Chi tiết tin tức Niềm vui của người tỉnh thức 09:02:00 - 12/10/2013
(PGNĐ) - Muốn làm người biết tu tỉnh trong mọi hoàn cảnh, trước tiên ta phải biết trong mỗi con người chúng ta ai cũng có đôi mắt sáng để nhìn thấy hình ảnh mọi sự vật một cách rõ ràng. Nếu chúng ta để mắt sát vào một tấm gương thì ta sẽ không thấy gì hết, mà đứng quá xa tầm mắt thì cũng không thể thấy. Cho nên, chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải, không quá xa mà cũng không quá gần mới có thể nhìn thấy rõ ràng mọi hình ảnh, sự vật được phản ảnh đầy đủ trong tấm gương.
Niềm vui của người tỉnh thứcTrước nhất, ta phải biết lòng từ bi là chất liệu sống để giúp chúng ta biết thương yêu, kính trọng tất cả mọi người một cách bình đẳng, nhất là với những người hay gây khó khăn cho ta, thường chống đối và phản bác ta, không theo ý muốn như ta hằng mong đợi. Trong kinh hay nói người hằng mong sống được thanh tịnh nên lúc nào cũng thể hiện phép lành. Phép lành ở đây là sự rèn luyện, học tập của ta để ngày càng hoàn thiện chính mình.Khi bắt đầu học Phật, chúng ta cần phải luyện tập những kỹ năng sống cho đến khi thuần thục. Việc buông xả các thói quen xấu được vận dụng trong bốn oai nghi đi-đứng - nằm - ngồi giúp ta có kỹ năng sống có nghệ thuật trong học tập và rèn luyện. Đây là lời dạy chân chính ai cũng có thể lắng nghe và hiểu biết, dù là người mới học đạo hay đã huân tập lâu ngày đều có thể tìm thấy được lợi ích trong khi học tập, rèn luyện chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Tất cả chúng ta không phân biệt trình độ căn cơ, ai cũng có thể nghe và lãnh hội để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta học Phật pháp cũng lại như thế, phải biết cách buông xả từ từ cho đến khi nào ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc hoàn toàn; và rõ ràng sự bình yên đó không phải do ai ban tặng mà chính ta đã tự nỗ lực để sống được những giây phút an nhiên, tự tại, không thể có bình yên thật sự do một đấng tối cao nào ban phát cho mình cả. Để có được lòng từ bi rộng lớn, Phật đã chỉ cho ta biết cách tự hoàn thiện chính mình theo từng cấp độ từ thấp đến cao, những đức tính đó phải do mình nỗ lực chứ không phụ thuộc vào người khác. Tự lực là vấn đề then chốt căn bản trong quá trình học tập, rèn luyện để có thể giác ngộ, giải thoát. Khi ta đã được bình yên, hạnh phúc thì mình mới có thể mở lòng thương yêu người khác bình đẳng; ngược lại, nếu ta còn nương nhờ, phụ thuộc vào sự giúp đỡ, hỗ trợ, của người khác thì ta cũng không thể giải thoát được. Chúng ta muốn có một đời sống an vui, hạnh phúc theo người biết tu tỉnh, trước tiên chúng ta phải biết pháp lành, tức là những việc làm thiện ích được thể hiện qua thân - khẩu - ý; như vậy thì thiện nghiệp, thiện tâm của chúng ta sẽ được tôi luyện, huân tập một cách cụ thể và nhờ vậy mới được tăng trưởng. Người có khả năng lúc nào cũng thấy mình có đủ niềm tin về nhân quả, tin chính mình, nên hay làm một cái gì đó để cống hiến cho đời. Khi chúng ta thương người, thương đời thì chúng ta cảm thấy mình có niềm tin nhiều về khả năng của mình. Ở trong niềm tin mạnh mẽ như vậy, trong chính khả năng của mình, chúng ta mới nghĩ đến việc giúp đỡ và sẻ chia cho người khác. Những tâm hồn yếu đuối, bạc nhược không bao giờ biết trang trải lòng từ bi cho một người nào khác. Người Phật tử chân chính trước tiên cần phải có sự chất phát, nghĩa là có một tâm hồn đôn hậu, thuần phác, giản dị. Chữ “chất phác” ở đây không phải đi đôi với chữ “thật thà” như ta thường nghĩ. Chất phác ở đây là tâm hồn không máy móc. Một người thật thà, chất phát là một người hiền đến độ có thể ngu ngơ, không biết gì. Sự đôn hậu, thuần phác mà Phật dạy ở đây là mình không quá tính toán, so đo một cách máy móc. Chúng ta có thể sống, có thể nhìn thấy cái tốt của người khác mà quên đi cái xấu của họ. Ðó là ta đã biết thông cảm và tha thứ. Một người tánh tình dễ dàng là người biết mở rộng vòng tay để bao dung và độ lượng với người khác. Ðiều này có nghĩa là hễ tâm hồn chúng ta máy móc quá thì tình thương yêu chân thật không thể phát sinh. Chúng ta tính toán nhiều quá thì chúng ta khó mà phát triển lòng từ bi, không thể nhìn đời với một cặp mắt ôn nhu, thuần hòa, chất phác. Do đó, chữ “chất phác” ở đây không có nghĩa là thật thà mà là một tâm hồn rộng lớn. Muốn có được tấm lòng trước tiên cần phải có sự chất phác. Người chất phác không chỉ nói lời chân thật mà cũng không tìm cách lợi dụng người khác hoặc làm việc gì để thủ lợi cá nhân. Chất phác là biểu hiện của người biết sống chân thật, chỉ nói và làm những điều dựa vào sự hiểu biết của mình chứ không phải làm để vừa lòng người khác. Người chất phác là người biết tôn trọng sự thật và nói lời thành thật nên lúc nào tâm cũng được bình yên, hạnh phúc. Một người nông dân nọ rất chất phát chuyên nghề làm ruộng để nuôi sống bản thân. Mặc dù lam lũ, vất vả với nghề đồng áng nhưng anh vẫn nghèo khó, thiếu thốn, khó khăn. Một hôm trên đường đi làm về, anh vô tình lượm được một sợi dây chuyền bằng vàng, nhưng bản tánh anh vốn chất phát, nhân hậu nên không nỡ lấy sợi dây chuyền mang về. Anh nghĩ người đã làm rớt chắc họ sẽ buồn khổ lắm nên quyết định ở lại chờ trả cho khổ chủ. Đã quá trưa mà chẳng thấy ai đến hỏi, dù đã đói khát nhưng anh vẫn cố nán lại thêm chút nữa. Mãi đến gần xế chiều, một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như đang tìm kiếm một vật gì đó. Anh hỏi thăm mới biết cô gái làm rớt sợi dây chuyện do nhà chồng mới hỏi cưới tặng cho. Anh vui vẻ trả lại cho cô và sau đó vẫn tiếp tục nghề làm ruộng của mình. Một thời gian sau, mọi người trong xã đã bầu anh làm lãnh đạo, nhờ vậy anh có cơ hội làm việc tích cực hơn và đời sống bà con cũng có phần khấm khá nhiều hơn trước. Vì sự thật thà, chất phác khi lượm của rơi không sinh lòng tham đắm theo tinh thần người Phật tử chân chính nên anh nông dân chuyển được nghiệp xấu và được làm quan. Song song với sự chất phát, hiền lành chúng ta còn phải thẳn thắn, nghĩa là trung thực, không quanh co, không tô vẽ, không dua nịnh. Người như thế luôn thể hiện được lòng từ bi rộng lớn, đó là năng lực được huân tập nhiều đời, nhiều kiếp bằng chánh niệm tỉnh giác. Với người thẳn thắn, ta thấy dễ giao tiếp và gần gũi với họ; vì ta biết người như thế chỉ nói những gì theo sự suy nghĩ thật của mình nên ta khỏi phải nghi ngờ hay thắc mắc một điều gì; ngược lại, ta có thể tin tưởng lời nói và việc làm của họ. Những người đáng tin cậy như thế sẽ giúp ta có được mối quan hệ tốt đẹp trong đời sống hằng ngày. Phẩm chất thứ hai người Phật tử cần có là sự hiền hòa, không kiêu mạn, một đời sống không làm tổn hại ai, không bao giờ tạo cho ai cảm giác bị đe dọa. Ở đây ý nói chúng ta không quá lo sợ, phập phồng, nên chữ “hiền hòa” Phật muốn nói đến một đời sống vô hại, một đời sống của người biết giữ giới, một người có thể mang lại cho người khác một cảm giác an lành, bình an, thoải mái. Không kiêu mạn có nghĩa là không so đo, tính toán, Phật dạy không phải khi chúng ta nghĩ mình hơn người thì đó mới là kiêu mạn. Trong Phật pháp nói rằng, tất cả những trạng thái nào khi ta so sánh giữa mình và người, mình bằng người, hơn người hoặc thua người đều là trạng thái của kiêu mạn. Vì vậy, khi chúng ta so sánh hơn hoặc thua với bất cứ ai thì tâm kiêu mạn phát sinh. Hễ tâm kiêu mạn phát sinh trong lòng người nào thì người đó không bao giờ tiến bộ được. Tại sao? Nếu ta thấy mình hơn người thì ta sẽ không học hỏi và tiến bộ thêm được. Nếu thấy mình thua người thì mình sẽ bị mặc cảm, dày vò, tự ái. Chúng ta lấy hơn - thua làm trọng, lấy thông minh - hiểu biết làm trọng thì như vậy trong sự kiêu mạn đó lòng từ bi không thể nào phát triển. Do đó, "hiền hòa, không kiêu mạn" là những đức tính cần thiết giúp cho mỗi hành giả phát triển tốt đẹp lòng từ bi rộng lớn. Người Phật tử không được kiêu căng, ngạo nghễ với bất kỳ một ai mà còn thể hiện lòng khiêm tốn đối với mọi người. Thường thì kiêu ngạo luôn đi đôi với thất bại và dễ làm mất lòng người khác. Kiêu ngạo tức là sự chấp ngã của một “cái tôi” về sự thành đạt trong làm ăn hoặc sở hữu về tài sản vật chất hay dáng vẻ bề ngoài. Tất cả cũng chỉ để tôn vinh “cái tôi” ích kỷ này, và lòng kiêu ngạo thể hiện sự cống cao, ngã mạn khi thấy mình hơn người; chính vì vậy ta thường hay khinh khi người khác. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Pháp Đạt đến lễ Lục Tổ mà đầu không sát đất, thấy thế Tổ liền quở “trong tâm ông ắt chứa vật gì?” Pháp Đạt liền thưa, “con tụng kinh Pháp Hoa hơn 3000 bộ”. Mặc dù Pháp Đạt đến lễ Tổ nhưng nghĩ mình giỏi hơn Tổ nên trong lòng không cung kính mà tỏ ra thái độ coi thường. Sự chấp trước đó cho ta thấy người này không chấp nhận Lục Tổ giỏi hơn mình nên mới tỏ ra thái độ như thế. Sống đơn giản dễ dàng khiến cho nhiều người yêu mến, thích gần gũi, giao tiếp, nói chuyện vui vẻ với nhau, dễ phát sinh những mối quan hệ tốt đẹp với người. Người sống dễ dàng giống như nồi không thủng đáy, không có vết nứt. Ta có thể chế nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước mãi sạch, trong như thế để mọi người cùng được uống. Người như thế không hay giận dữ, nổi nóng vì những điều nhỏ nhặt mà thường quan tâm đến những gì người khác nói, có khả năng lắng nghe để dễ dàng cảm thông. Biết lắng nghe là hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm