xương cốt đầy hôi hám máu me ghê tởm đó trước mặt và tự hỏi chính mình: Chỗ nào mà cảm giác thay đổi đột ngột phát xuất? Cái gì nguồn gốc thật sự của tính gớm ghiếc này? Hãy chú tâm trên hình ảnh ghê tởm gớm ghiếc đó trước mặt và thấy biết hiện tượng gì xảy ra. Bây giờ quí vị đang kết thúc trên sự thật của vật chất. Ở giai đoạn quyết liệt trong pháp quán thân bất tịnh này (Asubha), quí vị nhất định không nên cho phép chia cắt thân ra và hủy diệt nó. Hãy chỉnh sửa hình ảnh nhờm tởm đó rõ ràng trong tâm trí quí vị và hãy quán sát thật cận kề để quí vị có thể khám phá bất kỳ chuyển động này trong cảm giác nhờm tởm đó. Quí vị phải gợi lên cảm giác cảm giác ghê tởm đó: Chỗ nào mà cảm giác sanh khởi? Ai hoặc cái gì giả định thịt, máu và xương là ghê tởm? Chúng như chúng đang là, hiện hữu trong trạng thái tự nhiên của chúng. Ai đã mang lên cảm giác ghê tởm trong mắt chúng? Hãy điều chỉnh sự chú ý của quí vị với nó. Chỗ nào tính nhờm tởm này sẽ biến mất? Nó vận hành nơi nào? Hãy chuẩn bị theo đuổi đường hướng của nó.

Giai đoạn quyết liệt của tiến trình quán xét thân đã đến. Đây là thời điểm nơi mà nguyên nhân gốc rễ của sự khát dục bị nhổ bật lên của có thể loại trừ được nó. Khi quí vị chuyên chú chỉ trên tính chất kinh tởm gợi lên bởi pháp quán thân bất tịnh, sự ghê tởm của hình ảnh trước mặt quí vị sẽ dần dần co rút lại bên trong cho đến khi hoàn toàn thu hút bởi tâm trí. Tự nó, không qua sự thúc đẩy nào, nó sẽ tự động rút lui vào tâm trí để trở về cội nguồn nguyên sơ của nó. Đây là khoảnh khắc quyết liệt trong sự quán xét thân, khoảnh khắc mà sự phán quyết cuối cùng đạt đến về mối liên hệ giữa lậu hoặc, sự khát dục và đối tượng chủ yếu của nó, thân vật lý. Khi sự hay biết của tâm trí hoàn toàn hiện diện thu hút tính kinh nghiệm này và nội hóa cảm giác kinh nghiệm đó, sự nhận thức thâm thúy bỗng nhiên xảy ra. Chính tâm trí sản sinh ra những cảm giác kinh tởm đó. Chính tâm trí sản sinh ra các cảm giác lôi cuốn đó. Chỉ tâm trí đơn độc tạo ra sự xấu xí và chỉ có tâm trí tạo ra vẻ đẹp. Các phẩm chất này không thật sự có mặt trong thế giới vật chất bên ngoài. Tâm trí chỉ phóng chiếu các thuộc tính đó trên đối tượng nó nhận thức và sau đó tự nó lừa gạt chính nó qua sự tin tưởng rằng chúng xấu xí hoặc đẹp đẽ, hấp dẫn hoặc đáng kinh tởm. Trên thực tế, tâm trí luôn luôn sơn phết và trau chuốt… hình ảnh của chính mình và mọi hình ảnh của thế giới bên ngoài. Sau đó rơi vào hình ảnh tưởng tượng của riêng nó và tin nó là thật.

Ở thời điểm này, thiền nhân thấu hiểu được sự thật tuyệt đối và vững chắc. Chính tâm trí tạo ra sự kinh tởm và hấp dẫn này. Trước đó, chỉ đặt tâm trên sự khảo sát… một đống thịt, máu và xương… không có tính chất kinh tởm nào khác cả.

Trên bản chất, cơ thể con người không nhờm tởm hoặc vừa ý. Thay vì vậy, do tâm sanh khởi những cảm xúc đó và sau đó phóng chiếu chúng qua hình ảnh trước mặt chúng ta. Một khi tuệ xuyên thấu sự dối trá này với sự sáng suốt tuyệt đối, tâm trí lập tức từ bỏ tất cả mọi nhận thức đẹp xấu bên ngoài và hướng vào bên trong, tập trung trên gốc rễ của các khái niệm đó. Chính tâm trí là kẻ xâm phạm và là kẻ nhận thức sự dối trá này: Người dối gạt và kẻ bị dối gạt. Chỉ có tâm trí, không gì khác đã sơn phết hình ảnh đẹp xấu. Cho nên, hình ảnh bất tịnh mà thiền nhân chuyên chú trên các đối tượng riêng rẽ bên ngoài, được thấm thấu trong tâm trí khi chúng ngộ nhập với sự kinh tởm tạo ra bởi tâm. Cả hai, trên thực tế, là một và giống nhau. Khi sự nhận thức này xảy ra, tâm trí buông xả mọi hình ảnh bên ngoài, buông xả mọi hình tướng bên ngoài và khi làm như vậy sẽ buông xả cả sức lôi cuốn của ái dục.

Sức lôi cuốn của ái dục bám rễ qua nhận thức của thân. Khi căn bản thật sự của các nhận thức đó được phơi bày, nó hoàn toàn phá hoại giá trị của nó, và bên ngoài, như chúng ta đã biết, sụp đổ và sự dính mắc của chúng ta biến mất theo sự hài hoà của nó. Ảnh hưởng của lậu hoặc qua sự lôi cuốn của ái dục… cởi lên bằng móng sắt trên tâm trí từ thời thượng cổ, đã dụ dỗ tâm trí nắm bắt từ lúc chào đời và do vậy mà không ngừng kinh nghiệm cái chết trong hằng vô lượng kiếp. Sự thèm khát xảo quyệt đó hiện giờ bị mất hết tiềm năng. Tâm trí bây giờ đã vượt trên ảnh hưởng của nó. Bây giờ thì nó được tự do.

XIN HÃY TIẾP NHẬN SỰ GIẢI THÍCH NÀY NHƯ LÀ MỘT SỰ HƯỚNG DẪN, một tín hiệu cho lộ trình tiếp tới, và không phải là một bài tập cần phải học thuộc lòng. Tôi luôn luôn lưỡng lự khi phải rất rành mạch và rõ ràng vì tôi sợ rằng học trò của tôi sẽ xem lời dạy của tôi theo nghĩa đen và do vậy sớm xét đoán bản chất của sự thật mà họ đang theo đuổi. Lời dạy của tôi, như chúng đang là, sẽ không khiến quí vị chứng ngộ. chỉ có sự tỉnh thức nhiệt tâm, gắn chặt vững vàng trong giây phút hiện tại hướng dẫn trực tiếp đến Chân lý mà thôi. Đừng bao giờ sớm giả định Chân lý. Đừng bao giờ suy đoán hoặc lý thuyết hóa về tu tập thiền. Và đừng nhầm lẫn kiến thức quí vị gặt hái qua sự mô tả này là thích đáng, ước đoán là nếu làm như vậy quí vị sẽ thấu hiểu bản chất của thân tâm. Chỉ có tuệ kiến sáng suốt trực tiếp được hướng dẫn bởi chánh niệm, khảo sát bởi tuệ giác, và theo đuổi một cách tinh tấn thì mới có thể xuyên thấu được Chân lý đó.

Ở lãnh vực tu tập này, thân đã hoàn toàn nội hóa và quyền năng lôi cuốn của ái dục cũng bị đứt đoạn. Để hướng đến bước kế tiếp, quí vị phải ứng dụng pháp thiền đã mang quí vị đến điểm này, như bài thực tập huấn luyện. Mục tiêu ở đây là trau giồi chánh niệm và tuệ giác thậm chí nhanh nhẹn hơn, sắc bén hơn và chính xác hơn khi đối đầu với bản chất cực kỳ vi tế và khó nắm bắt của hiện tượng tâm. Hãy đặt hình ảnh kinh tởm của thân trước mặt quí vị như thường lệ và hãy quán sát nó khi nó co rút vào tâm trí. Sau đó thì hãy đặt hình ảnh trở lại trước mặt quí vị và bắt đầu lần nữa, quan sát thật cẩn thận hình ảnh hiện ra trong tâm trí như thế nào. Hãy thực tập như vậy nhiều lần cho đến khi tâm trí bắt đầu lão luyện với nó. Một khi sự tinh thông được thành tựu rồi, hình ảnh đó sẽ chẳng sớm tan tác mỗi khi tâm trí tập trung trên nó và ngộ nhập với tánh thấy biết bên trong. Khi đạt đến giai đoạn nơi mà ta thấu hiểu rõ ràng mọi nguyên lý cơ bản dưới sức lôi cuốn của ái dục, bước kế tiếp là trau giồi tâm trí chỉ thuần túy với pháp rèn luyện tinh thần. Sức hấp dẫn của ái dục không còn là vấn đề nữa… Nó đã đoạn tận. Không còn cách nào nó hiển lộ như trước đó. Nhưng mặc dù đa số đã được loại trừ, tuy vậy nó vẫn chưa hoàn toàn bị hủy diệt. Một phần nhỏ vẫn còn lại, như những hạt nhỏ của xỉ sắt bám chặt vào tâm trí.

Ở giai đoạn mà nhận thức bên ngoài ngộ nhập hoàn toàn với hình ảnh bên trong của tâm, chúng ta có thể nói rằng ít nhất là năm mươi phần trăm của sự luyến ái (Kãmarãga) đã hoàn toàn thành tựu.

Cuối cùng, giai đoạn cao tột nhất của con đường tu tập đã đạt đến. Phần vi tế của ham muốn giác quan còn lại nhất định phải dần dần loại trừ, ứng dụng pháp rèn luyện đã được nhắc bên trên.

Thường xuyên mài dũa tính quán xét và thấm thấu mọi hình ảnh bất tịnh sẽ phát triển trình độ thiện xảo của tuệ. Khi sự tinh thông lão luyện của tuệ càng thêm củng cố thì tỷ lệ phần trăm cao hơn và cao hơn của sức hấp dẫn của ái dục sẽ hoàn toàn bị hủy diệt. Khi sự thành tạo của tuệ gia tăng tốc độ thì tốc độ của các hình ảnh cũng sẽ co rút lại cùng một tốc độ. Tự nhiên rằng, chẳng bao lâu nữa, mỗi khi thiền nhân chuyên chú trên nó, hình ảnh đó sẽ hối hả vào tâm, ngộ nhập nó và đơn thuần biến mất. Với sự tu tập liên tục, tốc độ sẽ diễn ra với tốc độ nhanh hơn. Ở trình độ cao nhất của tịnh lão luyện, hình ảnh sẽ tan biến ngay giây phút nó thấm nhập vào tâm trí. Phương pháp khảo sát là nền tảng trong quá trình vào giai đoạn cuối cùng của lộ trình, giai đoạn mà lòng tham duyên theo dục giới – Ái dục (Kãmarãga) bị chặt đứt sẽ hoàn toàn rút lui. Chẳng sớm thì mỗi một vết tích của nó sẽ bị hủy diệt.

Một khi thiền nhân đạt đến giai đoạn cuối cùng, một khi gốc rễ thật sự của xấu đẹp được thấy với sự trong suốt rõ ràng, Kãmarãga sẽ không bao giờ dám ló đầu ra nữa. Sự nắm bắt của nó trên tâm trí đã bị gẫy đổ… và tình trạng này không bao giờ có thể đảo ngược lại. Bất kể điều đó, hành trình tu tập xa hơn vẫn cần có để tiêu trừ tất cả mọi dấu vết thèm muốn của cảm quan. Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian. Phần khảo sát của sự khảo sát này phức tạp và hơi hỗn loạn với hình ảnh sanh khởi và diệt đi ở tốc độ thần tốc. Nỗ lực mãnh liệt nhất đòi hỏi phải nhổ bật tất cả mọi dấu vết của ái dục, Kãmarãga, nhưng thiền nhân theo bản năng biết phải làm gì ở giai đoạn này. Cho nên, sự khảo sát nhanh chóng phát triển theo đà xung lượng tự nhiên của nó mà không cần một ai thúc đẩy.

Chánh niệm và tuệ giác là thói quen… Chúng đồng hợp lẫn nhau với tốc độ linh động phi thường. Khi đến lúc mà các khảo sát đó đạt đến mức độ tinh xảo của nó, chẳng sớm thì hình ảnh của thân sanh khởi ít hơn là bị diệt đi. Không thành vấn đề là các hình ảnh đó có nổi lên trong tâm hay không, nó hiện ra và mất đi tất cả đều được biết đến. Hình ảnh sinh và diệt quá nhanh chóng đến mức nhận thức ngoài và trong không còn liên hệ. Cuối cùng, hình ảnh chớp lên rồi tắt biến. Hiện ra và biến mất từ sự tỉnh thức quá nhanh đến mức hình tướng của chúng không còn chống đỡ được nữa. Sau mỗi lần biến mất, tâm trí kinh nghiệm sự trống rỗng thâm sâu… sự rỗng không của mọi hình ảnh, rỗng không hình tướng. Sự tỉnh thức cực kỳ thanh nhẹ hiển lộ trong tâm. Mỗi một hình ảnh mới chớp qua và biến mất, tâm trí cảm nhận sự rỗng rang thanh tịnh càng thâm thúy hơn. Do sức mạnh vi tế biến hiện ở giai đoạn này, tánh thấy biết của tâm hoàn toàn khống chế. Cuối cùng, hình ảnh tạo ra trong tâm không còn hiện ra nữa… chỉ sự thanh tịnh còn lại. Có thấy không? Đó là cốt lõi tự tánh thấy biết của tâm đang tỏa khắp, độc nhất và bất khả so sánh. Với sự dứt bặt của tất cả mọi hình ảnh của thân tạo ra bởi tâm trí là sự đoạn diệt hoàn toàn của ái dục, Kãmarãga. Quán xét thân đã đến lúc chấm dứt.

Cuối cùng, nhận thức là tất cả mọi hình tướng thực chất là trống rỗng… không cá thể, không đặc tính khác biệt như xấu đẹp… Thiền nhân thấy biết sự nguy hại to lớn gây ra bởi ái dục (Kãmarãga). Sức tàn hại của lậu hoặc trải hơi độc của nó khắp mọi phương hướng. Nó khiến bao mối quan hệ của con người phải hao mòn và đem đến biết bao phiền não cho toàn thế gian, bóp méo tư duy và cảm xúc của con người, gây căng thẳng lo âu, bồn chồn và luôn luôn bất thỏa nguyện. Không có gì khác mang đến tác động bất an như vậy trong sự sống của con người. Nó là năng lực hủy diệt mãnh liệt nhất trên trái đất. Khi Kãmarãga hoàn toàn bị tận diệt, toàn thế giới xem ra rỗng không. Năng lực mồi lửa đó đốt cháy bao trái tim chúng sinh, và ngọn lửa bừng cháy tàn phá xã hội con người bị dặp tắt và chôn vùi. Ngọn lửa ái dục bị dặp tắt vĩnh viễn… không có gì còn lại dày vò tâm nữa. Khi Kãmarãga được đoạn trừ, Niết Bàn sắp được hiển lộ và cận kề trong tay. Kãmarãga che đậy tất cả mọi thứ, che mờ chúng ta với tất cả mọi khía cạnh Chân lý. Do đó, khi Kãmarãga cuối cùng bị hủy diệt, chúng ta không còn bị chướng ngại cản trở quan kiến của Đạo Đế (Magga), Thánh Quả (Phala), và Niết Bàn… Chúng bây giờ đang nằm trong bàn tay với.

ĐỂ TÓM TẮT, GIAI ĐOẠN THÁNH QUẢ A NA HÀM được thành tựu khi vòng vây của Kãmarãga trên tâm trí bị gẫy đổ. Thánh Quả A Na Hàm nhất định phải được áp dụng cùng một lúc với pháp khảo sát tu tập đã dẫn đến kết quả đó. Hãy đào sâu hơn. Hãy nới rộng thêm ra và hãy hoàn hảo nó cho đến khi hình tướng của thân không còn hiển lộ trong tâm. Tâm trí cấu tạo hình ảnh và sau đó sụp đổ theo mọi tạo tác của nó. Bậc Thành tựu Quả A Na Hàm thấy biết hiện tượng này không chút lẫn lộn cái bóng của sự hoài nghi. Thân xác con người, và tất cả mọi hiện tượng mà nó tin và biểu hiện, là vấn đề của tâm trí đang tự lường gạt chính nó. Thân là khối vật chất, một tập hợp của các nguyên tố căn bản tự nhiên.Nó không phải là một con người, không hài lòng hoặc gớm ghiếc. Nó đơn thuần như nó đang là, tồn tại trong trạng thái tự nhiên của nó. Tâm trí phạm sai lầm mà chúng ta đã nhận thức, và sau đó bị đè nặng bởi bao dối trá của nó.

Tất cả mọi bộ phận trong con người chỉ là công cụ mà tánh thấy biết của tâm sử dụng cho mục tiêu của nó. Tánh thấy biết của tâm khuếch tán cả toàn thân. Sự khuếch tán này và sự thấm nhuần của thức hay biết hoàn toàn xuyên suốt thân là sự biến hiện cốt lõi của tâm. Các nguyên tố vật chất bao gồm thân vô thức. Chúng không có phẩm chất thấy biết bên trong, thức không có mặt. Thức thấy biết và giác quan liên kết với thân hoàn toàn là vấn đề của tâm và mọi sự biến hiện của nó. Mắt, tai, mũi, có thể nhận thức thông qua sự hay biết của tâm. Những bộ phận này đơn giản chỉ là phương tiện cho tri giác xảy ra. Tự chúng vốn không có thức hay biết.

Thông thường, chúng ta tin là mắt của chúng ta có khả năng thấy. Nhưng một khi chúng ta hoàn toàn thấu hiểu bản chất chân thực của thân, chúng ta biết rằng tròng mắt chỉ là một khối mô. Thức vận hành thông qua đôi mắt là cái thật sự thấy biết đối tượng hữu hình. Thức dùng mắt như là một phương tiện để đi vào phạm vi hữu hình. Bộ phận mắt của ta không khác với tròng mắt của một con vật nằm chết bên lề đừơng. Mắt thịt không có giá trị gì. Tự nó, căn bản là vật chất. Điều này được hiểu biết với sự sáng suốt rõ ràng. Làm sao thân có thể là ta? Làm sao nó có thể thuộc về ta? Nó hoàn toàn thiếu tự nhiên.

Nguyên lý này được thấy rõ ràng khi dòng chảy của thức khuếch tán và lan khắp cơ thể, co rút vào chính nó và thể nhập vào trạng thái định thâm sâu. Sau đó thì sự có mặt của thân không hơn gì một khối vật chất… một khúc gổ hoặc một mẩu cây. Khi tâm xuất định, thức hay biết trở về thân, tỏa ra cùng khắp mỗi bộ phận, mỗi chân tay. Thức và khả năng thấy biết là nền tảng hoạt động của tâm… không phải của thân. Trong trạng thái tỉnh táo bình thường của thiền nhân ở trình độ tu tập này, tánh thấy biết hoàn toàn ý thức chính nó, ý thức rằng tâm và tính biết là một, cùng một cốt lõi phi thời gian và nguyên tố vật lý thì không biết gì cả. Trong định, thân có lẽ biến mất qua tánh biết nhưng chính tánh biết thì không bao giờ biến mất.

Trên thực tế, đây là nguyên lý bất biến của tạo hóa. Khi nghiệp thâm nhiễm tâm, chúng nắm bắt tất cả như là cái ta, ta hoặc của ta… Vì vậy gây bối rối cho chân tánh của nó với các thức mà nó khiến cho sinh động. Bản chất của nghiệp là như thế. Tuệ thì chỉ ngược lại. Nó thấy biết thân rõ ràng như nó đang là và sữa đỗi sự nhận thức sai lầm đó. Nghiệp luôn luôn nắm bắt thân, hướng dẫn nó tin thân là một bộ phận đặc biệt của chính nó. Tuệ thấy thân chỉ là một thứ tập hợp của vật chất bình thường, và kết quả loại trừ tất cả mọi nắm bắt cá thể với nó.

Trí óc là một khối vật chất. Bộ não chỉ là công cụ mà thức đang sử dụng. Khi tâm thể nhập vào trạng thái vắng lặng và tập trung, thức hay biết đó thường tuôn chảy xuyên suốt thân và đồng thời đồng quy từ khắp phạm vi của thân vào một điểm tập trung ngay giữa ngực. Phẩm chất thấy biết tự nó biến hiện nổi bật ngay điểm đó. Nó không sinh động từ bộ não. Mặc dù chức năng của tưởng và học hỏi sanh khởi qua sự liên kết với trí óc, kiến thức trực tiếp của sự thực thì không phải. Từng bước và từng bước một, bắt đầu với các giai đoạn đầu tiên của hành định, tiến triển trong thiền được kinh nghiệm và được hiểu qua tâm… và chỉ qua tâm. Đây là chỗ Chân lý ẩn tàng, và thiền nhân thực hành đúng cách biết rõ mỗi bước của lộ trình. Khi nó đạt đến hiểu biết bản chất thực của tất cả mọi hiện tượng, trí óc không là một yếu tố… Nó không hề hữu dụng. Các phẩm chất chiếu rọi và thanh tịnh của tâm được kinh nghiệm ở tâm. Chúng sinh động rõ rệt ngay điểm đó.

Tất cả mọi sự huyễn giả của tâm, từ thô tế cho đến chỗ vi tế nhất, được kinh nghiệm rõ ràng từ điểm trung tâm đó. Và khi tất cả mọi ảnh hưởng của lậu hoặc cuối cùng được loại trừ khỏi tâm, nơi đó tất cả chúng đều dứt bặt.

Trong tâm, Tưởng uẩn (saññã sankhãra) là đại lý chính của ảo tưởng. Bắt đầu với những giai đoạn sau này của sự quán xét thân ở cấp độ A Na Hàm, những tập hợp tâm lý cá nhân làm trung tâm. Khi tập hợp cá thể vật lý…thân… không còn là một yếu tố, thì sự tập trung toàn triệt của bậc Thánh A Na Hàm chuyển sang tập hợp của thức: thọ, tưởng, hành, thức. Giữa các thức này, chức năng của tưởng và thức đặc biệt quan trọng. Chúng sanh khởi và tương tác liên tục để hình thành hình ảnh của tưởng mà chúng sơn phết với nhiều dạng ý nghĩa khác nhau. Trong tiến trình quán xét chúng, vẫn các nguyên lý khảo sát củ được ứng dụng nhưng thay vì hình ảnh của thân, tiến trình tư duy tự nó trở thành chủ thể quan sát.

Sử dụng nội quán, tuệ quan sát tưởng và thức sinh rồi diệt, sinh rồi diệt, hiện ra và biến mất trong chuỗi hoạt động triền miên bất tận của hoạt động của hành thức.

Một khi một ý niệm sinh ra rồi diệt đi từ thức, dù bản chất nó là gì, kết quả đều luôn như nhau: Ý niệm chỉ thoáng qua phút chốc rồi diệt đi. Sự khảo sát quyết liệt đặc biệt trên tiến trình tư duy, xuyên thấu nó ngay trọng tâm của cốt lõi tánh thấy biết của tâm trí. Nó theo đuổi mỗi một ý niệm, mỗi thoáng chớp của tư tưởng, khi nó sinh rồi diệt đi, và sau đó chuyên chú trên ý niệm tiếp theo nổi lên trên bề mặt. Nó mất nhiều thời gian và là một công việc gian nan đòi hỏi sự chú ý toàn triệt mỗi một khoảnh khắc của ngày và đêm. Nhưng tới giai đoạn này, thời gian và nơi chốn không còn quan trọng nữa. Nội quán có lẽ liên tục tiếp diễn hằng tuần lễ hoặc hằng tháng cho đến khi chánh niệm và tuệ vật lộn với dòng chảy không ngừng nghỉ của hiện tượng của tâm lý.

Công việc tinh thần này rất là mệt mỏi. Tuệ làm việc liên tục thông qua mỗi khía cạnh tương tác của thức. Nó làm việc liên tục cả ngày lẫn đêm. Cùng lúc đó, nó quán xét tiến trình tư duy. Nó cũng dùng ý niệm và tư duy để đặt câu hỏi và đào sâu vào tiến trình làm việc của tâm trí để gặt hái tuệ kiến vào thật tánh của nó. Đây là tư duy vì Thánh Đạo (Magga)… con đường tu tập. Nó là công cụ mà tuệ sử dụng với mục tiêu biểu lộ sự thật. Nó không chìm đắm trong tư duy đơn thuần vì nó, vốn là Samudaya, Khổ Đế … nguyên nhân của khổ. Cũng như vậy, do tính mãnh liệt của sự khảo sát, tâm trí trở nên mệt mỏi và lúc nào cũng vậy, biến thành đần độn và uể oải lờ đờ sau nhiều tiếng đồng hồ nỗ lực tinh tấn. Khi hiện tượng này xảy ra, phải cần nghỉ ngơi. Hơn bất cứ thời gian nào khác, tâm trí cần được nghỉ ngơi trong định ở những khoảng cách đều đặn trong giai đoạn này. Nhưng kết quả của an lạc và thanh tịnh, kinh nghiệm trong định bất khả so sánh với hoa quả kỳ diệu gặt hái được qua sự tu tập tuệ, thiền nhân thường do dự khi phải nhập định. Tâm trí trong trạng thái tỉnh thức sinh động toàn triệt, và từ quan cảnh định xem ra có vẻ là một trạng thái chậm chạp và quá lãng phí. Trên thực tế, định là sự bổ sung chính yếu và không thể thiếu được trong quá trình tu tập tuệ.

Như vậy, tâm trí bị cưỡng ép phải nhập định nếu cần thiết. Nó bị cưỡng ép phải gạt qua một bên sự khảo sát hiện tại và chỉ chuyên chú đặt biệt trên trạng thái tinh thần thể nhập vào sự tĩnh lặng, an lạc. Ở đó, nó có thể nghỉ ngơi cho đến khi nó cảm thấy hoàn toàn tươi mát và hồi sinh trước khi bắt đầu công việc giải thoát của tuệ. Không bao lâu, sau khi tâm trí xuất ra trạng thái bất động của định, nó sẽ nhảy vào làm việc lập tức. Như con ngựa bị xích, tâm trí nôn nóng trở về công việc chính của nó… loại trừ và hủy diệt tất cả mọi lậu hoặc của thức. Nhưng hãy chăm sóc tâm trí, không nên để tâm trí hối hả một cách điên cuồng trên lộ trình của tuệ. Khảo sát quá mức là hình thức của Khổ Đế (Samudaya) có thể khiến tâm bị ô nhiễm, khiến tâm bị rơi vào bùa mê của lậu hoặc. Chính chức năng của hành nghiệp và phân tích mà tuệ sử dụng để khảo sát tâm trí sở hữu xung lực của riêng nó mà không biết tiết chế. Chúng thường nắm dây cương để duy trì sự quân bình giữa công việc nội quán và sự nghỉ ngơi của tâm trí. Ở giai đoạn tu tập này, tuệ sẽ tự động làm việc với tiềm năng mãnh liệt nhất. Khi cần phải nghỉ ngơi, nó vẫn chuyên chú trên định cùng cường độ mãnh liệt như vậy. Đây là con đường Trung đạo của – Đạo Đế (Magga), Thánh Quả, (Phala) và Niết Bàn.

Tâm và mối liên hệ với danh uẩn (nãma khandhas) danh uẩn là trọng tâm quán xét ở trình độ này. Tâm là cốt lõi của tánh thấy biết qua cốt lõi bản thể của ta. Nó bao hàm sự tỉnh thức thuần khiết và đơn giản: Tâm đơn giản thấy biết. Ý thức xấu và tốt, và thành kiến phân biệt chỉ là ước định của tâm. Có đôi lúc, hoạt động của chúng có thể biến hiện như chánh niệm. Vào lúc khác thì lại như tuệ giác. Nhưng chân tâm không hiển lộ bất kỳ hoạt động nào hoặc biến hiện ước định. Nó đơn thuần là trạng thái thấy biết. Tâm hành sanh khởi qua tâm như thấy biết xấu và tốt, và là điều kiện của thức tuôn chảy từ tâm. Chúng biểu hiện mọi hoạt động và điều kiện của tâm qua chính bản chất, liên tục sinh lên và diệt đi. Sự hay biết của thức luôn luôn bất định và luôn luôn không xác thực. Hãy nên hiểu là danh, uẩn và thức (viññãa) tất cả đều là điều kiện của tâm.

Các điều kiện này tạo ra dòng chảy hiện tượng tinh thần mà chúng ta gọi là danh uẩn (nãma khandhas) Thông qua tương tác của thọ, tưởng, thức, hành và hình ảnh sanh khởi qua tâm. Ý thức biết chúng là tâm. Lậu hoặc ảnh hưởng như ái dục (kãmarãga) thao túng và sơn phết phẩm chất của sự thấy biết đó. Miễn là tâm còn nằm dưới quyền năng của ái dục (kãmarãga) thì nó tin hình ảnh bên trong là thật và trọng yếu, ham muốn và ác cảm. Hình tướng tiếp nhận sau đó được yêu mến hoặc ghét bỏ tùy theo bản chất nhận thức của chúng… tốt hoặc xấu, hấp dẫn hoặc kinh tởm. Khía cạnh của tâm là phân biệt giữa hai cực đoan này. Nó đánh lừa qua sự đồng hóa với thế giới nhị nguyên và bất ổn. Thấy biết của tâm không sinh hoặc diệt, nhưng chỉ mô phỏng đặc tính của mọi sự vật đó… như phiền não và uẩn… đã đủ rồi. Khi tuệ thấy biết sự dối trá, tâm không còn nuôi dưỡng các hiện tượng này mặc dù chúng vẫn tiếp tục sinh diệt trong phạm vi của nghiệp. Tâm do vậy mà trút bỏ các hiện tượng.

Khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác từ lúc chúng ta ra đời cho đến hiện tại, lậu hoặc không ngừng sanh khởi và diệt đi. Tự bản thân chúng vô thực chất và không thể nào tìm thấy được. Giả định của tâm và các hiện tượng này vay mượn chúng như một thực tại cá thê. Tâm bám vào chúng như cốt lõi tự thân hoặc là tài sản của riêng nó. Ý niệm sai lầm này tạo ra một thực thể tự ngã để trở thành một gánh nặng hơn cả núi non, một gánh nặng mà tâm chuyển tải trong nó mà không gặt hái bất kỳ lợi lạc nào. Đau khổ (Dukkha) là phần thưởng duy nhất cho nhận thức dính mắc sai lầm bồi dưỡng bởi ảo tưởng của ngã. Khi tâm thẩm xét các hiện tượng này và có thể thấy biết chúng rõ ràng và sáng suốt, sắc bén và quyết liệt của tuệ, thân được hiểu như là một hiện tượng tự nhiên vốn thật trong giới hạn của bản chất vật lý nổi bật của riêng nó. Nó không thực với chính nó và do vậy không còn là đối tượng bị dính mắc. Thọ của thân… khổ thọ, lạc thọ và vô ký thọ chia rẽ trong thân… rõ ràng là thật, nhưng chúng chỉ là thực tại trong phạm trù cá biệt của chúng. Rồi chúng cũng diệt đi. Nhưng tuệ tuy vậy vẫn chưa đủ khả năng thấy biết thành thói quen các cảm thọ sanh khởi vi tế riêng biệt trong thân… là những điều kiện liên tục kích thích tâm. Mặc dù tâm không thể thấu hiểu sự thật về chúng ngay bây giờ, những cảm thọ vi tế này sẽ làm việc như người nhắc nhở và luôn khuyến khích tâm cần khảo sát xa hơn.

TỔNG HỢP LẠI, DÒNG CHẢY của tưởng và thức được gọi là hành uẩn (sankhãra khandha). Mỗi một ý niệm, mỗi một tia chớp khái niệm gợn lên thông qua tâm trí và rồi mất đi. Trong và của chúng, những gợn sóng tinh thần này không dung chứa ý nghĩa đặc biệt gì. Chúng chỉ là tia chớp ngắn ngủi qua thức và biến mất không còn dấu vết. Chỉ khi nào hành tiếp nhận chúng thì chúng mới trở thành tư duy và khái niệm với nội dung và ý nghĩa đặc biệt. Tưởng uẩn (Saññã khandha) là tổng hợp của ký ức, nhận thức và lý giải. Tưởng tiếp nhận từng mảnh rời rạc của ý niệm, lý giải chúng và khai triển chúng, giả định ý nghĩa của chúng, và sau đó biến chúng thành các vấn đề. Lậu hoặc sau đó ghi nhớ mãi mãi những vấn đề này qua hình thức tư duy bất tận và lan man, thiếu mạch lạc. Tưởng tuy vậy là kẻ chủ mưu chính. Một khi lậu hoặc chớp lên ngắn ngủi thì tưởng tức thì nắm bắt nó và định nghĩa sự có mặt của nó như cái này hay cái kia… tất cả mọi phiền não. Hai uẩn này là chức năng tinh thần gây ra đủ nguyên nhân khó khăn. Cùng nhau chúng thêu dệt đủ chuyện… đau khổ và may mắn… và sau đó dịch giải chúng là thực tại của chính nó. Dựa trên tưởng để đồng hóa tất cả sanh khởi qua nhận thức. Tưởng định nghĩa chúng và ban cho chúng ý nghĩa. Lậu hoặc sinh lên và diệt đi từ đầu đến cuối như tia chớp ánh sáng hoặc đom đóm chớp lên rồi tắt đi. Khi quan sát kỹ càng, tưởng uẩn vi tế hơn là hành uẩn. Vỡ tung trong sự nhận biết, lậu hoặc là nền tảng xây dựng của tư duy. Tưởng (Saññã), ngược lại, không kinh nghiệm như tia chớp của ý niệm. Khi tâm trí hoàn toàn bất động và các uẩn đều cực kỳ yên lắng, chúng ta có thể cảm giác rõ rệt tính chất của mỗi uẩn phát sanh. Tưởng sẽ trải ra thật chậm, lan khắp tâm như mực trên giấy, khai triển chậm chạp cho đến khi nó hình thành hình ảnh tinh thần. Theo hướng dẫn của tưởng, nghiệp không ngừng sanh khởi, bắt đầu tạo ra hình ảnh và câu chuyện quanh nó và sẽ có sự sống của riêng nó. Suy nghĩ về điều này hoặc điều kia bắt đầu với tưởng nhận thức và lý giải những gợn sóng của lậu hoặc, đúc khuôn chúng thành hình ảnh có thể nhận thức được và lậu hoặc sau đó không ngừng trau chuốt. Cả hai yếu tố tinh thần này là hiện tượng tự nhiên. Chúng tự sinh tự phát và cá biệt với thức thấy biết chúng.

Khi tâm khảo sát các căn lặp đi lặp lại không dứt và liên tu bất tận, nó trở nên chuyên môn. Khảo sát qua phương tiện của tuệ, trước tiên chúng ta có thể đoạn trừ thân nghiệp. Ở giai đoạn ban đầu của khảo sát, tuệ sẽ thấy biết qua thân trước khi nó có thể thấy biết xuyên suốt và có thể buông xả các uẩn khác. Từ đó, tâm có thể dần dần loại bỏ sự dính mắc của nó với thọ, tưởng, hành và thức cùng phương cách đó.

Nói một cách đơn giản, tâm buông xả khi tuệ thấy biết xuyên suốt mọi tập hợp cá thể tinh thần. Trước đó nó nắm giữ. Một khi tuệ đã xuyên suốt chúng hoàn toàn, tâm có thể buông xả tất cả, nhận thức chúng chỉ đơn thuần là những gợn sóng lăn tăn trong tâm và vô thực chất. Dù tốt hoặc xấu, cùng một lúc ý niệm phát khởi và diệt đi. Dù chúng xuất hiện trong tâm như thế nào đi nữa, chúng chỉ là những hành động tạo ra bởi tưởng và nghiệp và sẽ đơn thuần biến mất. Không ngược lại. Không một ý niệm nào kéo dài hơn một sát na. Thiếu sự bền bỉ, chúng mất đi thực chất và ý nghĩa và do đó, chúng không thể tin cậy được.

Nếu vậy thì cái gì vẫn mãi cung ứng những vọng tưởng đó? Cái gì vẫn mãi sản sinh ra chúng? Trong một sát na, chúng tung lên một ý nghĩa, sát na kế tiếp, tung lên một ý nghĩa khác, không ngừng dối gạt chính nó. Chúng đến từ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và thọ. Chúng ta xem thường và giả định nhận thức của chúng ta, mãi mãi dối trá cho đến khi nó trở thành ngọn lửa thiêu đốt trái tim của chúng ta. Tâm bị ô nhiễm bởi các yếu tố quy ước của tâm trí.

Mục tiêu của sự khảo sát này là loại trừ các yếu tố đó. Sự vắng mặt của chúng hiển lộ chân tánh của tâm. Chúng ta sẽ thấy rằng khi tâm không còn lang thang liên hệ với đối tượng, nó duy trì bản chất thanh tịnh tự nhiên và chiếu rọi, như trong lời dạy, “Này tỳ kheo, bản chất nguyên thủy của tâm là sáng suốt và chiếu rọi, nhưng nó trở nên bị ô nhiễm bởi dòng chảy của nghiệp.”

Bản lai của tâm là chiếu sáng. Lời dạy này ám chỉ đến bản chất nguyên thủy của tâm đã mãi lang thang trong dòng vô định hết kiếp này cho đến kiếp khác qua sự tái sinh. Có lẽ nó được so sánh với tâm của một hài nhi mới chào đời khi mà chức năng tinh thần chưa đủ phát triển trọn vẹn để thấu hiểu đối tượng của các căn. Nó không ám chỉ đến bản chất nguyên sơ của tâm chuyển hoá chu kỳ tái sinh và tuyệt đối thanh tịnh.

Khi chúng ta khảo sát tâm xuyên suốt, từng giai đoạn và từng giai đoạn, các yếu tố lậu hoặc trước đó hay đi lang thang sẽ đồng quy vào một điểm chói lọi đó, thể nhập với sự chiếu rọi tự nhiên trong tâm. Sự chiếu rọi này cực kỳ kỳ diệu và mê hoặc đến ngay cả những chức năng tinh thần như Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ cũng sẽ chìm đắm trong bùa mê của nó. Hoàn toàn là một kinh nghiệm lạ thường chưa bao giờ thấy qua. Nó thậm thâm vi diệu và xem ra quá phi phàm, quá lộng lẫy và oai nghiêm phi thường. Xem ra không có gì có thể so sánh với nó ngay khoảnh khắc đó. Và tại sao nó cần nên so sánh? Nó tuyệt đối như một Thiên Vương ngự trị trên tam giới qua hằng vô lượng kiếp. Điểm chiếu rọi này đã nắm giữ tâm dưới quyền năng và sự điều khiển của nó từ thời thượng cổ. Và nó sẽ vẫn mãi tiếp tục mê hoặc miễn là tâm thiếu chánh niệm và tuệ siêu việt cần có để khai phóng chính nó từ quyền năng mà nó sử dụng, cưỡng chế tâm kinh nghiệm vòng quay sinh tử trên vô số phạm trù của sự sống qua kết quả, và tiếng gọi của lậu hoặc vi tế này.

Cuối cùng, ánh sáng chiếu rọi thanh nhẹ tự nhiên này của tâm trí đã khiến hằng bao nhiêu chúng sinh phải lang thang vô định trong cõi luân hồi, kinh nghiệm luân hồi sinh tử.

Một khi tâm thấu hiểu rõ ràng, danh (nama), sắc (rupa), thọ (vedana) tưởng (sanna), nghiệp, hành (sankhãra) and thức (viññãõa) hoàn toàn tuyệt đối, tất cả những gì còn lại những gợn sóng lăn tăn khác nhau vi tế đang xảy ra độc nhất trong tâm. Đây là hình tướng vi tế nhất của nghiệp tạo ra sự chuyển động trong tâm, một hình thức vi tế của khổ (dukkha), ánh sáng chói lọi vi tế huy hoàng trong tâm. Tất cả chúng là như vậy. Đại Trí tuệ và Đại Chánh niệm sẽ tiếp nhận những gợn sóng lăn tăn đó là trọng tâm để khảo sát, không ngừng quan sát và phân tích chúng.

Sự chiếu rọi sản sinh ra bởi sự đồng quy của vô số lậu hoặc sẽ là điểm nhận thức rõ ràng của sự chiếu rọi đó, một sự chiếu rọi rất là thanh nhẹ tập trung ở một điểm đặc biệt trong tâm. Tính chất đần độn tương ứng và thỉnh thoảng khởi lên sẽ làm lu mờ trung tâm chói lọi đó, gây ra tướng vi tế của khổ cũng vi tế cần bằng như vậy được khởi lên. Trên thực tế, sự chiếu rọi và sự ngu si này là hai mặt cùng một đồng tiền: Cả hai đều là thực tại quy ước. Ở cấp độ này, sự chiếu rọi, sự ngu si, và khổ là quí vị đồng hành cùng nhau đồng biểu thị.

Vì lý do này, khi tâm kinh nghiệm ánh sáng chiếu rọi vi diệu này, nó luôn cảnh giác là kinh nghiệm này có thể bị tàn hại bởi sự biến đổi bất kỳ khoảnh khắc nào. Chánh niệm và tuệ giác làm công tác bảo vệ và duy trì ánh sáng chói lọi này không bị che mờ. Bất chấp tính vi tế của nó, một vết nhơ cũng vẫn là triệu chứng lậu hoặc nên thiền nhân chắc chắn được hài lòng. Những thay đổi vi tế này qua sự chiếu rọi của tâm cần phải xem xét bởi tuệ và với sự cần mẫn chuyên nhất cao tột nhất.

Để loại trừ gánh nặng căng thẳng này và đạt đến quyết tâm tối hậu qua kinh nghiệm này, hãy tự hỏi chính mình, “Chính xác tánh chiếu rọi đó là gì? Hãy đặt sự chú ý của quí vị trên nó cho đến khi quí vị biết. Tại sao nó không ngừng biến hiện? Khoảnh khắc này nó chiếu sáng, khoảnh khắc tới nó bị mờ mịt. Khoảnh khắc này nó là (lạc) sukka, khoảnh khắc sau nó là khổ (dukka). Khoảnh khắc này nó hoàn toàn thỏa nguyện, khoảnh khắc tới nó bất mãn. Hãy để ý đến lạc (sukka) vi tế tác động một cách khác thường. Sau đó, với sự biểu thị nhẹ nhàng của khổ, cùng đồng hành với tính thanh nhẹ của tâm ở trình độ này đủ khiến chúng ta phải ngờ vực. Tại sao trạng thái vi tế và thanh nhẹ này của tâm lại biểu lộ vô số quy ước khác nhau? Nó không thường hằng và không thật. Không ngừng chạy đuổi sự truy cứu này. Hãy vô úy. Sợ hãi là sự hủy diệt tính chiếu rọi đó và cũng sẽ là sự hủy diệt bản tánh cốt lõi của quí vị. Hãy chuyên chú trên điểm trung tâm đó để thấy biết rõ ràng là sự chiếu rọi đó có cùng những đặc tính… khổ, vô thường và ngã… cũng như tất cả mọi hiện tượng khác mà quí vị đã khảo sát. Chỉ khác nhau là sự chiếu rọi này vi tế và thanh nhẹ hơn. Ở giai đoạn khảo sát này, không nên xem thường bất kỳ hiện tượng gì; Không có gì trong cảnh giới thực tại quy ước được tin cậy. Hãy đặt sự chú ý của quí vị thật sâu trong tâm và hãy cho phép tuệ tiếp nhận thử thách. Tất cả mọi hiện tượng huyễn giả đều bắt nguồn qua tâm. Sự chiếu rọi này là dễ thấy nhất giữa chúng.

Nó là sự dối trá tối hậu nhất. Bởi vì quí vị yêu quí và bảo vệ nó hơn bất kỳ thứ gì khác, quí vị sẽ khó can thiệp nó. Trong toàn bộ thân vật lý này, không có gì rực rỡ nổi bật hơn sự chiếu sáng này. Nó khích động sự mê hoặc kinh ngạc của nội tâm… và kết quả là cảm giác muốn bảo vệ sự dính mắc này… nên quí vị không muốn quấy nhiễu nó.

Nó ở đây. Hãy ngắm nhìn nó. Không có gì hơn là bậc thống trị tối thượng của vũ trụ… Vô minh. Nhưng quí vị không nhận thức nó. Chưa bao giờ thấy qua nó, tự nhiên là quí vị sẽ bị lường gạt qua sự chiếu rọi mà quí vị sẽ trực diện ở giai đoạn này. Sau này, khi chánh niệm và tuệ giác đã hoàn toàn chuẩn bị rồi, quí vị sẽ thấy biết Chân lý mà không cần thúc đẩy. Đây là vô minh. Chân vô minh đang có mặt ở đây. Chẳng là gì ngoài điểm mê hoặc chói lọi đó. Đừng tưởng tượng vô minh là ác quỉ hoặc ác thú, sự thật là nó là một tuyệt phẩm quyến rũ và trìu mến nhất trên toàn thế gian.

Chân Vô minh rất khác với những gì mà quí vị kỳ vọng nó. Do đó, khi quí vị trực diện với vô minh, quí vị không nhận thức được nó, và khi sự tu tập của quí vị bị dính mắc ở đó. Nếu quí vị không có một bậc thầy khuyến dụ quí vị và chỉ đường cho quí vị khảo sát, thì quí vị sẽ bị lạc đường rất lâu trước khi quí vị nhận thức thật tánh của nó và có thể siêu vượt trên nó. Khi quí vị có một bậc thầy khuyến dụ quí vị làm sao tiến hành, thì quí vị có thể nhanh chóng thấu hiểu nguyên lý căn bản và tấn công một cách quyết tâm ngay trung tâm chói lọi đó mà không cần phải đặt niềm tin nào trên nó. Quí vị phải chỉ đạo sự khảo sát của quí vị ở đây như khi quí vị đã thành tựu với các hiện tượng tự nhiên khác. Sau khi loại trừ tất cả mọi dính mắc với năm căn, tâm thanh nhẹ cực kỳ ở giai đoạn này. Mặc dù nó đã buông bỏ tất cả mọi thứ khác, tuy vậy nó vẫn chưa buông xả chính nó. Bản tánh thấy biết chân thực của nó vẫn lan tỏa bởi sự ngu dốt nền tảng cốt lõi của nó, và do vậy vẫn còn dính mắc với chính nó. Ở đây, vô minh xâm nhập vào điểm chú tâm duy nhất. Tất cả mọi lối ra đều bị cắt đứt, nó xâm nhập vào tâm mà không có đường thối lui. Cửa ra của vô minh là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, dẫn đến nhãn, nhĩ, hương, vị, xúc, pháp và thọ. Một khi chánh niệm và tuệ giác đã đủ lão luyện để chặt đứt những lối thoát này, vô minh chỉ còn lại duy nhất là sự diễn đạt. Các đại lý bên ngoài của nó đều bị trung lập hóa. Tất cả những gì còn lại là sự rung động không ngừng ngân vọng trong tâm. Bị tước đoạt lối ra cho mọi hoạt động của nó, nó nương tựa duy nhất qua môi trường hoạt động của nó. Miễn là tuệ không thể chuyển hoá nó một cách xuyên suốt, vô minh sẽ thể hiện như là cảm giác vi tế của lạc (sukha), cảm giác vi tế của khổ (dukkha), và sự chiếu rọi đó thật sự tràn trề và mê hoặc. Cho nên, tâm vẫn cần tiếp tục chuyên chú khảo sát trên các yếu tố đó.

Mỗi một quy ước thực tại… dù là thanh nhẹ như thế nào hoặc rực rỡ và mê hoặc như thế nào… Lúc nào cũng vậy, nó biến hiện một vài triệu chứng bất thường. Nhiêu đó cũng đủ nắm bắt sự chú ý của tâm và khiến nó phải tìm giải pháp. Cả hai lạc (sukha) và khổ (dukka) cực kỳ thanh nhẹ sanh khởi độc nhất trong tâm, và sự chiếu rọi diệu kỳ này sinh động từ nó, phát xuất từ vô minh. Nhưng khi chúng ta chưa bao giờ thấy qua nó, chúng ta bị nó lừa dối và chúng ta nắm bắt chúng khi chúng ta lần đầu tiên khảo sát điểm trụ này. Chúng ta bị quyến rũ bởi âm thanh ru ngủ của vô minh, tin là những cảm thọ vi tế của sự hài lòng và sự chiếu rọi rực rỡ đó là cốt lõi chân thực của chúng ta vượt trên danh sắc hình tướng. Không nhớ đến sai phạm của chúng ta, chúng ta chấp nhận bản tâm huy hoàng này, hoàn toàn xem vô minh như là chân tánh của chúng ta. Nhưng không lâu lắm, ở giai đoạn này, các chức năng mãnh liệt của Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ vẫn chưa hài lòng. Sự quán xét thường nhật, khảo sát và phân tích… đảo ngược đảo xuôi, liên tục. Cuối cùng chúng sẽ nhận thức sự thật. Chúng sẽ để ý đến các cảm thọ vi tế của lạc (sukha) và khổ (dukkha) biểu hiện nhiều biến đổi nhẹ nhàng khác nhau xem ra đang bị dính mắc vào sự chiếu rọi mê hoặc đó.

Ngay cả khổ tự nó biến hiện cực kỳ mong manh cũng khiến chúng ta sinh lòng nghi hoặc. Tại sao tâm lại có những điều kiện khác nhau như vậy? Nó không bao giờ thường hằng. Những sự biến đổi nhỏ nhặt này được quan sát trong trung tâm cốt lõi của tâm biến hiện chỉ đủ thăng trầm lên xuống để lôi cuốn sự chú ý của chánh niệm và trí tuệ.

Một khi chúng được dò ra, sự thiếu tin cậy khởi lên cảnh báo tuệ là chúng phải cần được khảo sát. Do đó, phẩm chất thấy biết của tâm sau đó trở thành trọng tâm truy cứu. Chánh niệm và tuệ chuyên chú trên điểm đó, nỗ lực khám phá tánh thấy biết này thật sự bao gồm những gì. Chúng đã khảo sát tất cả mọi hiện tượng khác rồi, từng giai đoạn và từng giai đoạn, đến mức tất cả mọi yếu tố khác đều được loại trừ một cách thành công. Nhưng bản tánh thấy biết này quá rực rỡ và quá diệu kỳ. Chính xác nó là gì? Khi chánh niệm và tuệ giác bám sát trên nó, tâm trở thành điểm tập trung của toàn bộ sự khảo sát. Nó biến thành một trận chiến của Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ. Không lâu sau, chúng ta có thể hủy diệt được tâm-vô minh đó, từ khía cạnh của vô minh, hiển lộ quá huy hoàng và lộng lẫy. Bây giờ chúng hoàn toàn bị đoạn trừ, thậm chí dấu vết nhỏ nhặt nhất cũng không thể nào tồn tại trong tâm nữa. Khi khảo sát với tuệ nhạy bén và kiên cố cho đến khi bản chất của nó được thấu hiểu rõ ràng, hiện tượng này sẽ tan rã và tan biến trong một hiện tượng hoàn toàn bất ngờ. Khoảnh khắc chứng ngộ đó được gọi là, “Giác ngộ dưới cây Bồ đề”, hoặc “Những ngôi nghĩa trang của Saÿsãra hoàn toàn bị hủy diệt”. Một sự tín tâm không thể nào nghi ngờ khởi lên sau đó. Khi trung tâm chiếu rọi đó tan rã, có một cái gì phi phàm hơn … bị che dấu dưới ánh sáng vô minh… được hiển lộ trong tròn đầy của nó. Trong tâm cảm giác như là có một sự chấn động toàn cả vũ trụ vạn hữu. Khoảnh khắc cốt yếu này, khi tâm đoạn lìa tất cả mọi hình tướng của thực tại quy ước là một trong những kỳ diệu thậm thâm vi diệu bất khả tư nghì và phi phàm. Nó chính xác ở đây… ngay khoảnh khắc khi vô minh cuối cùng bị phá vỡ… A La Hán Thánh Đạo chuyển hoá thành A La Hán Thánh Quả. Khi con đường đã hoàn toàn khai mở, Thánh Quả A La Hán đạt đến. Pháp và tâm thành tựu toàn hảo. Từ giây phút này tất cả mọi phiền não đau khổ chấm dứt. Đây là bản chất của Niết Bàn.

Khi bản chất mà chúng ta hình dung cực kỳ mầu nhiệm và vi diệu cuối cùng cũng bị tan rã, có một cái gì bất khả thuyết khởi lên trong sự tròn đầy. Bản tánh đó là sự Thanh Tịnh Tuyệt Đối. Khi so sánh với trạng thái thuần khiết vô minh mà có lần chúng ta đã nắm giữ trong sự kỳ diệu đó bây giờ chỉ giống như đống phân bò, và bản chất bị che phủ bởi vô minh hiển lộ ra như vàng thật. Ngay cả một đứa trẻ cũng biết giá trị khác nhau giữa phân bò và vàng thật nên chúng ta không cần phải lãng phí thời gian và công bố sự vô minh của chúng ta qua sự so sánh.

Sự tan rã của vô minh đánh dấu giây phút khi A La Hán Thánh Đạo (Arahattamagga) và A La Hán Thánh Quả (Arahattaphala) cùng song hành đến điểm cuối cùng của chúng.

Nếu chúng ta so sánh khi leo lên những bậc thang tam cấp để vào nhà, một chân trên bậc thang cuối cùng, còn chân kia vẫn còn trên đất của ngôi nhà, chúng ta vẫn chưa vào nhà bằng cả hai chân. Chỉ khi nào cả hai chân vững vàng trên sàn nhà thì chúng ta có thể nói rằng là chúng ta để “về nhà”. Tâm đã “chứng Pháp” khi cả hai chân đều đặt vững vàng trên Pháp Tối thượng.

Nó đã chứng được Niết Bàn vi diệu. Từ khoảnh khắc đạt ngộ đó tâm hoàn toàn tự do. Nó biến hiện không xa hơn mọi hoạt động của lậu hoặc, đây là A La Hán Thánh Quả… quả của bậc thánh A La Hán. Nó được kinh nghiệm chỉ cho những người hoàn toàn giải thoát được tất cả mọi lậu hoặc… Các bậc Thánh A La Hán người đã thành tựu Sa-Upãdisesa-Nibbãna.

Với danh (nama), sắc (rupa), tưởng (sanna), hành (sankhara) và thức (vinnaoa) , chúng chỉ là duyên, hiện tượng tự nhiên tự sinh và tự diệt ngoài khả năng ảnh hưởng hoặc ô nhiễm tâm. Cùng một tác động với hương, vị, xúc, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, và thọ. Mỗi căn sở hữu một thực tại riêng rẽ của nó. Sự tồn tại của nó không còn là vấn đề nữa khi tâm bây giờ đó đã hoàn toàn giải thoát vô minh từng khiến nó tạo ra giả huyễn về chúng. Hiện giờ thì tâm đã ý thức hoàn toàn sự thật. Nó thấy biết thực tại của tánh thấy biết của cũng như thực tại của tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên ngoài và trong. Mỗi uẩn sở hữu thực tại riêng biệt của nó, xung đột từng khởi lên giữa chúng không còn có mặt. Tất cả đều tự do hành trình riêng rẽ. Ở giai đoạn này, sự xung đột lâu dài giữa phiền não (kilesas) và tâm (citta) cuối cùng chấm dứt.

Khi Chân lý được thấy biết qua cách này, tâm không còn cảm thấy căng thẳng hoặc xốn xang lo âu về sống và chết của các uẩn. Tâm đơn thuần nhận thức mọi hoạt động của các uẩn… chúng khởi lên như thế nào, tương tác và dứt bặt và cuối cùng chúng tan rã như thế nào… Nhưng bởi vì cốt lõi bản chất thấy biết của tâm không bao giờ chết, sợ hãi cái chết không còn là một yếu đuối. Ta chấp nhận cái chết. … khi nào nó muốn đến… cũng như sự sống… khi nào nó vẫn còn tiếp tục. Cả hai đều là khía cạnh cùng một Chân lý.

KINH NGHIỆM NÀY KẾT THÚC SỰ KHẢO SÁT CỦA tâm. Khi đạt đến trình độ này, tâm cắt đứt sinh tử, hoàn toàn đoạn lìa mọi biến hiện của vô minh và ham muốn. Trạng thái của “avijjã paccaya sankhãra” một trạng thái mà “ nền tảng mọi nhân duyên vô minh khởi lên bao hiện tượng quy ước” tan biến hoàn toàn. Nó được thay thế bởi “avijjãya tveva asesavirãga nirodhã sankhãrã nirodho” “Sự tan biến và dứt bặt của hiện tượng quy ước chấm dứt toàn bộ mọi đau khổ”. Khi vô minh (avijjã) được đoạn trừ, hiện tượng quy ước… khiến phiền não khởi lên… cũng được đoạn trừ . Chúng hoàn toàn biến mất qua bản chất thấy biết của tâm. Hiện tượng quy ước như vọng niệm là cốt yếu của các uẩn (khandhas) vẫn tiếp tục hoạt động trong phạm vi của chúng nhưng chúng không còn gây ra đau khổ. Không bị ô nhiễm bởi phiền não, chúng đơn thuần ban hình tướng và huấn thị cho hoạt động tinh thần. Ý thức khởi lên qua tâm trí thanh tịnh và không gây ra đau khổ. “Viññãõa paccaya nãmarýpaÿ, nãmarýpa paccaya sãîayatanaÿ, sãîayatana paccaya phasso”. Tất cả mọi thần thông và giác quan tiếp xúc mà chúng quy định chỉ là hiện tượng tự nhiên đang xảy ra, tồn tại theo các đặc tính chân thực của chúng. Chúng không gây ra bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực nào trên tâm vốn đã hoàn toàn thành tựu công việc của nó đến điểm của “evamme tassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti” (Hoàn toàn dứt bặt mọi đau khổ).

Khi vô minh (avijjã) và tất cả mọi phiền não (kilesas) đều được đoạn trừ, chúng cũng đoạn trừ qua tâm. Sự biến mất của vô minh (avijjã) có nghĩa là sự hủy diệt vòng quay sinh tử. Cả hai đều được đoạn diệt trong tâm, vì tâm-vô minh (avijjã-citta) là cốt tủy của thế giới tái sinh, cốt tủy của sinh, già, bệnh và chết. Sự thèm muốn của giác quan với hoạt động của vô minh như là động lực chính, là nguyên nhân cội rễ của sinh, già, bệnh và chết… và nó có mặt chỉ trong tâm. Khi vô minh cuối cùng bị tan rã, bị cắt đứt vĩnh viễn qua tâm, sự chấm dứt toàn triệt được thành tựu. Tâm sau đó được tự do, vô hạn và rỗng rang tối thượng, vô giới hạn, vô biên giới… khai mở toàn triệt. Không có gì có thể chứa đựng hoặc cản trở nó. Tất cả mọi mâu thuẫn đều được loại trừ. Khi tâm thấy biết, nó thấy biết chỉ Chân lý mà thôi. Khi nó thấy biết, nó chỉ thấy biết Chân lý. Đây là sự thanh tịnh chân chánh.

Mức độ thanh tịnh được kinh nghiệm ở nhiều lãnh vực khác nhau. Thiền định là một lãnh vực. Trong đại định, thân và tâm trí tư duy tạm thời biến mất từ sự hay biết. Tâm có vẻ rỗng rang, nhưng mức độ rỗng rang này giới hạn với thời gian tu tập định. Ở trình độ ban đầu của sự tu tập tuệ, tâm có thể vĩnh viễn tách lìa nó từ thân vật lý, nhưng tuy vậy nó không thể thoát khỏi mọi tập hợp yếu tố tinh thần cá thể: thọ, tưởng, hành , thức. Nó hoàn toàn rỗng rang không hình tướng, nên hình ảnh của thân không còn hiện ra nơi tâm, nhưng nó không hoàn toàn rỗng rang mọi khái niệm tinh thần. Khi đạt đến trình độ này, tuệ có thể phân biệt từ khối vật lý của thân, và tách rời mãi mãi từ niềm tin là thân là tự ngã. Nhưng tuy vậy nó vẫn không thể tách rời các yếu tố của thọ, tưởng, hành, và thức.

Khi khảo sát xa hơn, tâm trở nên tách lìa với các yếu tố tinh thần như vậy. Sau đó thì không gì còn lại ngoại trừ sự chiếu rọi tỏa khắp vũ trụ, bản thể chiếu sáng rực rỡ bất khả tư nghì, và tinh thần rỗng rang đến mức thậm thâm vi diệu và thâm thúy. Đây là quyền năng đáng kinh sợ của Chân Vô minh (avijjã). Qua cách không ngừng ứng dụng toàn triệt chánh niệm và tuệ giác, vô minh cuối cùng cũng được đoạn trừ trong tâm. Khi tất cả tỏa cùng khắp tâm được loại trừ, ta chứng được sự thanh tịnh toàn triệt. Sự thanh tịnh kinh nghiệm ở trình độ này hoàn toàn và vĩnh viễn không còn đòi hỏi nỗ lực duy trì nữa. Tâm thật sự hoàn toàn giải thoát.

Sự khác nhau giữa tánh thanh tịnh của tâm-vô minh (avijjã-citta) và tánh thanh tịnh của tâm thuần khiết, giải thoát vô minh có thể minh họa qua cách hình dung một người trong căn phòng trống. Đứng giữa phòng ngưỡng mộ sự trống rỗng, người đó quên mất mình. Thấy biết không có gì quanh họ trong căn phòng, họ chỉ phản chiếu sự rỗng không mà họ nhận thức, không tin sự thật là họ đang chiếm vị trí trong không gian đó. Miễn là còn có người trong căn phòng, nó không thật sự trống rỗng. Khi họ cuối cùng nhận thức là căn phòng không bao giờ có thể thật sự trống rỗng cho đến khi họ rời khỏi, đó là khoảnh khắc mà vô minh tan rã và tâm thuần khiết nẩy sinh. Một khi tâm buông xả hiện tượng như vậy, tâm thanh tịnh tối thượng, nhưng người ngưỡng mộ tánh thanh tịnh đó, người kinh dị trước tánh thanh tịnh đó là người vẫn còn sinh tồn.

Bản ngã là điểm truy cứu, vốn là cốt lõi của vô minh, vẫn còn liên kết với bản chất thấy biết của tâm. Đây mới thật là vô minh. “Ngã” của ta là chướng ngại thật sự trong giây phút đó. Khi nó tan rã và biến mất thì không còn chướng ngại nào nữa. Tất cả đều trống rỗng: Thế giới bên ngoài rỗng rang và nội tâm thì thanh tịnh. Như trường hợp của người trong căn phòng trống, chúng ta chỉ có thể thật sự nói rằng phòng đó trống khi người đó rời khỏi phòng. Tâm đã thấu suốt tất cả mọi hiện tượng vật chất bên ngoài và tất cả mọi hiện tượng vật chất liên kết với nó. Tâm này được xem là tuyệt đối thanh tịnh. Sự thanh tịnh chân chánh xảy ra khi mỗi dấu vết của thực tại quy ước đã biến mất từ tâm.

Sự dặp tắt vô minh không giống như tất cả mọi hiện tượng khác mà ta đã khảo sát đến điểm này. Sự dặp tắt của chúng đồng hành với sự thấu suốt rõ ràng và vững chắc của thật tánh. Đặc biệt, sự chiếu rọi của vô minh bị loại trừ ngay tức thì như ánh chớp của sấm sét. Trong một sát na nó tự sinh tự phát. Nó giống như lật ngược lại và hoàn toàn biến mất. Chỉ sau đó, khi sự chiếu rọi đó biến mất thì chúng ta mới thật sự biết nó là chân vô minh. Những gì còn lại hoàn toàn diệu kỳ và vô song. Bản chất của nó tuyệt đối thuần khiết. Mặc dù chưa bao giờ kinh nghiệm trước đó, không chút nghi ngờ khi nó hiển lộ ngay giây phút đó. Bất kỳ những gì gây hoài nghi đều dứt bặt với nó. Hoàn toàn trút bỏ mọi gánh nặng.

Tất cả mọi ảo tưởng của tự ngã, với bản tánh cốt lõi của ta ám chỉ đặc biệt đến sự vô minh chân chánh này. Nó biểu hiện rằng nó vẫn còn liên kết. Tất cả mọi khảo sát thành tựu vì nó. Bản ngã này là cái được biết; Bản ngã là cái được thấu suốt. Bản ngã này chiếu rọi ánh sáng và hạnh phúc. Cái “tôi” và “của tôi”… Chân vô minh nằm ở đó. Tất cả thành tựu vì nó. Một khi cuối cùng bị tan rã, quan điểm cá nhân cũng biến mất. Vẫn cần thành tựu nhiều việc, nhưng không phải vì bất kỳ ai cả.

Nó giống như cái lọ mà đáy đã không còn; bất kỳ bao nhiêu nước đổ vào vẫn không giữ lại một giọt nước nào cả. Khái niệm và vọng tưởng tiếp tục sinh và diệt đi như là một hoạt động tự nhiên của các uẩn, nhưng không có gì bám chặt vào tâm bởi vì con tàu chuyên chở nó… vô minh… đã bị hủy diệt. Một ý niệm khởi lên trong một sát na rồi diệt đi sát na tiếp đó. Khi không có gì để dung chứa chúng và không ai tự cho là chúng, ý niệm đơn thuần xuất hiện rồi tan biến ngay. Bản tâm thấy biết tánh thanh tịnh tuyệt đối của ngã hoàn toàn thỏa nguyện bên trong.

Bản tâm này tuyệt đối thanh tịnh, hoàn toàn trút bỏ mọi gánh nặng. Bản tánh chân thật của tâm bị che đậy khéo léo bởi vô minh đến mức chân tánh thậm thâm vi diệu, bất khả tư nghì của tâm chưa bao giờ được thấy. Cạm bẫy của vô minh quá khéo che đậy nên thiền nhân khi đạt đến trạng thái này thường dễ bị gạt. Họ hoàn toàn bị mê hoặc bởi cái họ tin là sự diệu kỳ của chân tâm. Họ yêu quí nó quá mức họ cảm thấy là phải bảo toàn nó và bảo vệ nó bằng mọi giá. Chủ yếu là, chúng thật sự là như vậy, ánh sáng chiếu diệu thuộc về chúng. Chân tâm là điểm truy cứu dung chứa nhiều hiện tượng tuyệt vời ẩn tàng trong nó… Điều này chúng ta không bao giờ tưởng tượng là có được. Những hiện tượng này ô nhiễm tâm cùng một cách như các hạt nhỏ của miếng mồi che dấu độc dược có thể sát hại một con vật. Khi khó thể khám phá thực tại khái niệm để tôi có thể so sánh những yếu tố ô nhiễm, ẩn tàng trong vô minh, tôi chỉ có thể giải thích tóm tắt mà thôi. Các yếu tố này bao gồm: Sự chiếu rọi của bản thể quá phi phàm nên nó có vẻ là một sản phẩm đã thành tựu. Một niềm an lạc vô biên ngoại biệt phát xuất từ quyền năng của ánh sáng chiếu rọi đó tỏa khắp tâm, xem ra siêu việt cả toàn cảnh giới của thực tại quy ước; một cảm giác uy nghi quyền năng cực kỳ mạnh mẽ đến mức xem ra không có gì có thể ảnh hưởng nó được; Sự dính mắc này được yêu quí và bởi vì với bản chất chiếu rọi này được xem như là vàng thật.

Tâmp-vô minh xem ra sở hữu tất cả mọi đức hạnh. Nó chiếu sáng, táo bạo, dung chứa vô cùng và phẩm chất thấy biết của nó xem ra vô giới hạn. Nhưng, mặc dù thấy biết tất cả vạn vật, bản chất thấy biết đó không thật biết nó. Đây là nền tảng vô minh của Chân vô minh. Một khi bản chất thấy biết quay trở về và quan sát tự thân của nó thì vô minh tan rã. Sự tan rã này, ngược lại, sẽ hiển lộ sự thật về tâm, sự thật về Pháp. Chỉ có vô minh lưu giữ sự thật này ẩn tàng từ tuệ kiến. Thiền nhân nào chưa thật sự tinh thông trong phạm trù trí tuệ sẽ khó tìm ra con đường thoát khỏi vô minh, bởi vì vô minh thông thường và Chân vô minh là hai hiện tượng khác nhau. Bản chất của vô minh bình thường bao gồm tất cả mọi khía cạnh của ảo tưởng, ngoài và trong thành sự ô nhiễm tinh thần. Nó có thể so sánh với cây, bao gồm lá, nhánh, ngọn và thân cây. Chân vô minh, ngược lại, giống như cây đã bị gẫy đổ và lột bỏ tất cả mọi nhánh cây của nó. Thông qua nỗ lực kiên cố, tuệ đoạn lìa sự phát triển mọi hoạt động của vô minh mỗi một lần để nó dần dần mất đi xu thế um tùm và đồng quy vào một chỗ… tâm . Ở điểm này, vô minh không còn nhóm hầu cận để nó có thể chỉ đạo mỗi khi nó nắm quyền. Ngay chỗ này, chúng ta khám phá ra Chân Vô minh.

Các nhánh của vô minh vô số và khác nhau. Tất cả mọi lậu hoặc tâm lý đơn thuần là nhánh và rễ của nó. Qua sự tập trung trên cành lá, chúng ta có xu hướng xem thường nguyên nhân cội rễ. Bởi hiện tượng này, khi chúng ta thật sự tìm đến vô minh chân chánh này, chúng ta bối rối và không nhận ra nó. Nó giống như lùm cây đang đâm chồi nẩy mộng ở một một nơi và mọc um tùm không biết đến nơi nào. Nó chỉ lẳng lặng bò sát và mọc lên cao, và càng nhiều cành tỏa ra dài hơn và dài hơn. Chúng ta phải nắm bắt lùm cây này và theo đuổi nó đến tận gốc rễ của nó cho đến nhánh chính. Đó là chỗ mà ta tìm thấy gốc. Khi chúng nhổ bật gốc thì toàn cả cây sẽ chết đi.

 

 

PHẦN II
 

A LA HÁN QUẢ

(ARAHATTAPHALA)
 

Rơi lệ trước sự diệu kỳ của giáo pháp


 

Bài pháp thoại của Hòa thượng Ãcariya Mahã Boowa được giảng vào lúc ngài đã 89 tuổi, vào ngày 2, tháng Năm, 2002.

Căn bản của sự chết chính xác ngay trong tâm, như sinh và tử cả hai đều hiện hữu trong nó. Chính tâm không bao giờ sinh không bao giờ diệt. Thay vì vậy, mọi ảnh hưởng của lậu hoặc thấm nhiễm và tỏa khắp tâm nắm giữ ta trong sự lặp đi lặp lại của vòng luân hồi sinh tử. Quý vị hiểu không? Hãy nhìn tâm. Nếu quí vị không thấy tính độc hại của tâm, quí vị sẽ không thấy tính độc hại của lậu hoặc. Ở giai đoạn tu tập cao hơn, chính sự mê hoặc chói lọi của tâm là mối nguy hại thật nên đừng nghĩ là tâm kỳ diệu và quí báu như thế nào, bởi vì sự nguy hiểm đang quẩn quanh ở đó. Nếu quí vị có thể thấy tâm từ góc độ này, quí vị sẽ thấy mối nguy hại đang chôn vùi trong nó. Quý vị hiểu ý của tôi chứ? Miễn là quý vị tiếp tục nắm giữ sự chói lọi của tâm và cực kỳ quý trọng nó, thì quí vị sẽ bị dính mắc và sẽ không lối thoát. Chỉ đơn giản như vậy. Đừng nói là tôi không cảnh báo quý vị. Khi đúng thời điểm, quý vị phải quét hết tất cả qua một bên cho đến khi không gì còn lại. Đừng bảo tồn gì cả. Bất kỳ cái gì quí vị không chạm đến… đó là Mối Hiểm Họa Tối Hậu nhất.

Đề cập đến vấn đề này khiến tôi nhớ lại thời gian tôi tu tập tại Wat Doi Dhammachedi. Vào một buổi sáng sớm, trước buổi ăn, lúc đó, tâm của tôi sở hữu một phẩm chất thậm thâm vi diệu vô cùng, thật ngoài sức tưởng tượng khi trong thấy nó. Tôi hoàn toàn kinh ngạc với chính mình. Tôi suy nghĩ, “Ôi chao! Tại sao tâm này chói lọi đến mức không ngờ được?” Tôi dừng lại ngay lộ trình thiền của mình và quán xét tính chất rực rỡ, kinh ngạc trước vẻ diệu kỳ của nó. Nhưng, trên thực tế, chính sự chói sáng rực rỡ mà tôi thấy là kỳ diệu biểu hiện một mối NGUY HIỂM TỐI HẬU. Quý vị có hiểu ý tôi không?

Chúng ta có xu hướng mê đắm bản tâm chói lọi này. Thực ra, tôi bị mê hoặc và đã bị nó gạt rồi. Quý vị thấy không? Khi không gì còn lại, ta tập trung trên điểm cuối cùng của sự chú tâm, vốn là trung tâm của vòng quay bất diệt của luân hồi sinh tử, thật sự biến hiện quy ước của sự vô minh nền tảng mà chúng ta gọi là avijjã. Điểm tập trung này là trạng thái cao tột nhất của avijjã, đỉnh tột bực của tâm trong thế giới Ta Bà (saÿsãra). Bởi vì không có gì còn lại ở giai đoạn đó, tôi đơn thuần ngưỡng mộ sự chói lọi vô lượng đó của vô minh (avijjã). Tuy vậy, sự chói lọi đó sở hữu một điểm chính. Nó có thể so sánh với tim đèn. Tâm đèn chiếu sáng rực rỡ và ánh sáng tỏa ra chiếu rọi khu vực chung quanh. Đó là sự quan tâm chính, cái nhân đó quá kỳ diệu khiến tôi phải kinh ngạc và sau đó khiến tôi phải thắc mắc, “Tại sao tâm lại chói lọi rực rỡ đến như vậy?” Xem ra nó đã hoàn toàn chuyển hoá thế giới trần tục (saysara). “Hãy nhìn kìa!” Thật là một quyền năng bất khả tư nghì mà tâm hiển lộ khi chúng ta đạt đến trạng thái cuối cùng của sự tu tập. Tuy vậy, tôi vẫn chưa nhận thức rằng tôi đã bị rơi vào sự dối trá của vô minh.

Sau đó, đột nhiên, một cách tự sinh tánh tự phát, cách ngôn của Pháp khởi lên, như là có ai đang nói trong tâm. Tôi không bao giờ có thể quên được. Nếu có một điểm hoặc trung tâm của người biết bất kỳ nơi nào thì đó là hạt nhân của sự sống. Giống như trung tâm chiếu rọi trên tim đèn. Hãy nhìn kìa! Nó cho biết chính xác những gì mà tôi cần được biết; Chính điểm đó là cốt lõi của sự sống. Nhưng ngay cả sau đó, tôi không thể nắm bắt được ý nghĩa. Tôi kinh ngạc. Một điểm trụ, một trung tâm… Trọng tâm của sự chiếu sáng.

Tôi bắt đầu khảo sát “điểm” đó sau khi Hòa thượng Ãcariya Mun thị tịch. Nếu có một điểm hoặc một trung tâm của người biết bất kỳ nơi nào thì đó là hạt nhân của sự sống. Nếu ngài vẫn còn tại thế, sự bối rối của tôi sẽ lập tức khêu gợi câu giải đáp từ ngài. Đó là trọng tâm của sự chói lọi! Và sau đó, điểm đó tức thì tan rã. Một khi tôi thấu hiểu được ý nghĩa của nó, tôi cũng biết được tính nguy hại của nó khiến nó biến mất. Tuy vậy, tôi vẫn cẩn thận bảo vệ và giữ gìn nó.

Sự Nguy Hiểm Tối Hậu, rồi thì nằm ngay đó. Điểm của sự Nguy Hiểm Cuối Cùng là cốt lõi của ánh sáng rực rỡ đã tạo ra cả thế giới thực tại quy ước.

Tôi sẽ luôn nhớ đến. Vào tháng Hai, pháp thân của Hòa thượng Ãcariya Mun đã được hỏa thiêu, và tôi đi vào núi. Nơi đó, tôi bị mắc cứng trên vấn đề này. Nó hoàn toàn khiến tôi phải kinh ngạc. Cuối cùng, tôi không gặt hái được lợi lạc gì từ lời pháp Dhamma khởi lên trong trái tim tôi. Thay vì là một ân huệ lớn lao cho tôi, nó trở thành một phần của cùng một ảo tưởng kinh khủng đó đã gây tai họa cho tôi. Tôi đã bối rối, “Nó ở đâu, điểm này?” Dĩ nhiên, chỉ điểm chiếu rọi đó, nhưng không bao giờ xảy ra với tôi là trung tâm của cái tâm chói lọi đó có thể sự NGUY HIỂM CUỐI CÙNG đó. Tuy vậy, tôi vẫn cho nó là MẶC HẠNH VÔ THƯỢNG. Đây là cách phiền não dối gạt chúng ta. Mặc dù tôi đã được cảnh báo đó là sự NGUY HIỂM CUỐI CÙNG, nó vẫn mê hoặc tôi, khiến tôi nhìn thấy nó như là một MẶC HẠNH VÔ THƯỢNG. Tôi sẽ không bao giờ quên được sự tiến thoái lưỡng nan đó đè nặng trên tôi như thế nào.

Cuối cùng to rời bỏ Wat Doi Dhammachedi và tìm đến Sr Chiang Mai tại Quận Ban Pheu. Tôi sống ở đó chừng ba tháng, sâu trong rừng trong hang động Pha Dak, trước khi trở về với sự huyền bí đó vẫn còn đè nặng trên tâm trí tôi. Sau đó, khi đang cư ngụ trên một đỉnh núi ớ đó, vấn đề cuối cùng được giải quyết.

Khi khoảnh khắc quyết định đã đến, vấn đề thời gian và nơi chốn không còn quan hệ nữa. Chúng đơn thuần không can thiệp. tất cả đều biến mất dưới ánh sáng lộng lẫy huy hoàng chói lọi của tâm. Tôi đã đạt đến giai đoạn mà không có gì còn lại cho tôi khảo sát nữa. Tôi đã buông xả tất cả rồi… chỉ có ánh sáng chiếu rọi đó là còn lại. Ngoại trừ trọng tâm của ánh sáng rực rỡ của tâm, cả vũ trụ pháp giới chắc chắn là buông xả. Quí vị có hiểu ý của tôi không? Rằng điểm đó tức là sự NGUY HIỂM CUỐI CÙNG hay không?

Ở giai đoạn đó, Đại Chánh niệm và Đại Trí Tuệ đồng quy ở trọng tâm của tâm, tập trung mọi năng lực của toàn bộ sự khảo sát trên điểm này. Tôi đạt đến giai đoạn chỗ mà tôi thắc mắc là tại sao một tâm lại có quá nhiều khía cạnh. Tôi có thể nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng mỗi một khía cạnh của tâm đều được biết, và mỗi khía cạnh được biết chắc chắn là thay đổi. Một khi nó được nắm bắt rồi thì nó thay đổi. Một khía cạnh là tốt, còn khía cạnh kia là xấu. Sự khảo sát tập trung trên điểm đó, phân tích tất cả và nỗ lực thấu hiểu, “Tại sao một tâm như vậy lại sở hữu quá nhiều khía cạnh khác nhau? Như là nó không hợp nhất. “ Dù là khía cạnh nào của tâm dưới sự khảo sát, tất cả mọi mặt của tâm có thể thay đổi thấu suốt rõ ràng tùy theo tính chất vi tế thâm thúy của trình độ tu hành nơi mà Đại Chánh Niệm và Đại Trí Tuệ cùng làm việc với nhau. Tổng hợp lại, hai năng lực này có thể theo đuổi tất cả mọi sự thay đổi của tâm mặc dù vi tế như thế nào đi nữa. Sát na này nó rực chiếu, sát na tiếp tới nó bị lu mờ. “Tại sao tâm này sở hữu quá nhiều mặt? Sự thay đổi đến từ bên trong. Thấy không? Tôi bắt đầu có thể theo đuổi được nó. Khoảnh khắc này là lạc (sukha), khoảnh khắc tới là khổ (dukkha)”.

Trong cảnh giới của thực tại quy ước, các duyên rõ ràng là một phần chính yếu của tâm. Không còn gì để khảo sát nữa, Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ tập trung trực tiếp trên điểm mà sự thay đổi xảy ra. Giây phút này ở đó là lạc, giây phút tới nó là khổ. Giây phút này nó rực rỡ chiếu sáng, giây phút tới nó hơi tối tăm. Nhưng quý vị phải hiểu sự thay đổi từ lạc đến khổ hoặc từ sự chiếu rọi rực rỡ đến tối tăm, vi tế đến mức khó mà nhận rõ được. Tuy nhiên, Đại Chánh niệm lúc nào cũng truy sát nó ở tất cả mọi thời. “Tại sao tâm có quá nhiều thay đổi?” Ngay điểm gay go đó, chánh niệm buông bỏ tất cả mọi thứ khác và quay sự chú ý của nó ngay kẻ khả nghi trọng yếu này. Mỗi một khía cạnh của sự khảo sát đồng quy về tâm vào tất cả đều tương quan lẫn nhau. Ở cấp độ tột bực nhất, Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ cực kỳ vi tế đến mức chúng tỏa khắp và xuyên thấu tất cả không ngược lại. Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ ở điểm tột bực này khác với chánh niệm và trí tuệ tự động thường được ứng dụng để đạt đến giai đoạn cuối cùng. Chánh niệm và trí tuệ tự động cùng làm việc mà không cần phải thúc đẩy. Chúng khảo sát tất cả các pháp trong những giai đoạn tiếp theo, chặt đứt chúng thành từng mảnh, từng phần một. Ở điểm tột bực này, Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ đồng làm việc với nhau mà không cần thúc đẩy, nhưng chúng đồng thời tỏa khắp tất cả.

Ngay lúc đó, chúng quán xét điểm trọng tâm của tâm. Tất cả mọi pháp khác được xem xét là loại trừ. Ở đó chỉ còn lại một điểm nhỏ nhoi của “tánh biết” này. Nó trở nên hiển nhiên là cả lạc lẫn khổ được phát hành từ nguồn cội đó. Tính chiếu rọi và tối tăm… Sự khác nhau khởi lên cùng một nguồn gốc. Tại sao chỉ có một tâm mà sở hữu vô số đặc tính?

Sau đó, tức thì, Pháp giải đáp hoài nghi đó. Tức thì… chỉ như vậy! Kinh nghiệm này được gọi là “Pháp khởi lên qua tâm trí.” Phiền não phát khởi trong tâm là những năng lực ràng buộc chúng ta. Pháp (Dhamma) khởi lên qua tâm trí khai phóng chúng ta khỏi tất cả mọi ràng buộc. Pháp đột ngột khởi lên một cách không ngờ được, mặc dù nó là âm thanh nội tại. Dù nó tối tăm hoặc sáng chói, lạc hay khổ, tất cả mọi nhị nguyên đó là ngã (anattã). Nơi đó! Tối hậu, vô ngã đã đoạn lìa tất cả tức thì, tuệ kiến xác quyết cuối cùng có thể sanh khởi như bất kỳ Tam Pháp Ấn (ti-lakkhaõa), tùy thuộc vào cá tánh và khí chất của thiền nhân. Nhưng theo cá nhân tôi thì nó là vô ngã (anattã). Ý nghĩa khá rõ ràng. Buông xả tất cả. Tất cả đều là anattã.

Đột nhiên, trong sự thấu suốt tất cả mọi khía cạnh khác nhau đó, tính tối tăm, tính chiếu rọi, lạc và khổ… tất cả đều vô ngã, tâm tuyệt đối tĩnh lặng. Cuối cùng kết luận tất cả đều là vô ngã, nó không còn chỗ để chuyển động, nó yên nghỉ… thụ động, vắng lặng, trong trình độ của Dhamma. Nó không còn hứng thú ngã hoặc vô ngã nữa, không còn hứng thú lạc hay khổ, sáng chói hoặc tối tăm. Tâm ngự ở trung tâm, trung lập và tĩnh mịch. Nhưng nó tịch động với Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ, không tịch động một cách trống rỗng, không kẻ hở. Nói theo định nghĩa thế gian, nó không chú ý, nhưng trong thực tế, nó hoàn toàn ý thức. Tâm đơn thuần trong trạng thái bất động, vắng lặng.

Rồi thì, từ trạng thái thụ động, trung lập đó của tâm, hạt nhân của sự sống… cốt lõi của người biết … bỗng nhiên tách rời và rơi rụng. Cuối cùng giảm thiểu thành vô ngã, tính chiếu sáng và tối tăm đó và tất cả mọi pháp khác hốt nhiên tách lìa ra từng mảnh và bị hủy diệt tất cả và tức thì.

Trong khoảnh khắc đó, khi vô minh lật ngữa và rơi xuống từ tâm, bầu trời xem ra như sụp đổ, toàn vũ trụ vạn pháp rúng động. Sự thật, chính là vô minh, nguyên nhân khiến ta phải lang thang không ngừng trong cõi Ta bà. Do vậy, khi vô minh lìa khỏi tâm và tan biến, xem ra như cả vũ trụ rơi rụng và biến mất cùng với nó. Đất trời cùng sụp đổ tức thì. Quý vị hiểu không? Không ai phán quyết ngay giây phút quyết liệt đó. Nguyên lý tự nhiên tự nó khởi lên và tự nó phán quyết. Phát xuất từ trạng thái trung dung của tâm, tất cả mọi diễn tiến xảy ra một cách đột ngột. Trong một sát na toàn cả vũ trụ vạn hữu xem ra lật ngược lại và biến mất. Mầu nhiệm vô cùng! Ôi chao! Thật sự và thật sự kỳ diệu! Quá phi phàm để có thể thốt nên thành lời. Bản chất của Pháp (Dhamma) thật là bất khả tư nghì mà tôi đang giảng thuyết bây giờ.

Những dòng lệ tuôn trào khi tôi kinh nghiệm được nó. Hãy nhìn con người tôi ngay hiện tại! Ngay cả đôi dòng lệ của tôi tuôn chảy khi tưởng nhớ đến sự kiện đó. Đôi dòng lệ này là tạo tác của ngũ uẩn. Xin làm ơn hiểu là chúng không hiện hữu trong trạng thái thuần khiết đang hiển lộ trong khoảnh khắc đó. Trạng thái tự nhiên đó xảy ra một cách đột ngột, trong tất cả sự lộng lẫy bất khả tư nghì của nó. Tôi muốn tất cả quý vị người đang quá tự mãn hãy nhận thức rằng Pháp của Đức Phật thật sự như là. Ôi chao! Quá kỳ diệu! Quá thậm thâm vi diệu! Ôi chao! Đôi dòng lệ tuôn trào trên khuôn mặt tôi! Hoàn toàn bất ngờ, tôi thốt lên, “ Đức Phật đã chứng ngộ như thế hay sao? Có phải Thực tánh Pháp là như vậy?” Nó là một hiện tượng mà tôi chưa bao giờ có thể nhận thức hoặc tưởng tượng được. Nó đơn thuần khởi lên, không dự đoán được, tức thì. Ồ! Huy hoàng đến mức bất khả thuyết! Hãy nhìn tôi! Ngay cả bây giờ tôi cũng đang rơi lụy khi tôi nhớ đến nó vi diệu làm sao. Ký ức đó vẫn còn tươi mát trong tâm trí tôi. Nó vẫn tồn tại với tôi ngay từ lúc đó.

Toàn châu thân tôi rúng động ngay khoảnh khắc đó. Thật khó có thể giải thích được. Tất cả đều diễn ra ngay trong một sát na. Bầu trời như sụp đổ xuống và thế gian hoàn toàn biến mất. Ngay lúc đó, tôi không ngừng lặp đi lặp lại, “Cái gì? Đức Phật đã đạt đạo như vậy hay sao?” Nhưng thật sự không cần thiết hỏi như vậy bởi vì chính tôi đang trực diện Chân lý. “Chân Pháp là như thế? Có phải Chân Tăng là như thế?” Tất cả Tam Bảo đều đồng hợp, thể nhập vào Dhama bất khả tư nghì và Vô thượng… cái mà tôi gọi là nguyên tố Dhamma. “Cái gì? Làm sao Phật, Pháp và tăng trở thành một và là một?” Tôi không bao giờ tưởng tượng được là điều đó có thể.

“Phật là Phật. Pháp là Pháp. Tăng là Tăng.” Kinh nghiệm này đã gây ấn tượng trong tâm tôi khi tôi vừa đủ lớn để thấu hiểu những vấn đề như vậy . Nhưng ở giây phút đó khi Pháp Vô thượng khởi lên trong tất cả sự huy hoàng vi diệu của nó, tất cả đều là một và cùng một bản chất… thực tánh Pháp (Dhmma) kỳ diệu. Một khi nó khởi lên trong tất cả sự mầu nhiệm của nó, vạn pháp ẩn tàng trong mờ mịt tối tăm, vạn pháp mà tôi chưa bao giờ biết trước đó, hốt nhiên hiển lộ và chiếu rọi rực rỡ. Tôi không đang thêu dệt ảo tưởng để lừa gạt mọi người. Ngay cả bây giờ, dòng vận hành của Dhamma bất khả tư nghì đó vẫn khiến tôi kinh ngạc. Trong tất cả sự bao trùm của nó, hào quang chiếu rực soi sáng toàn cả vũ trụ pháp giới, hiển lộ tất cả. Không có gì ẩn tàng hoặc che dấu.

Sau đó thì tất cả mọi kết quả của thiện và ác và sự hiện hữu của cõi thiên và địa ngục đập vào ta với một năng lực không thể bác bỏ được của pháp hiển lộ. Tôi ước gì nó có thể đập vào tất cả những người còn đang hoài nghi với một năng lực như vậy. Tất cả quý vị đã cho phép lậu hoặc dối gạt quý vị để quý vị tin là không có sự việc như là mọi hệ quả của ác, không có các hệ quả như là thiện, không có hệ quả như là Thiên giới và địa ngục. Chúng hiện hữu từ hằng vô lượng kiếp và chúng đang tỏa khắp. Quí vị chỉ chưa nhận thức chúng mà thôi. Các pháp đều luôn có mặt. Chúng không ngừng gây hại cho những kẻ ngu si vô minh trong sự sống của họ và bị sự dối trá của lậu hoặc che phủ đến nỗi họ không bao giờ thấy được tia chớp của Chân lý.

CÓ GÌ CÓ THỂ NÓNG CHÁY hơn ngọn lửa địa ngục? Theo tính quy ước thì năm ngọn lửa bừng cháy của địa ngục tương ứng với chúng. Năm trọng tội là: Giết cha giết mẹ, sát hại bậc A La Hán, tổn hại pháp thân của một vị Phật và hoạt động tích cực phân ly tăng đoàn. Và tất cả đều trở nên rõ ràng hiển nhiên ngay khoảnh khắc đại ngộ đó. Sau đó thì không cần phải hỏi là Thiên giới địa ngục ở đâu nữa. Đức Phật không nói dối. Những hiện tượng này cũng rõ ràng như vậy với Đức Phật, và ngài đã mô tả chúng như ngài đã thấy chúng.

À! Pháp Vô thượng lạ lùng và mầu nhiệm siêu vượt trên đức tin. Nó bao trùm hoàn toàn tất cả trong tâm trí. Khi chứng cớ quá rõ rệt, không cần phải truy cứu xa hơn phải không?? Sự thấu suốt tỏ tường này hoàn toàn hài hoà với tâm trí, nên không cần thiết để đặt câu hỏi nữa.

Sau này, tôi quay sự chú ý của tôi để khảo sát các kiếp quá khứ của tôi. Thật là kinh khủng khi tư duy biết bao nhiêu lần tôi đã sinh ra và chết đi. Biết bao nhiêu lần tôi tái sinh trong cõi địa ngục và biết bao nhiêu lần trên các cõi Phạm thiên, chỉ để rồi lại tiếp tục rơi xuống cõi địa ngục lần nữa. Có vẻ như là tâm leo lên rồi rớt xuống một số chuỗi cầu thang. Nhưng tâm tự chính nó thì không bao giờ chết cả. Quý vị hiểu không? Tâm không bao giờ chết. Nghiệp quả chôn vùi trong tâm. Thiện quả hướng tâm lên các tầng Thiên giới và các cảnh giới Phạm thiên. Sau đó, khi mà thiện quả cạn kiệt, ác quả nằm sâu sẽ trỗi dậy và lôi kéo tâm xuống các cảnh địa ngục, như là tâm leo lên thang và xuống nhiều bậc thang. Quý vị hiểu không? Đây là lộ trình như vậy, nên hãy tỉnh giác và chú ý.

Hôm nay tôi đã chia sẻ tất cả… đến mức đôi dòng lệ phải rưng rơi để tất cả các vị có thể thấy được. Có phải đây là sự điên loạn hay là mặc hạnh? Hãy suy nghĩ về nó. Hãy lắng nghe Pháp bảo một cách cẩn thận mà tôi đang giảng dạy cho thế gian. Tôi có thể nói một cách rõ ràng là: Tâm không dũng cảm và nó vô úy. Nó hoàn toàn siêu vượt trên mọi cảm xúc như vậy. Cho nên, tôi quay sự chú ý của tôi khảo sát những kiếp quá khứ của tôi. Chao ôi! Tử thi của một cá nhân có thể trải ra cùng khắp Thái Lan thì sẽ không còn một chỗ trống nào nữa. Chỉ một cá nhân mà thôi! Tưởng tượng bao nhiêu thời gian dành cho sinh và tử. Quá nhiều, hằng vô lượng kiếp và hằng vô lượng kiếp để có thể đếm được. Tư duy của tôi cũng trải rộng đến hằng hà sa số xác chết của mỗi một con người trên thế gian này. Mỗi và một tâm của mỗi chúng sinh chính xác cùng một lịch sử sinh và tử lặp đi lặp lại. Mỗi một chúng sinh đều bình đẳng trong hiện tượng này. Ngược lại thời gian vô tận, mỗi một kiếp quá khứ của một chúng sinh dày đặc với hằng hà sa số xác chết. Đó là một quanh cảnh khó mà chịu đựng nỗi.

Cuối cùng, tôi cảm thấy kinh tởm khi tôi quán sát những kiếp quá khứ của tôi. Chao ôi! Đã tái sinh hằng hà sa số kiếp, tôi vẫn vật lộn không ngừng, để lạ được tái sinh và tái sinh lại. Nếu Dhamma không cuối cùng phán quyết thì tôi sẽ vẫn tiếp tục như vậy trong vô hạn. Tôi khảo sát bằng cách đó, quán xét bản chất của thế gian và tôi càng làm như vậy thì lại càng khó mà chịu đựng được. Tôi thấy tình trạng như vậy khắp nơi. Mỗi một chúng sinh trong toàn cõi vũ trụ pháp giới đều bị dính mắc cùng trong một vòng quay kinh khủng đó. Trong hiện tượng này, tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng.

Sau đó, một cảm giác thất vọng khởi lên không kịp cảnh báo trong tâm tôi. Tôi suy nghĩ, “Làm sao tôi có thể giảng giáo pháp (Dhamma) này đến mọi người? Giảng dạy để làm gì? Vì Chánh pháp là như vậy, làm sao có thể biểu hiện để tất cả mọi chúng sinh sẽ có thể nhận biết và thấu hiểu được? Tốt nhất tôi nên sống hết cuộc đời tôi và sau đó thì đơn thuần lãng quên?” Quý vị thấy không? Tôi cảm thấy chán nãn, không hứng thú để giảng dạy. Như là, khi tìm được lộ trình giải thoát, tôi hài lòng giải thoát một mình. Tôi có thể thấy tôi không gặt hái được lợi lạc gì khi giảng dạy Dhamma cho mọi người. Tôi đã cân nhắc vấn đề như thế nào trước đó. Nhưng vẫn chưa xong. Diễn ra một cách tánh tự phát trong trái tim tôi, sự phản chiếu của tôi trên vấn đề này tiếp tục phát triển trong nhiều giai đoạn.

Nhìn trạng thái của thế gian, tôi cảm thấy thất vọng. Tôi thấy mọi người chìm đắm hoàn toàn trong bóng tối qua sự tuyệt vọng. Bị che mù nên họ không xứng đáng. Đức Phật gọi những người như vậy là người mặc dầu đã gặp Phật Pháp và đã hết sức cố gắng học hỏi và thực hành Giáo Pháp nhưng không thể thành đạt Thánh Đạo và Thánh Quả trong kiếp sống hiện tiền. (Padaparama). Nhìn cao hơn qua cấp độ, tôi thấy có nhiều loại người như người cần phài được dắt dẫn, được chở đi v.v... hàm ý là người cần phải được dạy dỗ, là người không thể thành đạt Đạo và Quả sau khi nghe bài kinh vắn tắt và rành mạch (Neyya) và người thấu hiểu sau khi được nghe giải thích cặn kẽ, là người không có khả năng thành đạt Đạo và quả tức khắc sau khi chỉ nghe suông một lời dạy vắn tắt và rành mạch nhưng, nếu được giải thích dông dài và cặn kẽ thì sẽ chứng ngộ Đạo Quả (Vipacitaññý). Người thuộc phân loại trong Neyya có thể được dạy dỗ trên lộ trình của Dhamma. Có lúc họ tiến triển, có lúc họ bị sa sút. Những cá thể Neyya có khả năng thấu hiểu lời dạy rõ ràng và có thể tu tập. Nhưng nếu không nhiệt tâm, họ sẽ mất hết khả năng. Nhưng nếu họ nhiệt tâm trong sự tu tập của họ, họ có thể tiến triển rất nhanh. Tùy thuộc vào mức độ cam kết Neyya có thể rơi vào hai lộ trình đó.

Những cá thể luôn luôn tiến triển hướng đến mục tiêu. Họ không bao giờ sa sút cả. Tuy vậy, sự tiến triển của họ chậm hơn Ugghaåitaññý, những cá thể người mà tuệ giác sắc bén đến mức họ luôn hoàn toàn chuẩn bị để quyết tâm đạt đạo quả tức khắc. Dù họ là loài vật, họ cũng sẵn sàng chờ đợi ngay cổng chuồng, khi cổng chuồng mở ra, chúng lập tức chạy ra ngay. Ugghaåitaññý có khả năng thấu hiểu tức khắc để có thể cho phép họ siêu vượt trên tuệ kiến trong một sát na.

Tất cả mọi chúng sinh chắc chắn là nằm trong bốn phân loại này. Khi tôi khảo sát bản chất thế gian, nó riêng rẽ một cách tự nhiên theo sự hòa hợp của nó thành bốn phân loại này. Tôi có thể thấy được những cá thể siêu vượt hơn tồn tại trong hằng hà sa số của nhân loại mà tôi cảm thấy chán nản không muốn giảng dạy chánh pháp. Ugghaåitaññý: Họ chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua tức thì. Theo từng cấp độ thấp hơn, có Vipacitaññý, người có thể tiến triển thật nhanh hướng đến mục tiêu. Sau đó là Neyya, người muốn được nằm xuống và dễ dàng thách đố sự ham muốn của họ để có thể tinh tấn trên đạo lộ. Quý vị có hiểu ý của tôi không? Hai lực lượng đối lập này đang ganh đua ưu thế trong trái tim của họ. Và cuối cùng là Padaparama: Người chỉ có hình tướng con người mà thôi. Họ không gặt hái được lợi lạc gì cả để có thể cải thiện tương lai của họ. Cái chết của người như vậy là cái chết chẳng chút khác biệt gì. Chỉ có một con đường có thể cho họ mà thôi… đi xuống. Và họ sẽ rơi xuống và rơi xuống xa hơn sau mỗi cái chết kế tiếp. Lộ trình đi lên bị ngăn chặn, bởi vì họ chẳng gặt hái được gì để mang theo với họ. Họ chỉ có thể đi xuống mà thôi. Hãy nhớ kỷ điều này! Lời dạy này phát xuất tự tận đáy tâm tôi. Quý vị nghĩ là tôi đang tự thổi phồng và cố ý nói lời giả dối hay sao?

Khi so sánh trái tim của bậc đã tuyệt đối thanh tịnh, thế gian là một cái thùng chứa rác khổng lồ, dung chứa nhiều thứ rác rưởi khác nhau. Từ cấp độ cao nhất, Ugghaåitaññý, đến cấp độ thấp nhất và thông thường nhất, Dadaparama, tất cả các cấp độ khác đều cùng tập trung ở một chỗ chứa lớn. Cả thế gian của thực tại quy ước này là một nơi dung chứa đủ thứ ô nhiễm lẫn lộn thiện và ác. Quý vị hiểu không? Qua sự quán xét của tôi, tôi sàng sẩy đống rác khổng lồ này và khám phá bốn cấp độ chúng sinh,

Từ sự quán xét đó, một nhận thức khởi lên, đối đầu với sự chán nản khiến tôi phải do dự dạy dỗ mọi người pháp lộ. Một cảm hứng bỗng nhiên khởi lên trong tâm, “Nếu Dhamma tối thắng như vậy, quá siêu việt đến mức không ai có thể không ai có thể thấu hiểu được nó, thì tôi là bản thể thiêng liêng gì? Còn tôi thì sao? Tôi đã đạt đến nhận thức Pháp bảo như thế nào? Lý do gì? Cái gì đã mang đến nhận thức này? Khi tôi cân nhắc nguyên nhân, mọi tư tưởng của tôi tập trung trên hành trình tu tập đã đưa tôi đến sự giải thoát. Cùng một Đạo lộ mà Đức Phật đã dạy qua: Bố thí (Dãna), Giới (Sïla), Thiền (Bãvanã). Đây là con đường đã hướng tôi đến điểm đó. Không còn cách nào để đạt đến nó. Duyệt lại sự tu tập trước kia của tôi, tôi thừa nhận là cùng một lộ trình đã hướng mọi người khác đến giải thoát. Có lẽ hiếm hoi chỉ một vài người, nhưng chắc chắn là có một vài người có thể thành tựu được. Tôi không thể chối bỏ điều đó. Với ý thức là điều này sẽ đem lại lợi lạc ít nhất một vài người khuyến khích tôi bắt đầu giảng dạy Giáo pháp cho người xứng đáng được dạy.

Sau đó, các tu sĩ bắt đầu tụ tập quanh tôi trong rừng và nói nơi tôi sống, và tôi dạy họ phải kiên quyết trong sự tu tập của họ. Dần dần, từng bước một, lời pháp của tôi bắt đầu thịnh hành, cho đến hiện thời nó kéo dài và trãi rộng ra. Bây giờ, người ở Thái Lan và cùng khắp thế gian đến để nghe Đạo sư Mahã Boowa thuyết pháp. Có người du hành đến nơi này để nghe tôi trực tiếp. Có người nghe qua máy thu âm pháp thoại của tôi được phát thanh suốt quốc gia Thái lan trên đài ra dio và mạng lưới toàn cầu.

Tôi có thể quả quyết với quí vị là Giáo pháp mà tôi đang giảng dạy không xa rời với các nguyên lý của Chân lý mà tự thân tôi đã chứng ngộ. Các vị hiểu tôi nói không? Đức Phật giảng dạy cùng một thông điệp mà tôi đang truyền đạt đến các vị. Khi thốt lên những lời này, tôi muốn kêu lên, Lành thay (Sadhu)!

Mặc dù tôi chỉ là một con chuột nếu so sánh với Đức Phật, sự chứng thực của giác ngộ nằm ngay ở đây trong trái tim tôi. Tất cả nghĩa gì mà tôi hoàn toàn nhận thức nằm trong tự thân của tôi đồng quy với lời dạy của Đức Phật. Không có bất kỳ những gì mà tôi chứng ngộ mâu thuẫn với Đức Phật. Lời pháp mà tôi khai thị nơi đây dựa trên cùng một nguyên lý sự thật mà tôi đã từ lâu toàn tâm tri nhận. Vì lý do đó tại sao tôi dạy dỗ mọi người với sự hăng hái như vậy khi tôi tỏ bầy giáo pháp cho cả quốc gia Thái Lan.

Nói theo tính quy ước, tôi thuyết pháp một cách táo bạo như là tôi là một anh hùng đã chiến thắng. Nhưng Pháp tối thắng (Dhamma) trong trái tim tôi không táo bạo hoặc đầy sợ hãi. Không được không mất, không thắng không bại. Cuối cùng, lời dạy của tôi phát xuất từ lòng từ bi thuần khiết vô nhiễm. Thí dụ, nếu tôi thấy đàn chó cắn lộn nhau, tôi sẽ kéo chúng ra và ngăn chặn chúng không cho chúng cắn lộn lẫn nhau. Tôi không hứng thú ai thắng ai thua. Chỉ có đàn chó đó mới lo đến điều đó mà thôi. Chúng đang cắn lộn nhau nên chúng bị đau đớn. Tôi chỉ đơn giản nắm chúng và tách rời chúng ra để chúng không còn cắn lộn nhau nữa. Đó là thực tánh Pháp. Dhamma nỗ lực tách rời những người luôn luôn tranh cãi nhau, tranh đấu với nhau ai đúng ai sai.

Điều này giống nhau với lời dạy của tôi vào thời hiện tại của Thái lan. Sự so sánh này là đúng đắn. Hãy để Pháp tự nó giảng thuyết. Vào lúc này, tôi làm việc rất tích cực với thế gian. Không ai tích cực hơn Ãcariya Mahã Boowa. Ý của tôi là tôi luôn tìm cách tách rời đàn chó của thế giới này để chúng không còn cắn lộn nhau nữa.

Và thời đại này, cả Phật tử và tu sĩ hành xử như những con chó vậy, xô đẩy nhau để tới trước và sủa rộn ràng khi họ tranh đấu nhau vì danh lợi. Cho nên, tôi dạy họ Chánh pháp vốn cũng tương đương với sự tách rời và đem lại bình yên giữa những con chó đang cắn lộn nhau.

Dhamma đại diện cho Chân lý. Nếu chúng ta từ bỏ tất cả mọi huyễn giả và chỉ nắm bắt những gì là thật thì cả hai loại người trong xã hội chúng ta, Phật tử và tu sĩ hộ trì giáo phái của Đức Phật sẽ sống trong sự an lạc. Nhưng trừ khi tất cả mọi con chó… thiện và ác… đang cắn lộn nhau trong hiện thời, cả quốc gia đều bị khủng hoảng. Giáo huấn của Đức Phật (Buddhasãsana) xem tâm địa chúng sinh là một trường sân khấu. Cả võ đài này bây giờ bị chia cắt và đang đuổi nhau tán loạn bởi vì những con chó này đang lập thành một trường tranh đấu trong một khu vực thiêng liêng nhất của tất cả dân tộc Thái lan… Giáo huấn của Đức Phật… (the Buddhasãsana).

Cho nên, tôi khuyên tất cả nên chấm dứt và ngừng lại bởi vì không gặt hái được lợi lộc gì khi họ đánh nhau như chó vậy. Trên thực tế, không có người chiến thắng, chỉ có kẻ thất bại mà thôi. Cả hai bên, người thắng kẻ thua đều cùng thương tổn như nhau. Cho nên, hãy rời nhau, lùi lại và hãy chấp nhận lý trí như nguyên lý hướng dẫn cho quý vị. Qua cách đó, Thái lan, dân chúng của nó và thế giới Ta bà này sẽ được an lành hạnh phúc. Không có hiểm họa nào sẽ xảy ra cho quốc gia này.

Kẻ nhe răng của họ ra và khoác lác rằng họ là kẻ vô địch vì sự công bằng, không ngược lại, cũng đã bị thất bại nặng nề. Không ai đúng cả, bởi vì tranh biện luôn sai. Chỉ như hai kẻ đô vật đấm đá nhau trên vỏ đài, cả người thắng lẫn người thua đều bị bầm dập tơi tả. Ai có thể tự hào như thế được?

Không có gì có thể khoác lác cả. Tranh luận trưởng dưỡng lòng hận thù và sự ganh ghét trong cả hai phái. Nó trở thành trận chiến khái niệm và quan điểm, một thử thách để đánh bóng chính mình bị hạ cấp xuống thành một trận võ mồm khi mà không ai chịu nghe lý lẽ. Những con chó như vậy đã khiến toàn cả Thái land trở thành chiến trường của họ và nếu họ tiếp tục, chắc chắn quốc gia này sẽ suy tàn đổ nát.

Tôi muốn tất cả mọi người trong tất cả mọi đảng phái hãy suy nghĩ lời tôi nó. Hết lòng thành khẩn, tôi chỉ đành rơi lụy trong sự mong muốn được hiển lộ Giáo pháp đến dân tộc Thái cho họ được nghe. Nếu quý vị chấm dứt tất cả mọi tranh cãi thì sẽ không có sự bất hạnh xảy ra. Chúng ta đang trao đổi theo định nghĩa thế gian về chiến thắng, thì người nào đúng sẽ thắng vì nguyên nhân thiện lành, còn những người thừa nhận là họ sai, chấp nhận tất cả cùng một nguyên nhân thiện lành đó cũng là kẻ chiến thắng. Sau đó rồi thì cả hai đảng phái sẽ đoàn kết và sống trong sự hòa hợp toàn hảo . Nhưng còn người đang cắn lộn nhau và không chịu thua, thì không bao giờ có người thắng người thua giữa họ… chỉ có những đảng phái nhuốm đầy máu đổ cả hai phía mà thôi. Có thể chấp nhận được không? Tôi không muốn thấy hiện tượng đó xảy ra. Thái Lan là một quốc gia Phật Giáo. Tôi không muốn nghe là các Phật tử đầy đức tin đang thách đố nhau như chó và máu của họ đổ đầy tất cả mọi thiền viện thiêng liêng trên đất nước của chúng ta. Cho nên, hãy làm ơn chấm dứt tất cả mọi thứ điên khùng đó.

Cuối cùng, tôn giáo của địa ngục và Thiên giới, cảnh giới Phạm thiên và Niết Bàn sẽ xác minh ai là đúng và ai là sai, ai thiện ai ác. Cho nên, đừng phạm lỗi lầm và tin là mình là trên hết sẽ khiến quý vị rơi vào địa ngục thâm sâu nhất. Đừng biểu lộ khái niệm thiện lành xa rời giáo huấn của Đức Phật. Đất nước của Dhamma là Thiên giới và Niết Bàn, vốn là lãnh thổ của tất cả mọi cá nhân đức hạnh. Những quan kiến lầm lạc như vậy chỉ lôi kéo quí vị xuống trình độ của những con chó đang cắn lộn và hung hăng với nhau, và đưa đến sự sự đổ nát tàn hại không thể đếm được trong sự náo động của họ. Những trao đổi như vậy chỉ mang đến những trận chiến đẫm máu mà thôi. Hãy nhớ kỷ điều này!

Hôm nay tôi đã giải thích tất cả đến mức tột cùng. Đã 53 năm từ ngày tôi chứng Pháp Vô thượng. Hôm nay tôi mô tả kinh nghiệm đó vì muốn mang đến lợi lạc cho quý vị. Đừng bao giờ cản trở. Đừng bao giờ tuyệt vọng, Dhamma luôn luôn lành mạnh và đúng. Nó tự truyền đạt nó một cách toàn hảo, thích hợp với mọi tình huống xảy ra. Thí dụ, ngày hôm nay nó tự diễn đạt với năng lực như vậy đến mức nước mắt của Ãcariya Mahã Boowa cũng phải rơi để mọi người có thể đều nhìn thấy. Đây là thiên hướng vi diệu của Dhamma và cùng một Dhamma mà tôi dạy dỗ mọi người. Tôi không bao giờ dạy Dhamma theo tính cách tình cờ. Tôi luôn dạy với lòng hăng hái.

Như tôi đã giải thích rất nhiều lần, tôi luôn sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình vì Dhamma. Không ai có thể tin được bao nhiêu nỗ lực mà tôi dành cho sự tu tập. Khi những người khác không thành tựu như tôi đã, họ không thể tưởng tượng được nỗ lực phi thường mà tôi đã dành cho sự chứng đạt Pháp Tối thượng. Nhưng tôi đã gắng sức với nỗ lực như vậy và đây là những kết quả. Nó biểu hiện quyền năng tinh tấn bất thoả hiệp khi được ứng dụng cho Dhamma. Càng quyết tâm chừng nào thì càng tốt chừng nấy. Sau đó thì ta có thể chết trong chiến thắng, nhưng không bị đánh bại một cách thảm thương.

Hãy nhớ kỷ rõ ràng điều này.

 

 

 

PHẦN III
 

A LA HÁN

(Arahattapatta)
 

Bậc Thánh A La Hán vì sao phải rưng lệ?


 

Bài pháp thoại của Hòa thượng Ãcariya Mahã Boowa được giảng vào ngày 17, tháng 6, 2002, một tháng rưởi sau giáo huấn trước đó.

Tôi chia sẻ với quí vị lời thành thật: Tôi không còn kinh nghiệm quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, bởi vì tôi không còn một dấu vết của thực tại quy ước nào trong trái tim tôi. Tôi có thể quả quyết với quí vị là không có gì còn lại. Đây là quyền năng Dhamma của Phật để đoạn tận mọi phiền não. Dhamma vẫn trú xứ trong trái tim. Phiền não cũng trú xứ trong trái tim và là kẻ thù của nó. Chúng ta là người bị dính mắc ở tri giác, phải chịu đựng may mắn và bất hạnh vốn là hệ quả của sự xung đột này, vì chúng ta thuộc về tâm. Chỉ có tâm là thuộc về chúng ta.

Pháp hỗ trợ và duy trì chúng ta. Kẻ thù của chúng ta, phiền não đối nghịch chúng ta, luôn đánh đập chúng ta phải chịu phụ thuộc. Cả hai đồng khởi lên từ cùng một vị trí… tâm . Thông qua hành thiền, Pháp dần dần có đủ sức mạnh để áp đảo lậu hoặc… từ thô tế nhất vi tế nhất… và đủ rồi sau đó hoàn toàn đoạn lìa chúng từ trái tim. Đây là ý của chúng ta khi chúng ta bảo là toàn bộ sự đau khổ tạo tác bị hủy diệt. Sự hủy diệt của sự đau khổ đó đánh dấu nguồn Pháp Tối thượng. Và nó xảy ra chính xác khi ánh sáng của Pháp bị che dấu bởi bức màn dày đặc của lậu hoặc, cản trở ánh sáng của chiếu rọi trong tất cả mọi sự rực rỡ huy hoàng của nó.

Tôi nhớ lại kinh nghiệm trọng yếu đó với dòng nước mắt khi tôi giảng pháp mới đây. Tôi thấy biết kinh nghiệm này rõ ràng trong trái tim tôi từ khi nó diễn ra lần đầu tiên, nhưng chỉ gần đây, tình huống thay đổi thúc đẩy tôi chia sẻ nó một cách công khai. Thật sự quyền năng vô cùng là ảnh hưởng của Pháp khi nó tự diễn đạt nó. Nó khai mở trong tất cả mọi hướng, ảnh hưởng tất cả một cách mầu nhiệm thâm thúy vô cùng khi nó xúc chạm. Không chỉ nó ảnh hưởng hiện tượng tinh thần bằng cách đó, nó cũng ảnh hưởng đến hiện tượng vật lý, như nước mắt. Khi liên kết với Pháp, nước mắt tuôn chảy ra cùng một cường lực. Vấn đề là, tất cả mọi chúng sanh trong cõi vũ trụ pháp giới đơn thuần bị che mờ bởi lậu hoặc. Hãy trả lời cây này: Ai là người trong thế gian này đã mở huệ nhãn thấy được sự thật của Pháp? Chưa có ai. Cho nên, khi họ nghe là Ãcariya Mahã Boowa rưng lệ trước công chúng, họ tức thì thắc mắc không biết tại sao. Ông ta có vấn đề gì? Nếu ông ta thật sự chấm dứt tất cả mọi phiền não lậu hoặc và trở thành bậc thánh A La Hán, tại sao ông ta còn khóc lóc như vậy? Đó, quý vị có thấy không? Những người này hiểu lầm nước mắt của bậc A La Hán. Quý vị hiểu không?

Quý vị có nhận thức là tất cả mọi bộ phận trong cơ thể con người chỉ là khía cạnh của thực tại quy ước hay không? Chúng nối kết với tâm, vốn phải có trách nhiệm với chúng. Một khi tâm… kẻ chăm sóc chúng… sụp đổ, thì các thực tại quy ước này, vốn là kẻ thù của nó, sau đó bị đứt lìa thành từng mảnh. Sau đó thì bản tánh trong sáng của tâm chiếu rọi tới trước với tất cả rực rỡ mầu nhiệm của nó, theo sau nó là nguyên lý tự nhiên của nó. Đây là một mặt kinh nghiệm.

Một mặt khác là: Cùng khoảnh khắc đó, cường độ cảm thông và phản ứng vật lý xảy ra, khiến thân rúng động và run rẩy qua sự đáp ứng. Có phải sự rúng động đó có chủ yếu? Không, đây là hệ quả của quyền năng vô biên của Dhamma khi nó đối đầu với cú đấm chết người vào lậu hoặc và cưỡng bách chúng phải tách lìa tâm mãi mãi. Hiện tượng trọng yếu như vậy tạo ra sức va chạm khủng khiếp… toàn cả vũ trụ xem ra rúng động như bị địa chấn. Cảm giác đó là như vậy khi Dhamma và lậu hoặc cuối cùng tách rời, thế giới thực tại quy ước và thế giới Giải thoát Tuyệt đối cuối cùng tách lìa ra. Thực tánh Pháp (Dhamma) sau đó hiện ra với tất cả mọi bất khả tư nghì vi diệu của nó, cuối cùng hiển lộ trong trái tim đang kinh nghiệm nó.

Liên kết chặt chẽ với tâm, thân và tâm trí phản ứng với kinh nghiệm vô song và mầu nhiệm này. Chân tâm luôn có mặt, nhưng nó không bao giờ tự nó hiển lộ theo kiểu đó với thân và tâm hay biết. Hoàn toàn không hề hay biết tác động của diễn tiến xảy ra cực kỳ lớn lao. Tập hợp của thân và tâm là tất cả mọi thực tại quy ước, công cụ mà trái tim dùng cho những mục tiêu của nó. Khi tâm sụp đổ, bản tánh trong sáng nổi lên sau đó hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Nhưng tập hợp của thân tâm, ngũ uẩn… hoàn toàn bị chi phối bởi quy luật của vô thường, khổ và vô ngã… thì bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Phản chiếu bản chất thiếu vững chắc rõ rệt của nó, sự phản ứng xảy ra trong ngũ uẩn rồi sau đó đơn thuần biến mất. Tự tánh trong sáng của tâm không sinh không diệt. Ở điểm này là sự khác biệt giữa hai.

Kết quả, không thể nào so sánh trái tim thuần khiết của bậc Thánh A La Hán với đống phế thải mà chúng ta biết như là thân con người. Khi tự thân ta thấy được thực tại này rõ ràng, không cần thiết phải hỏi xa hơn. Trong một hiện tượng như vậy, ta sẽ đơn thuần chào và nói lời Lành thay! (Sadhu) với chính vị Phật, thậm chí dù ngài chỉ mới trước đó mà thôi. Khi Chân lý Vô tượng được tự chứng trong chính tâm ta, sẽ không cần xác minh của họ nữa. N’atthi seyyo va pãpiyo: Không có gì siêu việt hơn Pháp Vô thượng. Sự nhận thức này khởi lên trong tâm đồng nhất với bản tâm trong sáng của bậc Thánh A La Hán. Nó thuần khiết đến mức hoàn toàn siêu vượt trên định luật Tam tướng: Vô thường, Khổ và Vô ngã. Chúng không còn ứng dụng nữa.

Ngũ uẩn trở nên kích thích. Thí dụ, khi lệ tuôn tràn. Đôi dòng lệ có lẽ rơi ra với nhiều lý do khác nhau. Buồn cũng khiến phải chảy nước mắt, vui cũng như vậy. Khói cũng khiến lệ rơi, và củ hành và tỏi cũng vậy. Nếu thế thì tại sao còn ồn ào bởi những giọt lệ này? Huống chi, lệ chỉ là nước… nguyên tố nước. Cũng giống như các nguyên tố vật chất của đất, lửa và gió, nước hoàn toàn là một khía cạnh của thực tại quy ước. Xúc động một cách thâm sâu bởi bản tánh thanh tịnh của Pháp (Dhamma) bỗng nhiên hiển lộ, các nguyên tố vật chất bị khích động. Chính tự tánh thanh tịnh này, mặc dù hoàn toàn không bị ô nhiễm. Chúng bị kích thích bởi điều tốt và điều xấu, bởi lạc và khổ, buồn và vui. Chúng mãi mãi bị kích thích dù bằng cách này hay cách khác. Nhưng ngay khoảnh khắc đó, thực tánh thanh tịnh của Pháp (Dhamma) hốt nhiên hiển lộ khiến chúng bị khuấy động.

Ngũ Uẩn không phải là bậc Thánh A La Hán; bậc Thánh A La Hán không phải là Ngũ uẩn. Tuyệt đối và không ngược lại, Ngũ uẩn là thực tại quy ước. Qua sự tương phản, thực tánh thanh tịnh hoàn toàn giải thoát tất cả mọi dấu vết của thực tại quy ước… một trăm phần trăm. Cho nên cả hai không và không thể lẫn lộn nhau. Chúng không liên hệ lẫn nhau. Chúng chỉ thấy biết nhau theo địa vị của chúng. Ngũ uẩn, mang tính chất thực tại quy ước hoạt động như vậy. Bản tánh thanh tịnh, hốt nhiên hiển lộ theo sự hòa hợp của nó, có tính chất Giải thoát Vô thượng . Do đó, từ hằng thiên niên kỷ, ngũ uẩn của tất cả mọi chúng sanh qua bao nhiêu thế hệ luôn hoàn toàn phù hợp với tính chất của chúng như các thực tại quy ước.

Khi đạt quả vị giải thoát, Đức Phật và các Bậc A La Hán sau đó không hủy diệt ngũ uẩn để ngăn chặn chúng hoạt động. Thí dụ, tràng cười lớn. Cười lớn là một chức năng tự nhiên của ngũ uẩn, cũng như rơi lệ mà thôi. Cả hai đơn giản chỉ là chức năng mà ngũ uẩn hoạt động theo tính chất đặc biệt của chúng. Miễn là thân tâm vẫn còn duy trì sức khoẻ lành mạnh, chúng có thể dùng bất cứ chức năng nào mà chúng chọn lựa. Thí dụ, chúng ta có thể dùng đất và biến nó thành những tòa cao ốc. Gạch, xi măng, đá, cát, sắt… Nếu chúng không lấy ra từ đất thì chúng từ đâu mà có? Miễn là chúng ta chúng ta sở hữu căn bản vật chất loại này thì chúng ta có thể xây dựng bất kỳ những gì mà chúng ta muốn.

Họ có vấn đề gì không? Họ có bị điên không? Đó là câu hỏi mà tôi muốn hỏi. Tôi bị phê bình bởi rơi nước mắt dưới danh nghĩa của Dhamma, nhưng có người nào thấy thực tánh thanh tịnh của Dhamma hay chưa? Bản thân tôi cũng chưa hề thấy nó trước đó, hoặc là tổ tiên cha mẹ của tôi thấy được Pháp Vô thượng trước đó, bởi vì họ chưa bao giờ tu tập bằng cách đó. Tôi là tu sĩ và tôi hành trì. Qua kết quả của sự tu tập của tôi, tôi gặt hái tri kiến và tuệ giác vững vàng qua từng giai đoạn, theo cách mà tôi đã mô tả cho quý vị nghe. Tôi tu tập theo kiểu đó và cuối cùng tôi đạt được sự thành tựu viên mãn đó, một sự thành tựu mà hiện giờ đang tự diễn đạt theo lối tự nhiên của riêng nó.

Quý vị có ai nỗ lực thấy Pháp Vô thượng chưa? Hoặc là tất cả quý vị đều hài lòng khi ngồi một cách mê mờ với đôi mắt của quý vị nhắm lại và miệng của quý vị há hốc, tạo ra các âm thanh loài vật với Thực tánh Pháp? Tại sao quý vị không sủa ngay đống rác quanh cổ của quý vị? Hãy suy nghĩ về điều đó! Đống rác rưởi đó là đống lửa lớn. Tham sân si và ảo tưởng sản sinh ra mớ rác rưởi khủng khiếp đó. Trái tim ai cũng bị ô nhiễm với nó. Tại sao quý vị không quán xét? Phê bình Thực tánh Pháp tối thượng để làm gì? Đức Phật siêu việt trước chúng ta. Nếu Ãcariya Mahã Boowa không thật với lời dạy của Đức Phật thì tất cả mọi bậc Thánh A La Hán đều cũng không thật. Nhưng, trên thực tế, các bậc Hòa thượng A La Hán luôn luôn đáng được kính trọng. Trừ khi nào mà rác rến lại trở thành phạm hạnh vậy? Cái gì đã cho nó quyền hạn khoác lác, phê bình tư thế này hoặc tư thế khác, chấp nhận hoặc không chấp nhận lối hành xử của một bậc Thánh A La Hán? Chỉ là một đống rác rưởi mà thôi! Quý vị hiểu không? Quý vị có nhận thức tâm của quý vị dày đặc loại rác rến và ô nhiễm này hay không? Quý vị tự hào với điều đó? Sự tự hào nguy hiểm đó sẽ lôi kéo quý vị xuống sâu hơn . Nếu quý vị không thấy được sự nguy hại sự tự hào ô nhiễm đó, quý vị sẽ xung đột với Pháp. Xung đột với pháp giống như con dao nỗ lực đâm vào đá. Chuyện gì xảy ra khi dao đâm vào đá? Chuyện gì xảy ra khi quí vị lái xe đâm vào núi? Ai bị tổn thương? Hãy suy nghĩ đi! Chậu rác đó sẽ bị thống khổ bởi tác động đó. Những bậc siêu việt đã chuyển hoá thế giới này. Tổn thất gì có thể xảy ra cho họ? Khi là Phật tử, quý vị nên chuyên tâm vào giới luật thông thường này: Đừng khiến rác rến của quí vị làm người khác bị nhơ bẩn theo và vì vậy chính quí vị sẽ bị hủy diệt qua quá trình. Không có lợi lạc gì được gặt hái từ đó cả. Sự siêu việt mà tôi đang đề cập: Từ đâu nó phát xuất? Tôi đã minh xác điều này với tất cả trong thời hiện tại của Thái lan đều thấy. Bây giờ tôi là kẻ hung ác nhất trong toàn bộ quốc gia, trong khi phần còn lại của tất cả là đỉnh cao siêu việt? Hãy thấy biết và tự xác định cho chính mình!

Nếu quý vị chối bỏ nguyên lý lý trí, vậy quý vị sẽ chấp nhận cái gì? Mọi người tầm cầu cái gì vào thời này? Tôi tầm cầu cho đến khi tôi gần chết, để chứng được Thực tánh Pháp Vô thượng mà bây giờ tôi đang dạy cho các đệ tử của tôi với một trái tim từ bi và thương xót. Tôi không khoác lác hoặc đang tự khoe khoang. Sự khoác lác như vậy phát xuất từ chỗ nào đây? Khoác lác, ngồi lê đôi mách một cách độc hại… tất cả những thứ rác rưởi này đều không cần thiết. Có gì có thể tăng thêm với Thực tánh Pháp hoàn hảo? Nếu nó đòi hỏi thêm một cái gì, thì làm sao nó có thể được gọi là “hoàn hảo”? Hãy nhớ kỷ điều này.

Phật tử Thái hành xử một cách vô minh. Một khi tôi nói một lời gì thì cả quốc gia lập tức sủa lên ổn ào. Thật là tội nghiệp! Tôi cảm thấy rất tội nghiệp cho quý vị. Chính xác đó là những gì mà Đức Phật cảm nhận được khi ngài thắc mắc tại sao thế gian lại quá u tối như vậy. Nước mắt đã tuôn trào ra trên khuôn mặt của ngài ngay giây phút đó… Nước mắt của lòng đại bi và nước mắt kinh ngạc trước Thực tánh Pháp thuần khiết. Thấy biết con người u mê như thế nào, Đức Phật cảm thấy thất vọng đến mức ngài không tha thiết giảng pháp cho chúng sinh: Tại sao chúng sinh lại không ý thức rác rến trong tâm họ ? Cũng như thời đại này. Khi mọi người nghe Pháp được dạy, họ phê bình vị thầy theo cách mang đến nguy hại cho hơn thay vì vui sướng khi nhận được những bài học vô giá mà chính họ có thể vật lộn để có thể tu tập đến mức mà họ có thể, có thể thích hợp với những người tôn kính thầy của họ. Tại sao họ không suy nghĩ đến những gì có thể nâng cao bản thể của họ để họ có thể thay đổi? Với lý do này, tôi nói với sự tin chắc là Phật tử Thái rất là ngu si. Ãcariya Mahã Boowa không bao giờ bị nhiễu loạn. Hãy để toàn thế gian đến và sủa nếu nó muốn. Tôi sẵn sàng nói ý của tôi mà không bị ảnh hưởng. Thực tánh Pháp vô nhiễm trước tất cả mọi ảnh hưởng trần tục. Những người bị ảnh hưởng bởi các hành xử xấu xa đó nhất định phải sống với cách hành xử xấu xa đó. Người bị ảnh hưởng bởi mất mát sẽ sống với sự mất mát; Người ảnh hưởng sự lợi lạc sẽ sống với lợi lạc. Khi hành xử đức hạnh ảnh hưởng một người, thì họ sẽ khiến hành xử đức hạnh đó là trú xứ của họ. Có thể nói là, họ sẽ tái sinh theo thiện pháp của họ. Ngược lại, khi làm gì sai ảnh hưởng đến ta thì ta sẽ sống với ngọn lửa nóng cháy trong tâm ta. Có phải đó là điều mà quý vị muốn?

Giáo pháp của Đức Phật luôn thịnh hành như khi ngài tuyên bố, “Kho nu hãso kim ãnando Niccaÿ pajjalite sati. Andhakãrena onaddhã Padïpaÿ na gavessatha. “ Khi thế gian này bị đắm chìm bởi ngọn lửa cháy cả ngày lẫn đêm, làm sao các vị có hoàn toàn u tối và vẫn có thể liên tục cười? Tại sao các vị không tầm cầu nơi ẩn trú để các vị có thể nương tựa?” Hãy nghe lời giáo huấn đó của Đức Phật!

Giáo pháp mà tôi dạy cùng là pháp như vậy… Sự điên khùng nào đã nắm bắt quý vị? Quý vị theo chân của những kẻ say sưa mà Đức Phật nghe được khi ngài tuyên bố, ám chỉ đến họ, không phải một nhóm người thánh thiện, “Kho nu hãso…”. Họ chỉ là những kẻ say sưa”. Đây là câu chuyện trong kinh: Đức Phật tương phản với một nhóm người say sưa. Hãy suy nghĩ sự khác biệt giữa họ. Tuy vậy, ngay cả sau khi Đức Phật quở trách họ, họ vẫn không ý thức lỗi lầm của họ.

Nước mắt mà tôi mới tuôn ra gần đây truyền đạt cùng một thông điệp giống như vậy. Làm sao quí vị có thể vẫn vô thức với lỗi lầm của quý vị? Thậm chí quý vị còn chậm chạp hơn cả những kẻ say sưa đó? Nếu quý vị muốn tránh sự suy tàn, quý vị phải tự hỏi chính mình câu hỏi này.

Hiện giờ tôi hết lòng nỗ lực để giúp đỡ xã hội. Trong tâm tôi, tôi không dũng cảm hoặc sợ hãi. Không có hiện tượng gì như lợi lạc hoặc mất mát. Thử thách của tôi là hỗ trợ quý vị hoàn toàn gặt hái được lòng từ bi và yêu thương. Tôi hy sinh tất cả mọi thứ để đạt được Pháp Vô thượng mà tôi đang dạy quý vị ngay bây giờ. Những hy sinh đó không phải là để đạt đến một cái gì bất thiện. Tôi gần như hy sinh cả cuộc đời trên công cuộc tầm cầu Pháp (Dhamma), vượt qua cửa tử trước khi tôi đạt đại ngộ. Nếu vậy thì tại sao không ai nhận nó? Có vấn đề gì với Thái Lan vào thời buổi này vậy? Đó là điều tôi muốn biết.

Con người càng cảm thấy họ quan trọng chừng nào thì họ càng kiêu ngạo và tự phụ hơn, cho đến khi tự bắt đầu suy nghĩ rằng họ còn thông thái hơn cả Đức Phật, bậc thầy Vô thượng. Có phải Thái Land vẫn chưa nhận thức là tình huống càng trở nên tệ hơn vào thời đại này? Dân tộc của nó càng trở nên ngu si hơn! Không ai chú ý đến Pháp nữa. Ai biết được, có lẽ không bao lâu không ai còn đến chùa nữa. Khi chứng kiến phản ứng của họ với lời dạy của tôi mới đây, họ nhạo báng tôi đủ trò với tất cả mọi lời khen chê và châm biếm. Chính xác xảy ra như vậy khi lậu hoặc đang đầy tràn năng lực. Khi họ thấy tôi rơi nước mắt vào ngày trước, họ chế giễu tôi với sự khinh bỉ nhưng tôi vẫn vô nhiễm. Hãy khiến tất cả mọi gia đình trong quốc gia này phê bình tôi, tôi sẽ không tranh cãi với một ai cả. Tôi sẽ dạy mọi người thuần túy trên lòng từ bi. Tại sao họ không thể chấp nhận điều này? Có phải người Thái thật sự quá vô minh?

Có phải Giáo pháp của Đức Phật hoàn toàn biến mất khỏi thế gian? Có phải Đức Phật và Giáo pháp của ngài không còn tối thắng nữa? Có phải tất cả mọi hành giả… người đã nhận thức Chân lý qua hành trình theo đuổi Giáo pháp của Đức Phật… được xem chỉ như là sự lường gạt có thiện ý và là kẻ thù của chúng sinh? Cái gì khiến Phật tử bệnh hoạn như vậy? Họ không thể là những con người thiện lành hay sao? Tại sao họ cư xử như một đàn chó?! Đây là thái độ mà tôi phải chấp nhận.

Nhưng tôi không sân hận với ai cả. Âm thanh mạnh mẽ của tôi phát xuất quyền năng của Giáo pháp. Giáo pháp bất khả tư nghì. Nó không sân hận hoặc ganh ghét một ai. Tuy vậy, Giáo pháp vẫn luôn tự diễn đạt với quyền năng mãnh liệt của nó. Cũng thanh tịnh vô nhiễm với lậu hoặc. Chúng có xu hướng tự diễn đạt một cách dữ dội với quyền năng chiếm hữu. Sự khác nhau là diễn đạt của lậu hoặc có thể gây ra sự tàn phá kinh khủng cho thế giới này trong khi sự diễn đạt quyền năng Giáo pháp thì như dòng nước mát dặp tắt lửa thế gian.

Quý vị có nghĩ là tôi nói qua sân hận hay không? Chỗ nào sân hận phát xuất? Sân hận phát xuất từ phiền não. Với người đã hoàn toàn đoạn tận tất cả mọi lậu hoặc, quí vị không thể khiến họ giận dữ được. Hãy thử nếu quí vị muốn. Đơn giản là không một chút sân hận nào còn lại trong trái tim họ. Ngay cả chỉ một chút sân hận nhỏ nhoi còn lại đi nữa, họ không thể được tôn là bậc Thánh A La Hán, đã đoạn tận tất cả mọi lậu hoặc. Tất cả mọi sân hận, tham lam, và ảo tưởng đều là lậu hoặc. Quý vị hiểu không? Hãy nghiên cứu vấn đề này kỷ lưỡng thì quý vị sẽ biết.

Thân là thực tại quy ước xuyên suốt và xuyên suốt. Miễn là nó còn tồn tại trực tiếp liên kết với bản chất thanh tịnh của tâm, chắc chắn là nó bị ảnh hưởng rồi. Đây là hiện tượng tự nhiên. Tôi sai lầm chỗ nào? Ai là gì có thể tự cho là họ đủ uy quyền để họ có thể đối lập với Giáo pháp của Đức Phật? Hãy tới trước đi. Hãy nghe quý vị khoác lác! Hãy nghe quý vị trả lời, “Ãcariya Mahã Boowa là một tu sĩ cực kỳ vô minh”. Tôi muốn nghe từ tất cả mọi kẻ khôn khéo. Hãy ra khỏi những lổ cầu tiêu của quý vị và hãy khoác lác và sự chứng Pháp của quý vị. Tôi thật sự muốn thấy có một cái gì chân chánh hiện ra, nhưng tôi không thấy gì cả. Dù tôi tìm kiếm ở nơi nào đi nữa. tôi chỉ thấy toàn là loại người lười biếng, đầy tham sân si và ảo tưởng. Đó là loại siêu việt gì vậy? Tuy vậy, họ vẫn tiếp tục tiến tới với sự khoác lác ngông cuồng của họ. Không có kết thúc cho sự điên cuồng của họ.

 

PHỤ LỤC
 

TÂM
 

Cốt Lõi Bản Chất Thấy Biết Của Tâm Trí


 

Những lời chú giải sau đây về bản chất của tâm được trích dẫn từ vô số các bài pháp thoại bởi

Hòa thượng Ãcariya Mahã Boowa.
 

 

QUAN TRỌNG NHẤT LÀ TÂM, cốt lõi bản chất thấy biết của tâm trí . Nó bao gồm sự tỉnh thức trong sáng và đơn thuần: Tâm đơn thuần biết. Hay biết thiện ác, kết quả của phê bình và xét đoán, đều là hoạt động của tâm. Các hoạt động đó có thể biến hiện như chánh niệm, vào lúc khác thì là tuệ giác. Nhưng chân tâm không hề biểu hiện bất kỳ hoạt động quy ước nào. Những hoạt động đó khởi lên trong tâm, thiện ác, hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc ca ngợi và khiển trách, tất cả đều là quy ước của ý thức đang lưu hành qua tâm. Vì nó biểu hiện các hoạt động và điều kiện của tâm, bởi chính bản chất của nó, không ngừng sinh diệt. Loại ý thức đó luôn thiếu vững chắc và không xác thực. Hiện tượng ý thức hay biết khi chúng sinh và diệt được gọi là thức (viññãõa). Thí dụ, thức hay biết và ghi nhận ấn tượng giác quan khi sáu trần, nhìn, ngữi, nếm, nghe, xúc và pháp tiếp xúc với lục căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, và thân. Khi mỗi căn tiếp xúc với mỗi trần thì thức đặc biệt đó nhận biết ngay giây phút mà mỗi sự tiếp xúc diễn ra. Thức (Viññãõa), do vậy, thức là quy ước của tâm. Ngũ uẩn, hoặc vọng niệm hoặc hình ảnh, cũng là điều kiện của tâm. Một khi tâm diễn đạt các điều kiện đó, chúng có xu hướng tăng nhanh, không chết giới hạn. Ngược lại, khi không có điều kiện khởi lên, chỉ có tánh thấy biết rõ rệt của tâm là hiển lộ.

Tuy vậy, cốt lõi thấy biết qua tâm trí của một người bình thường rất khác với cốt lõi thấy biết của một bậc Thánh A La Hán. Tánh thấy biết của người bình thường ô nhiễm từ bên trong. Các Bậc A La Hán (khïõãsava), đều đã đoạn trừ tất cả mọi ô nhiễm. Tánh thấy biết của các ngài là một sự tỉnh thức thuần khiết và trong sáng vô nhiễm. Tỉnh thức thuần khiết, rỗng không tất cả mọi lậu hoặc là sự tỉnh giác tối thắng, một phẩm chất thậm thâm vi diệu ban cho nguồn an lạc hoàn hảo, thích hợp với trạng thái tuyệt đối thanh tịnh của Bậc A La Hán. Nguồn hỷ lạc tối thượng đó luôn thường hằng. Không bao giờ thay đổi hoặc biến chuyển như hiện tượng quy ước của thế gian, luôn đè nặng bởi vô thường (anicca), khổ (dukkha), và vô ngã (anattã). Các đặc tính trần tục đó khó thể thấm nhập vào tâm của một người đã gột rửa nó cho đến tuyệt đối trong sạch.
 

Tâm hình thành chính nền tảng của cõi Ta Bà (Saysara). Nó là cốt lõi của bản thể lang thang hằng vô lượng kiếp. Nó là kẻ chủ mưu mọi chu kỳ của sự sống và là kẻ xúi giục chủ yếu của vòng sinh tử luân hồi, hằng lặp đi lặp lại theo định luật bất biến của nghiệp (kamma). Tâm điều khiển bởi nghiệp nên nó có bổn phận không ngừng xoay tròn theo chu kỳ qua sự sai khiến của nghiệp. Miễn là tâm vẫn còn dưới sự khống chế của nghiệp thì hiện tượng đó vẫn mãi tiếp diễn. Tâm của một bậc Thánh A La Hán là ngược lại, bởi vì tâm của ngài đã hoàn toàn siêu vượt trên phạm vi của nghiệp. Bởi vì ngài cũng siêu vượt trên tất cả mọi điều kiện liên kết, không một khía cạnh của thực tại quy ước tương đối nào có thể trở nên liên hệ với tâm của bậc Thánh A La Hán. Ở cấp độ của bậc Thánh A La Hán, tâm tuyệt đối không liên hệ với tất cả. 
 

Một khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, nó đơn thuần thấy biết theo bản tánh rõ rệt của nó. Chính ở đây tâm đạt đến sự tột bực, nó đạt đến sự hoàn hảo ở cấp độ tuyệt đối thanh tịnh. Ngay ở đây, sự chuyển dịch liên tu bất tận từ kiếp này đến kiếp kế tiếp chấm dứt. Ngay chỗ này, hành trình liên tục từ những cảnh giới tồn hữu cao hơn đến những cảnh giới thấp hơn và ngược trở lại, thông qua sự lặp đi lặp lại vòng quay luân hồi, sinh, già, bệnh, chết, tất cả đều hoàn toàn dứt bặt. Tại sao nó dứt bặt ở chỗ này? Bởi vì các nguyên tố ô nhiễm, ẩn dấu thường hay tỏa khắp tâm và khiến nó phải xoay vòng đã hoàn toàn loại trừ. Tất cả những gì còn lại là bản tâm thanh tịnh, sẽ không bao giờ còn kinh nghiệm sinh và tử nữa.

Tái sinh không bao giờ có thể tránh khỏi được. Tuy vậy, với tâm chưa đạt đến lãnh vực thanh tịnh đó. Ta có thể nỗ lực chối bỏ sự tái sinh đó theo sau cái chết hoặc là ta có thể ngoan cố duy trì thuyết đoạn kiến, chối bỏ tất cả mọi khả năng của sự sống sau cái chết, nhưng sự tin chắc như vậy không thể thay đổi được sự thật. Cốt lõi tánh thấy biết của ta không điều khiển bởi ức đoán, hoặc ảnh hưởng bởi khái niệm và quan điểm của con người. Nó trội lên trong bản thể của ta, song hành cùng với quyền uy tối thượng của nghiệp, hoàn toàn gạt qua một bên tất cả mọi suy xét ức đoán
 

Như kết quả, tất cả mọi chúng sanh đều buộc phải vận hành từ kiếp này qua kiếp khác, kinh nghiệm cả hai, tái sinh ở mức thô tế, như động vật trên bờ, biển và không khí và sự tái sinh thanh nhẹ hơn của ma quỉ, thần thánh và Phạm thiên. Mặc dù hiện tượng tái sinh sau này siêu trần đến mức vô hình qua mày trần mắt thịt, tâm không gặp mấy khó khăn tái sinh trong những cảnh giới này của họ. Chỉ đòi hỏi đúng nghiệp lực mà thôi. Nghiệp là yếu tố quyết định; Nó là quyền năng thúc đẩy tâm trên cuộc hành trình không ngừng nghỉ trong thế giới Ta Bà.

Tâm là một cái gì cực kỳ vi tế đến mức khó mà thấu hiểu cái gì thực sự hợp thành tâm. Chỉ khi nào tâm đạt đến trạng thái tĩnh lặng đến mức thực tánh của nó trở nên rỗng rang. Thậm chí các thiền nhân kinh nghiệm cố ý tìm hiểu tâm không thể nào thấy biết được bản chất của cho đến khi họ đạt đến trạng thái vắng lặng của định.

Mặc dù tâm trú xứ trong thân, chúng ta không bao giờ có thể dò ra dấu vết của nó. Nó vi tế đến mức như vậy. Bởi vì nó lan tỏa cùng khắp thân vật lý, chúng ta không thể nói được phần nào hoặc khía cạnh nào thật sự là chân tâm. Nó cực kỳ vi tế đến mức với sự hành trì thiền định mới có thể dò ra sự hiện diện và phân biệt nnosqua tất cả mọi khía cạnh khác liên hệ với thân. Thông qua hành thiền, chúng ta có thể tách rời được chúng, thấy biết rằng thân là một hiện tượng và tâm là một hiện tượng khác. Đây là một lãnh vực tách rời, lãnh vực mà tâm được kinh nghiệm trong định, nhưng kéo dài được bao nhiêu lâu, còn bị giới hạn qua thời gian thực tập thiền định.

Ở trình độ kế tiếp, tâm có thể hoàn toàn tự nó tách rời thân vật lý, nhưng tuy vậy nó không thể cắt đứt phần tập hợp tâm lý cá nhân: (thọ) vedanã, (tưởng) saññã, hành (sankhãra), và thức (viññãõa). Khi tâm đạt đến trình độ này, ta có thể dùng tuệ để tách rời thân và cuối cùng trở nên đoạn trừ được thân kiến, tin là ta chính là thân này, nhưng tuy vậy ta vẫn không thể nào tách rời các yếu tố tinh thần, thọ, tưởng, hành và thức. Qua cách sử dụng tuệ để khảo sát xa hơn, các yếu tố tinh thần này cũng có thể tách rời từ thaan. Sau đó, chúng ta có thể thấy tự thấy rõ ràng là…(sandiååhik)… rằng năm uẩn là những thực tại riêng rẽ với tâm. Đây là trình độ tách rời thứ ba.

Ở trình độ cuối cùng, sự chú ý của chúng ta hướng đến nguyên nhân gốc rễ của tất cả mọi ảo tưởng, sự ngu si cực kỳ vi tế tỏa khắp mà chúng ta gọi là vô minh (avijjã). Chúng ta biết danh tánh của vô minh, nhưng chúng ta không biết là chúng nằm ẩn trong tâm. Trên thực tế, nó tỏa khắp tâm như loại độc dược độc hại. Chúng ta tuy không thể thấy nó, nhưng nó ở đó. Ở giai đoạn này, nhất định chúng ta phải dựa trên sức mạnh siêu việt của chánh niệm của chúng ta, tuệ giác và sự kham nhẫn để loại trừ độc dược. Tự nhiên rằng, qua sự sử dụng quyền năng mạnh mẽ của chánh niệm và tuệ giác, thậm chí vô minh (avijjã) cũng có thể tách rời tâm.

Khi tất cả mọi thứ ô nhiễm tâm cuối cùng đều được loại trừ, chúng ta đạt đến giai đoạn tối hậu. Sự tách rời ở giai đoạn này là sự tan rã vĩnh viễn và hoàn toàn vốn không đòi hỏi nỗ lực xa hơn để duy trì. Đây là tự do thật sự cho tâm. Khi thân bị bệnh đau, chúng ta biết rõ ràng là chỉ các nguyên tố vật chất là bị ảnh hưởng mà thôi, nên chúng ta không bận tâm hoặc buồn khổ bởi các triệu chứng. Thông thường, sự khó chịu của thân gây ra sự khủng hoảng tinh thần. Nhưng một khi tâm đã thật sự giải thoát, ta có thể vẫn an lạc vô cùng thậm chí giữa cơn đau khốc liệt của thân. Thân và cơn đau được biết là hai hiện tượng riêng rẽ với tâm, nên tâm không tham dự trong sự khủng hoảng đó. Sau khi đã đoạn trừ chúng một cách rõ rệt, thân và cảm giác không bao giờ lần nữa có thể lẫn lộn với tâm. Đây là sự giải thoát tuyệt đối của tâm.
 

CHIẾU RỌI VÀ SÁNG SUỐT MỘT CÁCH CHÂN THỰC, tâm luôn sẵn sàng tiếp xúc với vạn pháp ở mỗi tự tánh. Mặc dù tất cả mọi hiện tượng quy ước, không ngoại lệ, kiểm soát bởi ba định luật của Tam tướng Vô thường (anicca), Khổ (dukkha), và Vô ngã (anattã), bản tâm không bị lệ thuộc vào những định luật đó. Tâm bị điều kiện hoá bởi vô thường, khổ, và vô ngã chỉ bởi các hiện tượng bị lệ thuộc đang quay cuồng với chúng. Dù nó đang quay cuồng, song hành với hiện tượng quy ước, tâm không bao giờ tan rã hoặc bị phân hoại. Nó xoay vòng theo ảnh hưởng của những lực có quyền năng khiến nó phải xoay vòng, nhưng quyền năng thực tại của bản tâm thì siêu vượt trên sự tan rã. Siêu vượt trên sự phân hoại, nó cũng siêu vượt trên phạm vi của Vô thường, Khổ và Vô Ngã và quy luật của tạo hóa. Nhưng chúng ta vẫn không ý thức sự thật này bởi vì thực tại quy ước đang tự chúng liên hệ với tâm đã hoàn toàn bao trùm nó, khiến bản chất của tâm hoàn toàn thích ứng với chúng.

Sinh và tử luôn là điều kiện của tâm bị ảnh hưởng bởi lậu hoặc. Nhưng, khi chính lậu hoặc là gốc rễ vô minh của chúng ta, chúng ta không nhận biết sự thật này. Sinh và tử là phiền não khởi lên từ lậu hoặc. Vấn đề thật sự của chúng ta vấn đề nền tảng thật sự của chúng ta… cũng là nền tảng vấn đề của tâm… là chúng ta thiếu năng lực cần thiết sống với chân tánh của ta. Thay vì vậy, chúng ta luôn xem các hiện tượng dối trá là cốt lõi chúng ta thật sự là gì, thì hành xử của tâm không bao giờ hòa hợp với chân tánh của nó. Thay vì vậy, nó tự diễn đạt thông qua sự dối trá khôn khéo của lậu hoặc, vốn khiến nó cảm thấy căng thẳng lo âu và sợ hãi hầu như tất cả mọi thứ. Nó sợ sống, và sợ chết. Bất kỳ hiện tượng gì xảy ra… nhức mỏi một chút, đau đớn một chút… cũng khiến họ sợ hãi. Họ bị xao xuyến thậm chí với cả những khuấy động nhỏ. Kết quả là tâm mãi mãi tràn ngập với những nỗi lo âu và sợ hãi. Và mặc dù sợ hãi và lo âu không phải là thực chất của tâm, chúng vẫn gây ra sự e sợ ở đó.

Khi tâm được tẩy trừ cấu uế rồi thì nó tuyệt đối thanh tịnh và giải thoát tất cả mọi dính mắc, chỉ có vậy thì chúng ta mới thấy được tâm vô úy. Sau đó, không còn sợ hãi hoặc can đảm nữa, chỉ có chân tánh của tâm, tự nó hiện hữu một cách tự nhiên, vĩnh viễn độc lập với không gian và thời gian. Chỉ điều đó hiện ra… không gì khác. Đây là chân tâm. Thuật ngữ “chân tâm” chỉ hàm ý đến sự thanh tịnh tuyệt đối, hoặc “the sa-upãdisesa-nibbãna”, của một bậc Thánh A La Hán. Không gì khác có thể toàn triệt hơn và không có gì dấu giếm. Chính bản thân tôi cũng cảm thấy xấu hổ khi phải dùng thuật ngữ này qua những cách khác.

Thuật ngữ “tâm nguyên sơ” có nghĩa là là bản tánh nguyên thủy của tâm đang quay cuồng không ngừng nghỉ thông qua vòng quay tái sinh. Đức Phật nhấn mạnh điều này khi ngài dạy, “Tỳ kheo, thực chất của tâm nguyên sơ chiếu rọi và sáng suốt, nhưng nó bị ô nhiễm bởi dòng ố trược”.
 

Theo lẽ thì “tâm nguyên sơ” ám chỉ đến khởi nguyên của thực tại quy ước (sammuti), không phải là khởi nguyên của sự Thanh tịnh Tuyệt đối (parisuddhi). Khi ám chỉ đến tâm nguyên sơ, Đức Phật dạy, “Pabhassaramidaÿ cittaÿ bhikkhave.” Pabhassara có nghĩa là chiếu rọi. Nó khác nhau là thanh tịnh. Lời dạy của ngài tuyệt đối chính xác. Không thể nào biện luận được. Nếu Đức Phật coi ngang tâm nguyên sơ với tâm thanh tịnh, ta có thể lập tức phản đối, “Nếu căn nguyên của tâm là thanh tịnh thì tại sao nó lại khai sinh?”
 

Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bản là thanh tịnh, thì tại sao ngài phải cần thanh lọc nó? Đây là một sự phản đối hiển nhiên? Lý do gì phải cần thanh lọc nó? Bản tâm chiếu rọi, ngược lại, có thể thanh lọc bởi vì sự chiếu rọi của nó không gì khác hơn là cốt lõi chân tánh của vô minh (avijjã). Thiền nhân sẽ tự mình nhận thức sự thật này rõ ràng ngay khoảnh khắc tâm chuyển hoá sự chiếu rọi này đạt đến sự Giải thoát Tuyệt đối (vimutti). Sau đó thì sự chiếu rọi rực rỡ đó sẽ không còn hiện ra nơi tâm. Ở điểm này, ta nhận thức được Chân lý Tối thượng về tâm.
 

MỘT KHI TÂM ĐÃ TRỞ NÊN HOÀN TOÀN TRONG SẠCH thì nó luôn chói lọi và chiếu sáng. Khi ta trú xứ ở một nơi yên tịnh, bao trùm bởi sự vắng lặng tuyệt đối… như sự tĩnh mịch của đêm khuya… mặc dù tâm không “đồng quy” vào định, điểm tập trung tỉnh giác của nó thanh nhẹ cực kỳ đến mức bất khả tư nghì. Sự tỉnh thức vi tế này biến hiện như là sự chiếu rọi bao trùm tất cả mọi phương hướng quanh chúng ta. Chúng ta không ý thức đến nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mặc dù sự thật rằng tâm chưa thể nhập đại định. Thay vì vậy, nó thật sự tự nó kinh nghiệm nền tảng vững chắc của nó, chính căn bản của tâm đã được thanh lọc đến mức chỉ có tánh thấy biết kỳ diệu, mê hoặc là hiện lên rõ ràng nhất.
 

Xem ra tồn tại độc lập với thân vật lý, tánh thấy biết cực kỳ thanh nhẹ này nổi bật một cách riêng biệt trong tâm. Do bản chất vi tế và rõ rệt của tâm ở giai đoạn này, tánh thấy biết của nó hoàn toàn chiếm ưu thế. Không hề có chút hình ảnh hoặc viễn tượng nào hiện lên. Nó là sự tỉnh thức tự nó nổi bật một cách riêng rẽ. Đây là một khía cạnh của tâm.
 

Một khía cạnh khác của tâm được thấy khi tâm hoàn toàn được thanh lọc và thể nhập định một cách vắng lặng, không tư duy hoặc tưởng tượng bất kỳ thứ gì. Dứt bặt tất cả mọi hoạt động, mọi vận hành, đơn thuần yên nghỉ trong phút chốc. Tất cả mọi tư duy và hình ảnh trong tâm hoàn toàn dừng lại. Kinh nghiệm này được gọi là, “Tâm thể nhập vào trạng thái hoàn toàn vắng lặng.” Sau đó, cốt lõi của tánh thấy biết của tâm là còn lại. Ngoại trừ với sự tỉnh thức cực kỳ thanh nhẹ này… một sự tỉnh thức xem ra bao trùm cả vũ trụ pháp giới… tuyệt đối không có gì khác xảy ra. Không giống như luồng ánh sáng, phạm vi bị giới hạn, chiếu gần hoặc xa tùy thuộc vào sức mạnh của ánh sáng, dòng chảy của tâm thì vô giới hạn, không “gần” hoặc “xa”. Thí dụ, tính chất ánh sáng của đèn điện thì dựa theo điện lực. Nếu điện lực cao thì nó chiếu xa, còn thấp thì chiếu gần. Nhưng dòng chảy của tâm thì rất khác. Khoảng cách không phải là một yếu tố. Chính xác là tâm vượt trên mọi điều kiện không gian và thời gian, cho phép nó bao trùm tất cả. Gần hoặc xa, khái niệm không được ứng dụng đến. Tất cả những gì hiển thị là sự tỉnh thức cực kỳ thanh nhẹ thấm nhiễm tất cả mọi thứ toàn cả vũ trụ pháp giới. Cả thế giới xem ra tràn ngập với phẩm chất thấy biết vi tế này, như là không có gì khác tồn tại, mặc dù mọi vật vẫn tồn tại trong thế giới này như chúng vẫn thường tồn tại. Dòng chảy bao trùm của tâm đã được tẩy uế tất cả mọi thứ khiến nó bị che mờ, đây là năng lực chân chánh của tâm. Bản tâm tuyệt đối thanh tịnh đó thậm chí khó mà có thể mô tả được. Khi có một hiện tượng gì thách đố cả định nghĩa, tôi không biết định rõ đặc điểm của nó là gì. Nó không thể diễn đạt cùng một cách mà mọi quy ước thông thường có thể, đơn giản bởi vì nó không phải là hiện tượng quy ước. Nó đơn thuần là phạm trù của những bậc đã chuyển hoá tất cả mọi khía cạnh của thực tại quy ước và từ đó tự mình nhận thức bản tánh phi quy ước đó. Với lý do này, ngôn ngữ không thể mô tả nó được . 
 

TẠI SAO CHÚNG TA LẠI ĐỀ CẬP ĐẾN MỘT CÁI TÂM “QUY ƯỚC” và một bản tâm tuyệt đối thanh tịnh? Chúng có thật sự là hai tâm khác nhau hay không? Không hề là như vậy. Nó vẫn là cùng một tâm. Khi nó bị điều khiển bởi thực tại quy ước, thí dụ như lậu hoặc và phiền não, đó là một điều kiện của tâm. Nhưng khi chức năng tuệ tẩy uế nó thật sạch cho đến khi điều kiện này hoàn toàn tan rã, chân tâm, thực tánh Pháp, có thể chịu đựng thử thách sẽ không bị tan rã và biến mất cùng với nó. Chỉ có các điều kiện vô thường, khổ và vô ngã thấm nhiễm tâm thật sự biến mất.

Dù lậu hoặc có vi tế như thế nào đi nữa, tuy thế chúng vẫn bị điều kiện hoá bởi vô thường, khổ và vô ngã, và do vậy, chắc chắn là hiện tượng quy ước. Một khi các pháp này hoàn toàn tan rã, chân tâm, cái chuyển hoá thực tại quy ước trở nên rõ ràng đầy đủ. Đây là gọi là sự Tuyệt đối Thanh tịnh của tâm, hoặc là Tuyệt đối Giải thoát của tâm. Tất cả mọi điều kiện liên kết tiếp diễn trước đó của tâm bao giờ đã bị dứt đoạn mãi mãi. Hiện giờ hoàn toàn thanh tịnh, cốt lõi bản tánh thấy biết của tâm tự nó tồn tại đơn độc.
 

Chúng ta không thể nói chỗ nào trong thân cốt lõi bản tánh thấy biết này của tâm tập trung. Trước đó, với tâm quy ước, nó hình thành một điểm nổi bật mà chúng ta có thể thấy rõ ràng và nhận biết. Thí dụ, trong định, chúng ta là nó tập trung ngay giữa ngực bởi vì phẩm chất thấy biết của sự tỉnh thức của chúng ta nổi bật rõ ràng ở đó. Ánh sáng chói lọi rực rỡ, vắng lặng hiển lộ một cách lồ lộ từ điểm đó. Chúng ta có thể tự mình thấy hiện tượng này. Tất cả mọi thiền nhân mà trình độ tịnh tĩnh đã đạt đến nền tảng vững chắc của định nhận thức là trung tâm của “cái biết” nổi bật rõ rệt trong phạm vi của trái tim. Họ sẽ không biện luận là nó tập trung trong bộ não, như người không có kinh nghiệm tu tập định luôn cho là như thế. 
 

Nhưng khi cùng một tâm đó được thanh lọc cho đến khi hoàn toàn trong sạch, trung tâm đó biến mất. Ta không còn cho rằng tâm trú xứ trên hoặc dưới, hoặc nó trú xứ ở một điểm đặc biệt nào đó trong tâm. Hiện giờ nó là sự tỉnh thức thuần khiết, một phẩm chất thấy biết cực kỳ vi tế và thanh nhẹ đến mức chuyển hoá tất cả mọi ước định. Tuy thế, nói rằng nó “cực kỳ thanh nhẹ”, chúng ta có bổn phận dùng ngôn ngữ quy ước vốn không thể nào diễn đạt được chân lý, dĩ nhiên, khái niệm cực kỳ thanh nhẹ trong chính nó là một quy ước. Khi sự tỉnh thức thanh nhẹ không có một điểm nào hoặc một trung tâm nào, khó thể nào tìm ra vị trí rõ rệt của nó. Chỉ có cốt lõi thấy biết, tuyệt đối không có gì thấm nhiễm nó. Mặc dù tuy nó vẫn còn tồn tại giữa cùng ngũ uẩn hay thường lẫn lộn, nó không còn chia sẻ cùng những đặc tính với chúng. Nó khác nhau rất xa. Rồi thì sau đó chúng ta biết rõ là thân, ngũ uẩn và tâm là những thực tại khác biệt và riêng rẽ.

 

09/04/2013

Nhất Như

 

Chú Giải II. 
 

Ãcariya: Bậc thầy, người hướng dẫn, cũng sử dụng cho định nghĩa tôn kính khi ám chỉ một bậc trưởng lão. Khi viết hoa thì đó là một danh hiệu dành cho một vị thầy bởi đệ tử của họ, như Ãcariya Mun và Ãcariya Mahã Boowa.

akãliko: Phi thời gian, không bị điều kiện hoá bởi thời gian hoặc thời tiết, toàn triệt siêu vượt thời gian và không gian. Akãliko là ngữ tính của Pháp (Dhamma).
 

Anãgãmï: Bất Lai. Bậc A Na Hàm là người đã đoạn tận năm kiết sử thấp hơn đã ràng buộc tâm trí trong vòng quay của sanh tử luân hồi và bậc sau khi chết sẽ sinh ra trong cõi trời Sắc Cứu Kính và trong một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết Bàn tại đây, không bao giờ còn trở về thế giới này nữa. 
 

anattã: Vô ngã. Sự thật mà tất cả mọi hiện tượng rỗng không tất cả các pháp có thể đồng hóa như một cái “ngã”. Điều này có nghĩa là không có tập hợp các đặc tính của thân hoặc tâm (Ngũ uẩn) hợp thành một thực thể, một là cá nhân hoặc là tập thể, hoặc một thực thể của bản ngã có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào qua tâm (citta). Do đó, cái được kinh nghiệm như là một bản ngã bất biến không gì hơn là một cá thể ảo tưởng khởi sinh ra từ vô minh và ảo tưởng… tạm bợ, thiếu vững chắc, và bị ràng buộc với đau khổ. 
 

anicca: Bản chất tạm bợ, không vững chắc, vô thường của tất cả mọi hiện tượng trong tất cả mọi cảnh giới của sự sống. Nói theo một cách khác, tất cả các pháp sinh lên rồi diệt đi, chắc chắn phải thay đổi, và sẽ trở thành, khiến tất cả trở nên bất thỏa nguyện và chắc chắn là gây đau khổ.
 

Arahant: Bậc đã “hoàn toàn giải thoát” hoặc bậc “thanh tịnh”. Người hành trình trên lộ trình Thánh Đạo đến Sự Giải thoát, đã hoàn toàn đoạn trừ tất cả mọi lậu hoặc và do đó chắc chắn là tất cả mọi dấu vết vô minh và ảo tưởng đã được hủy diệt, không bao giờ còn sanh khởi trong tâm trí của ngài trong tương lai nữa. Hoàn toàn dứt bặt tất cả mọi kiết sử đã từng ràng buộc ngài với sự lặp đi lặp lại của vòng quay sanh tử luân hồi. Ngài không còn phải tái sinh vào bất kỳ kiếp sống nào nữa. Do đó, bậc Thánh A La Hán là một cá thể đã đạt Niết Bàn, và mặc dù mọi tập hợp cá thể (Ngũ uẩn) vẫn còn cho đến khi ngài tịch diệt, tâm của ngài… giải thoát tất cả mọi yếu tố của lậu hoặc bất kỳ là gì… tuyệt đối thanh tịnh. Khi chết, thân và tâm tan rã, lìa bỏ chỉ bản tâm vô ước định, tuyệt đối thanh tịnh… hoàn toàn siêu vượt trên mọi mô tả có tính cách quy ước. 
 

avijjã: Nền tảng vô minh. Sự vô minh này là yếu tố chính trong ảo tưởng về chân tánh của ta và do đó, là yếu tố cốt lõi ràng buộc tất cả mọi chúng sinh trong vòng quay tái sinh. Vô minh hoàn toàn hiện hữu trong tâm (người biết). Là một phần khía cạnh chính ý thức của tâm từ thời vô thủy. Nó lấn chiếm “tánh thấy biết” của tâm và bóp méo thực chất của sự đơn thuần “thấy biết” bằng cách tạo ra nhị nguyên huyễn giả của “người biết” và “cái biết”. Từ quan điểm của một cá thể nẩy sinh đúng sai, thiện ác, trời và địa ngục, và toàn bộ khối đau khổ bao hàm cả thế giới Ta Bà. Do vậy, vô minh là hạt giống sinh và tử, chính hạt nhân của tất cả mọi sự sống. Nó cũng là suối nguồn của tất cả mọi lậu hoặc tâm lý khởi sinh.

Thay vì xem ra tối tăm và đe dọa, vô minh là đỉnh cao của tất cả mọi đức hạnh tinh thần và tâm linh mà tất cả mọi chúng sinh nắm giữ trong kính mến tột bực nhất. Một sự quyến rũ lý thú của nó. Lý do mà tại sao tất cả mọi chúng sinh không thể thấy nó như thực tại nó đang là… Chủ nhân ông và là chúa tể của sinh và tử. Hiển lộ trước hết như là sự tối thượng trong đức hạnh và an lạc, trú xứ vĩnh viễn chân chánh của tâm, khi tuệ giác cuối cùng soi thấu gốc rễ của nó và phơi bày sự dối trá nền tảng của nó, Vô minh lập tức tan rã, hiển lộ bản tâm thuần tịnh vô nhiễm của tâm, Hỷ lạc Vô thượng chân chánh, Niết Bàn.
 

bhikkhu: Tu sĩ Phật Giáo, một thành viên nam giới trong tăng đoàn Phật Giáo người đã từ bỏ, sống đời sống vô gia cư, và tiếp nhận giới thọ cao hơn. Trong các quốc gia trường phái Nguyên thủy, các tỳ khưu hình thành trung tâm đoàn thể Phật Giáo. Hoàn toàn sống nhờ thực phẩm cúng dường và những nhu cầu căn bản khác. Đời sống tu sĩ dựa trên các nguyên lý nghèo khó, tịnh thân, phạm hạnh và thiền.
 

bodhi: Bồ đề, Tỉnh thức; Giác ngộ, Trí tuệ thù thắng. Bồ đề ngang bằng với trí tuệ viên mãn thể nhập trong Tứ Thánh Đế và chứng ngộ Niết Bàn, chấm dứt tất cả mọi đau khổ.
 

brahma (brahmã): Phạm thiên, trú xứ ba cõi trời sắc giới. Được tái sinh vào ba cõi giới thanh tịnh do nhập vào được các trạng thái thiền định. Kết quả là các bậc Phạm thiên này có được thân tướng cực kỳ thanh nhẹ tỏa ra ánh sáng thanh tịnh và kinh nghiệm mức độ hỷ lạc vô biên. Khi thiện nghiệp được tái sinh đến các cảnh giới này cuối cùng cạn kiệt thì các Phạm thiên này sẽ chết đi và tái sinh ở những nơi khác, trong cảnh giới sự sống thích hợp với nghiệp còn lại của họ. 
 

Buddhasãsana: Giáo pháp của Đức Phật, nói chung là tổng quan Phật Giáo (Xem Sanana).
 

buddho: Giác ngộ Vô thượng. Truyền thống Phật hiệu dành cho Đức Phật. buddhol là thuật ngữ dự bị cho thiền (parikamma), được lặp đi lặp lại nhiều lần trong tâm tưởng nhớ đến những phẩm chất cao quí đặc biệt của Đức Phật. Theo nghĩa đơn giản nhất, ta đặt sự chú ý đặc biệt trên sự lặp đi lặp lại “buddho), không ngừng tư duy đến thuật ngữ “buddho” khi hành thiền. Ta nên đơn giản ý thức mỗi từ lặp đi lặp lại “buddho, buddho, buddho” và loại trừ tất cả mọi thứ khác. Một khi nó trở nên liên tục, sự lặp đi lặp lại đơn thuần này sẽ đưa đến kết quả an lạc và tĩnh lặng trong tâm trí. 
 

citta: Là cốt lõi của bản tánh thấy biết của tâm, phẩm chất nền tảng thấy biết tìm ẩn trong tất cả mọi chúng sinh. Khi liên kết với thân vật lý, nó được xem như là là “tâm trí” hoặc “trái tim”. Bị ô nhiễm bởi lậu hoặc ảnh hưởng bởi nền tảng vô minh (avijjã), “dòng chảy” đang hiện hành của nó biến hiện như là thọ (vedanã), tưởng (saññã), hành (sankhãra), và trước (viññãõa), do đó, lôi kéo tâm trong mạng lưới tự dối trá. Nó bị dối gạt về thực tánh của nó. Thực tánh của tâm đơn thuần “thấy biết”. Không chủ thể, không đối tượng, bất nhị, nó đơn thuần hay biết. Tâm không sinh không diệt. Không khởi lên rồi biến mất.
 

Thông thường, “tánh thấy biết” của tâm là phi thời gian, vô lượng vô biên và chiếu rọi rực rỡ, nhưng thực tánh của tâm bị che mờ bởi lậu hoặc (kilesa) trong nó. Tương quan quyền năng của nền tảng vô minh, điểm tập trung của “người biết” được tạo ra từ cái mà tánh thấy biết này nhận xét thế giới bên ngoài. Sự thiết lập của một trung tâm giả tạo tạo nên một “bản ngã” qua toàn bộ quang cảnh ý thức chảy ra ngoài để tri nhận nhị nguyên của “người biết” và “cái biết”. Do đó, tâm trở nên bị dính mắc với sinh, lão, bệnh, tử và sau đó, bị chìm đắm triền miên trong đau khổ.

Trong tác phẩm này, tâm thường được ám chỉ như là trái tim; cả hai đồng nghĩa. Trái tim hình thành cốt lõi trong thân. Nó là trung tâm, thực chất, yếu tính chính yếu trong thân. Nó là nền tảng căn bản. Nhân duyên sanh khởi từ tâm, thí dụ như vọng niệm, khởi lên ở đó. Thiện ác, hạnh phúc và đau khổ tất cả đều đồng phát xuất từ trái tim.

Thiền định chứng thực sự trọng đại của trái tim. Khi tâm tích tập tất cả mọi dòng chảy bên ngoài đang hiện hành vào một điểm, trạng thái tịch lặng định tĩnh của định phát khởi. Từ quan điểm của thiền nhân, kinh nghiệm nằm ở giữa ngực. Tánh thấy biết của tâm rõ rệt ngay ở đó. Do đó, tọa vị thật sự của ý thức là ngay trái tim, và tốt nhất là không nên xem “tâm trí” như là bộ não nằm trong đầu.
 

Có xu hướng mạnh mẽ cho rằng ý thức là kết quả trần thế qua sự tác động phức tạp trong bộ não con người, và khi bộ não chết đi, ý thức dứt bặt. Quan điểm máy móc này hoàn toàn sơ lược. Trong khi có chứng cứ cho là có những phần nào đó của bộ não được xem như một số hoạt động tinh thần nào đó, nhưng hiện tượng đó không có nghĩa là bộ não sản sinh ra ý thức. Cốt yếu, bộ não là một cơ quan phức tạp. Nó nhận và xử lý những dữ kiện phản ứng được đưa vào và thông tin về thọ, tưởng, hành , thức, nhưng nó không tạo ra những chức năng tinh thần này, hoặc nó không tạo nên ý thức hay biết. Điều đó hoàn toàn là phạm vi của tâm.
 

‘converge’: Khi tâm tích tập tất cả mọi dòng chảy bên ngoài vào một điểm, kinh nghiệm này được biết như là tâm đang “đồng quy”. Tu tập thiền định là một phương pháp tập trung tất cả mọi dòng chảy khác nhau vào một điểm tập trung, do đó, tập trung vào một trạng thái hoàn toàn an lạc và định tĩnh.
 

Dhamma (skt. Dharma): Chân lý Vô thượng, các nguyên lý căn bản của Chân lý, phẩm chất tâm linh siêu việt; Giáo pháp của Đức Phật. Trước tiên và tột bực nhất, pháp là bản chất tinh hoa của sự hài hoà toàn triệt trong và của tự thân nó, độc lập với tất cả mọi hiện tượng, tuy vậy tỏa khắp mọi mặt của tất cả mọi chúng sinh. Phi pháp là trật tự hoàn hảo của sự vật hình thành nền tảng tìm cho ẩn cho tất cả mọi sự sống, mặc dù nó không lệ thuộc hoặc bị lệ thuộc bởi bất kỳ hình tướng của sự sống nào. Tối hậu, Pháp tổng hợp tất cả mọi phẩm chất siêu việ, như không dính mắc, lòng bi mẫn yêu thương và trí tuệ, tâm linh toàn thiện mang tâm trí hài hoà tự nhiên với Chân lý Vô thượng. Thêm ra, Pháp bao trùm mọi căn bản nguyên lý vốn là cốt lõi Giáo pháp của Đức Phật, bao gồm những cốt cách hành vi nên được tu tập để hòa hợp với chính mình với trật tự tự nhiên của một sự vật. 
 

dukkha: Khổ, đau đớn, bất thỏa nguyện, bản chất không hài lòng của tất cả mọi hiện tượng. Khổ là duyeen của sự bất thỏa nguyện nền tảng rõ rệt trong chính bản chất của tất cả mọi chúng sinh. Chủ yếu nó là ý thức bất thỏa nguyện tìm ẩn tối hậu đục khoét thậm chí cả những kinh nghiệm khoái lạc nhất, bởi vì tất cả mọi sự vật trong thế giới hiện tượng phải thay đổi và do đó không xác thực. Vì vậy, tất cả mọi sự sống trong thế giới Ta Bà được đặc tính hóa như là đau khổ.
 

kãmarãga: Ái dục, dục vọng. Dựa trên niềm tin rằng thân là ta và hạnh phúc đứng sau lưng có thể thành tựu cho bản thân ta thông qua các giác quan của thân. Kãmarãga là ham muốn, thậm chí khát vọng, theo đuổi khoái lạc và sự hài lòng qua cứu cánh của thân vật lý. Với sự ô nhiễm tinh thần như là động lực lôi kéo, con người nỗ lực vượt qua sự bất thỏa nguyện đó và tìm kiếm đáp ứng qua sự kích thích vật chất như là những cứu cánh chính yếu. Nếu sự ham muốn như vậy được cho phép nắm dây cương, nó dễ dàng trở thành một sự bận tâm thậm chí khiến ham muốn càng khởi lên, khiến tâm mãi mãi đói khát và bất thỏa nguyện.
 

kamma (skt. karma): Tạo tác qua thân khẩu ý đưa đến nghiệp tái sinh. Những tạo tác này chuyển tải nội dung đức hạnh cá biệt… thiện, ác, hoặc trung tính…và ý thức hằng mãi tiếp diễn đem đến hậu quả nguy hại theo quả trong tương lai. Phật Giáo cho rằng tất cả mọi chúng sinh chưa giác ngộ chắc chắn phải bị ràng buộc trong sinh, lão, bệnh, tử và tái sinh lần nữa và lần nữa trong mọi tình huống và cảnh giới khác nhau. Vòng quanh bất tận của sự sống bị lôi kéo bởi bản chất nghiệp của họ và sự biến hiện không thể tránh được của mọi hậu quả của nó. 
 

khandha: Ngũ uẩn. Theo nghĩa đen, một “nhóm” or “tổng hợp”. Qua số nhiều, khandhas ám chỉ đến năm tập hợp tinh thần của một cá thể, “sắc, thọ, tưởng, hành, thức” và kinh nghiệm giác quan tổng hợp như (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý). Cũng được biết như là “những nhóm dính mắc” bởi vì chúng là đối tượng ham muốn trong sự sống con người. Trên thực tế, chúng đơn thuần là những phân loại của hiện tượng tự nhiên không ngừng sanh khởi và diệt đi và rỗng không với bất kỳ một bản ngã thực thể vĩnh viễn).
 

kilesa: Ô nhiễm tinh thần. Lậu hoặc là lực phủ định và khẳng định ở phần tâm lý và cảm xúc hiện hữu trong trái tim và tâm trong tất cả mọi chúng sinh. Các lậu hoặc này có ba loại căn bản” tham, sân và si.” Ba loại này là sự thoái hóa làm ô nhiễm chính mọi người suy nghĩ, nói năng, hành động và do đó, khiến làm bại hoại từ trong chính ý định và mục tiêu của sự sống của họ, ràng buộc họ (thông qua các hậu quả không thể tránh được bởi hành động của họ) mãi mãi bịt chặt họ với vòng quay bất tận của sự tái sinh. Sự biến hiện của chúng là vô số và khác nhau. chúng bao gồm đam mê, đố kỵ, ganh ghét, kiêu mạn, tự hào, keo kiệt, sân hận, hận thù, vân vân và vân vân, với tất cả đủ mọi lậu hoặc vi tế hơn sản sinh ra các trạng thái bất thiện và nguy hại của tâm trí phải chịu trách nhiệm sự đau khổ vô tận của con người. Những lậu hoặc khác nhau này lôi kéo các trạng thái tinh thần tương tác lẫn nhau và tổng hợp chúng để tạo ra khuôn mẫu hành vi khiến con người vĩnh viễn phải chìm đắm trong đau khổ và khiến tất cả mọi sự bất ổn bất định của thế gian sanh khởi. 
 

magga, phala, and Nibbãna: Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn. Được sử dụng bởi Bậc thầy Ãcariya Mahã Boowa. Diễn đạt Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn ám chỉ đến bản chất siêu việt của lộ trình tu tập của Phật Giáo và mục tiêu chủ yếu của nó hướng dẫn ta , qua từng giai đoạn và giai đoạn, thông qua các trình độ giải thoát tiếp theo cho đến khi cuối cùng ta đạt đến sự Giải thoát tối thượng của Niết Bàn. 
 

mindfulness (sati): Chú ý. Khả năng tập trung sự chú ý trên bất kỳ đối tượng nào mà ta chọn lựa quán xét. Trong tất cả mọi pháp thiền, điều này có nghĩa là sự chú ý liên tục tập trung trực tiếp trên một đối tượng thiền đã được chọn hoặc trên một tiến trình khai mở của hiện tượng đang xảy ra đó là chủ thể khảo sát. Chánh niệm là một chức năng cốt yếu cho tất cả mọi pháp hành. Thiếu nó, tâm sẽ chao đảo và thất bại không thể nào tránh được để thành tựu đến các mục tiêu của nó.
 

nãma: Danh. Hiện tượng tinh thần. Nãma ám chỉ đến nhóm tập hợp của một cá thể, (nãmakhandha) bao gồm thọ, tưởng, hành và thức. 
 

Nibbãna (skt. Nirvana): Theo nghĩa đen có nghĩa là “dứt bặt”. Niết Bàn được so sánh với ngọn đèn hoặc lửa được dặp tắt. Ba ngọn lửa tham sân si bị dặp tắt trong tâm do thiếu dầu. Sự dặp tắt của ngọn lửa này giải thoát tâm trí từ tất cả mọi thứ ràng buộc nó với vòng quay tái sinh và sự đau khổ đang kinh nghiệm trong nó. Niết Bàn là sự Giải thoát Tuyệt đối, Hỷ Lạc Tối Thượng. Nó là mục tiêu tu tập tối hậu của Phật Giáo. Nó được cho là Vô sanh, Vô Tử, Phi điều kiện, nhưng hoàn toàn không còn bị dính mắc với tất cả mọi dấu vết của thực tại quy ước, một sự mô tả của cái gọi là Niết Bàn, hoặc hoàn toàn siêu vượt phạm trù của ngôn ngữ quy ước.
 

Pãli: Phạn ngữ cổ. Pãli là ngôn ngữ vào thời đại sớm nhất của Phật Giáo và là ngôn ngữ được dùng trong các tạng kinh Phật Giáo được bảo tòan. Đa số thuật ngữ đều được in chữ nghiêng trong tác phẩm này đều là Phạn ngữ.

rýpa: Sắc, và tổng quát hiện tượng về thân. Khi đối lập với Danh (nãma) hiện tượng tâm lý. Rupa là phần tổng hợp sắc của một cá thể.
 

sãdhu: “Lành thay.” Thường được dùng trong giới Phật tử, sãdhu là lời tán thán biểu hiện cho sự tri ân, chấp nhận hoặc tán thành.
 

samãdhi: Định. Trạng thái tập trung và định tĩnh. Định được kinh nghiệm bởi những pháp thiền khác nhau mục đích để giúp cho cảm xúc dữ dội và mọi phóng dật của tâm lắng xuống bằng cách bám chặt trên một đối tượng chú ý và nhiệt tâm nắm giữ nó cho đến khi tâm trí trở nên hoàn toàn thể nhập vào điểm đó và loại trừ tất cả mọi thứ khác, và do vậy hoàn toàn hợp nhất trong một trạng thái đơn thuần, thống nhất của sự tỉnh thức. Bằng cách tập trung sự chú ý của trên trên chỉ một đối tượng, dòng chảy vọng niệm tán loạn này hiện khởi trong phạm vi giác quan dần dần tụ lại thành điểm tập trung bên trong thành một trạng thái bất động, định tĩnh gọi là samãdhi. Kinh nghiệm này không có nghĩa là tâm trí đang nỗ lực tập trung trên một điểm (Một sự chú tâm bên ngoài), nhưng thay vì vậy cần mẫn theo đuổi phương pháp với sự chú ý nhiệt tâm, tự nhiên rằng tâm trí, theo sự hài hoà của nó, đồng quy vào trạng thái hợp nhất của sự tỉnh thức. Kết quả kinh nghiệm là cảm giác một bản thể thuần khiết và hài hoà kỳ diệu đến bất khả tư nghì. Khi xuất khỏi trạng thái định, sự chú tâm định tĩnh tập trung này sau đó phục vụ như là nền tảng cho sự thành tựu theo đuổi các phương pháp khảo sát để phát triển tuệ giác và gặt hái tuệ kiến vào bản chất chân thật của tất cả mọi hiện tượng.
 

saÿsãra: Vòng quay tái sinh vô thủy khi mà tất cả mọi chúng sinh bị quay cuồng. Saÿsãra là một thuật ngữ dành cho tiến trình bất tận của bản thể sinh ra, bị bệnh, già đi, và chết… một tiến trình nối tiếp không ngừng nghỉ của sinh, lão, bệnh, tử và tái sinh. Nó bao trùm toàn cả vũ trụ pháp giới của mọi sự sống, từ bản thể vi tế nhất đến thanh nhẹ nhất, từ cảnh giới cao nhất của cảnh trời vô sắc giới cho đến cảnh giới thấp nhất của địa ngục. Tất cả mọi sự sống trong vòng quay này hằng thay đổi, thiếuvững chắc, đấy dẫy đau khổ và buồn đau, với mỗi trạng thái của sự sống được quyết định bởi hành nghiệp của thân, khẩu và ý (kamma). Chứng Niết Bàn đánh dấu sự chuyển hoá siêu vượt trên thế giới Ta Bà.
 

Sangha: Tăng đoàn. Đoàn thể đệ tử của Đức Phật. Theo quy ước thông thường, điều này có nghĩa là giới luật tu trì. Trên lãnh vực lý tưởng, nó ám chỉ đến đệ tử của Đức Phật, dù là Phật tử hoặc tăng chúng, bậc đã đạt đến ít nhất là một trong bốn Thánh Đạo trên lộ trình A La Hán Quả. 
 

sankhãra: Hành,. Theo định nghĩa thông thường, sankhãra ám chỉ đến tất cả mọi động lực hình thành hoặc điều kiện hoá mọi vật trong thế giới hiện tượng của tâm trí và vật chất, và với hiện tượng đã hình thành hoặc điều kiện hoá đưa đến kết quả đó. Bốn tập hợp cá thể (sankhãra khandha) ngụ ý tư duy và sự tưởng tượng. Vọng niệm liên tục luân chuyển trong tâm trí và nhận thức hóa thành nhận thức của một cá thể. Sankhãra tạo ra các ý tưởng đó sau đó gởi chúng đến tưởng uẩn, lý giải và trau chuốt chúng, giả định về ý nghĩa của chúng. 
 

saññã: Tưởng, nhận thức của hiện tượng tâm và thân khi chúng phát khởi. Là tập hợp thứ ba của một cá thể, Tưởng uẩn liên kết với chức năng ký ức; thí dụ, nhận thức, liên kết, và dịch giải. Saññã nhận thức cả có biết và ban ý nghĩa và sự quan trọng của chúng đến tất cả mọi nhận thức cá nhân của một người. Thông qua sự nhớ lại kinh nghiệm quá khứ, chức năng của ký ức ban cho sự vật những ý nghĩa đặc biệt và sau đó rơi vào lý giải riêng của chúng, khiến ta trở nên vui hoặc buồn về cái mà ta nhận thức. 
 

sãsana: Lời dạy của Đức Phật, và khai triển ra, Phật Giáo tổng quát. Lộ trình tâm linh của Phật tử chắc hẵn là đa bình diện nơi mà tất cả mọi thiện pháp được tu tập, từ hành vi bố thí cho đến thiền chuyển hoá, là các khía cạnh cốt yếu của con đường dẫn đến mục tiêu tối hậu, chấm dứt tất cả mọi đau khổ. Thuật ngữ sãsana thông thường ám chỉ tổng hợp lời dạy của Đức Phật, sự tu tập của nó, và sự chứng ngộ của nó.
 

sãvaka: Đệ tử trực tiếp của Đức Phật, người nghe giáo pháp của Đức Phật và tuyên bố ngài là bậc thầy của họ. 
 

Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ: Chánh niệm (sati) là chức năng chú ý một cách sắc bén với bất cứ hiện tượng gì sanh khởi trong lãnh vực hay biết. Tuệ giác (paññã) là chức năng tuệ kiến xem xét, khảo sát và phân tích bản chất của mọi hiện tượng khi chánh niệm trở nên ý thức chúng. Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ là hai chức năng phát triển đến trình độ lão luyện tinh thông đặc tính hóa bởi sự cảnh giác cao độ, nhanh nhẹn và ling động, kết hợp với các quyền năng sắc bén của lý trí. Liên tục làm việc một cách hợp nhất, không một khoảnh khắc thất niệm, Đại Chánh niệm và Đại Trí tuệ được cho là có khả năng tự động theo dõi và xuyên suốt sự thật của tất cả mọi hiện tượng khi chúng khởi lên và diệt đi. Bởi vì chỉ là hai chức năng duy nhất có khả năng khảo sát các lậu hoặc vi tế hơn ở giai đoạn cao nhất của Thánh Đạo (arahattamagga), sự phát triển của chúng là điều kiện tiên quyết để đạt đến trình độ tu tập này và do đó thành tựu đến mục tiêu tối hậu, Niết Bàn.
 

Theravãda: “Thượng tọa bộ”. Được trao truyền đến chúng ta qua Phạn ngữ. Nó là hình thức giáo huấn cổ xưa nhất của Đức Phật. Theravãda (Nguyên Thủy) là một trong tông phái sớm nhất của Phật Giáo vẫn còn tồn tại đến bây giờ. Hiện giờ Theravãda có sức ảnh hưởng lớn tại Thái Lan, Tích Lan và Miến Điện.

Tam Giới: Dục giới (Kãma-loka), Sắc giới (Rýpa-loka), và Vô Sắc Giới (Arýpa-loka), tổng hợp lại thành toàn bộ vũ trụ của các chúng sinh hữu tình. 
 

vimutti: Tuyệt đối Giải thoát. Giải thoát từ mọi sự thêu dệt và quy ước của tâm trí. Vimutti đồng nghĩa với Niết Bàn.

viññãõa: Thức. Tri giác đơn thuần. Phần tập hợp thứ năm của cá thể. Thức uẩn đơn thuần ghi nhận dữ kiện giác quan, thọ và ấn tượng tinh thần khi chúng xảy ra. Thí dụ, khi các hình ảnh hữu hình tiếp xúc mắt, hoặc khi tư duy xảy ra trong tâm trí, thức của chúng đồng thời khởi lên. Khi đối tượng dứt bặt sau đó, thì ý thức của hiện tượng đó ghi nhận nó.
 

wisdom (paññã): Thuật ngữ tuệ giác ám chỉ đến sự ứng dụng sắc bén và ling động của các nguyên lý nhân quả với mục tiêu xem xét, krxts và phân tán tất cả mọi hiện tượng vật lý và tinh thần, khi chúng sinh lên và diệt đi, thấy biết chúng như chúng đang là; vô thường và thiếu vững chắc, ràng buộc với đớn đau và đau khổ, và rỗng không với bất cứ hiện tượng gì có thể được đồng hóa như là một cái “ngã”. Khi được dùng trong Phật Giáo, tuệ ám chỉ xa hơn chỉ là sự phán đoán lành mạnh . Tuệ là chắc chắn tìm kiếm, xem xét, so sánh, và khảo sát vận hành của thân tâm qua ánh sáng của các nguyên lý nền tảng sự thật để có thể gặt hái cơ hội sắc bén trên các nguyên tố ô nhiễm (kilesas) khiến che mờ chân tánh của chúng và chân tánh của người biết chúng.

Mặc dù lập luận quy nạp lúc mới bắt đầu là một phần tu tập tuệ, tri kiến vẫn còn rất nông cạn. Khi chức năng của tuệ phát triển và trở nên nội quán hơn, kỹ xão của nó lại càng trở nên vi tế hơn, trong khi đó tuệ kiến theo bản chất trở nên nhạy bén hơn. Chỉ khi nào tuệ kiến xuyên suốt thật sâu thẳm thì gốc rễ nguyên nhân gây ra sự bất thỏa nguyện của tâm trí có thể thật sự phơi bày, nhổ bật gốc và hủy diệt.

Thông thường, tuệ là phần thành tựu tiên quyết nhất qua sự vắng lặng của định. Cả hai cùng làm việc song đôi để bảo đảm công việc đoạn tận lậu hoặc thành tựu với hiệu quả cao nhất. Cả hai là hai khía cạnh cốt yếu của lộ trình dẫn đến chấm dứt tất cả mọi đau khổ.

 

 

Về Dịch giả
 

Bhikkhu Sïlaratano với tên Richard E. Byrd, Jr. chào đời tại Winchester, Virginia vào năm 1948,

Bhikkhu Sïlaratano bắt đầu thọ giới xuất gia thành tu sĩ Phật Giáo tại Bangkok, Thái Lan vào năm 1977, sau khi đã trải qua nhiều năm tu dưỡng tại Ấn Độ và Tích Lan. Sau khi được thọ giới , ngài cư ngụ tại Thái Lan, tu tập dưới sự giám hộ của Bậc thầy Ãcariya Mahã Boowa.

 

1. Hòa thượng Ãcariya Mun Bhýridatta Thera — Tiểu sử Tâm Linh (A Spiritual Biography). Chuyển ngữ bởi Sïlaratano Bhikkhu (Việt dịch 2014)
 

Trích dẫn Chương 1: Hiếu kỳ về lời nói vị của vị thần khổng lồ với quyền năng siêu nhiên, Bậc thầy Ãcariya Mun hỏi và được trả lời rằng kẻ xâm phạm thường thấy một vài dấu hiệu quyền năng vào ngay đêm đầu tiên. Một giấc mộng quái gở thường chập chờn trong giấc ngủ: Một thần linh đen tối khổng lồ, cao ngất ngưỡng, đe dọa sẽ đưa người nằm mộng vào chỗ chết, la hét rằng nó đã là người bảo vệ cho hang động này lâu năm và có quyền sử dụng quyền uy tuyệt đối trên toàn cả khu vực, và sẽ không cho phép bất kỳ ai xâm phạm. Nếu có bất cứ người xâm phạm nào thì sẽ lập tức bị đuổi đi, bởi vì nó sẽ không chấp nhận bất cứ quyền uy nào lớn lao hơn nó, ngoại trừ bậc phạm hạnh toàn hảo và với một trái tim từ bi yêu thương, người đã ban phát các phẩm chất cao quí này đến với tất cả mọi chúng sinh hữu tình. Một bậc với phẩm hạnh cao quí như vậy được cho phép sống trong hang động. Vị thần thậm chí sẽ bảo vệ cho ngài và quy y ngài, nhưng sẽ không chịu đựng bất cứ những kẻ xâm phạm, hành vi ích kỷ và đầu óc hạn hẹp nào.”
 

2. Hòa thượng Ãcariya Mun’s Paåipadã: Lộ Trình Truyền Thừa Tu Tập Của Ngài ( His Lineage’s Way of Practice). Cùng với tác phẩm tiểu sử của Hòa thượng Ãcariya Mun. Chuyển ngữ bởi Hòa thượng Ãcariya Paññãvaððho Thera. (Việt dịch – 2013)

Trích dẫn Chương Một: Khi chúng ta thật sự đôí chọi nó mà không cách để thoát ra và không thể tìm đến bất kỳ sự quy y nào, chúng ta nhất định phải thử và tư duy làm cách nào để hỗ trợ chúng ta. Dhamma qua bản chất là nơi chốn quy y giá trị và phong phú nhất và khi chúng ta quy phục nó, và nó thấm nhập như là sự quy y tâm của chúng ta, sau đó thì bất kỳ lúc nào chúng ta cần sự trú ẩn lớn lao nhất, thì Dhamma ban cho các kết quả tự biểu hiện chúng với chúng ta, ngay tức thì trước đôi mắt và tâm của chúng ta, không có chỗ hoài nghi nào cho chúng ta. 
 

3. Hòa thượng Ãcariya Khao Anãlayo: Tiểu Sử Thiền sư Truyền Thống Pháp Lâm (A Forest Meditation Master’s Biography). Chuyển ngữ bởi Hòa thượng Ãcariya Paññãvaððho Thera (Việt dịch 2013)

Trích dẫn: “Người thông tuệ nhất luôn hằng tán thán chánh niệm và tuệ giác từ thời cổ đại, dạy rằng chúng là hai chức năng cao thượng nhất và không bao giờ bị lỗi thời. Quí vị nên tư duy và tầm cầu và đào sâu chánh niệm và tuệ giác và tuyên dương chúng như là cứu cánh và phương tiện để tự phòng vệ chính mình và hủy diệt kẻ thù trong quí vị hoàn toàn và dứt khoát. Sau đó thì quí vị sẽ thấy là phạm trù tâm là vô giá và ưu tú nhất luôn trong chính quí vị từ hằng vô thủy vô chung. Giáo pháp mà tôi đang dạy quý vị hoàn toàn phát xuất từ Giáo pháp mà tôi đã khảo sát và kinh nghiệm là một kết quả. Nó không dựa trên sự dọ dẫm … như gãi mà không thể biết là chỗ ngứa ở đâu… bởi vì những gì mà tôi dạy phát xuất từ kinh nghiệm thấy biết, với sự chắc chắn.”
 

4. Tuệ Sanh Định (Wisdom Develops Samãdhi) Sổ Tay Hướng Dẫn Tu Tập Các Pháp Thiền Của Đức Phật (A Guide to the Practice of the Buddha’s Meditation Methods) (Việt dịch 2013).

Chuyển Ngữ bởi Hòa thượng Ãcariya Paññãvaððho Thera
 

Trích dẫn Chương Một: “Nên hiểu là Định của tất cả mọi loại thiền là giúp đỡ và hỗ trợ sự phát triển của Tuệ, và với mức độ mà điều này tùy thuộc vào sức mạnh định của ta. Nói một cách khác, định thô tế, vừa phải, giúp đỡ và hỗ trợ tuệ vốn thô tế, vừa phải hoặc vi tế, và tùy thuộc vào người có trí để chuyển định của họ ứng dụng vào sự phát triển tuệ. Nhưng thông thường mà nói, bất kỳ loại định nào được thành tựu, hành giả tu tập pháp thiền đó có xu hướng trở nên dính mắc nó, bởi vì tâm rơi vào một trạng thái định tĩnh và khi nó yên nghỉ ở đó, một trạng thái an lạc và hạnh phúc hiện hữu. Có thể nosrgf dính mắc với định, hoặc sự vắng lặng, tâm không có vấn đề gì khi vẫn duy trì sự tập trung, và có thể duy trì lâu dài theo ý của hành giả, tùy thuộc vào trình độ định của hành giả. 
 

CÁC ẤN PHẨM NÀY ĐƯỢC PHÁT HÀNH TỰ DO BỞI:

Forest Dhamma Books

Baan Taad Forest Monastery

Baan Taad,Ampher Meung

Udon Thani 41000

Thailand

www.ForestDhamma.org

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin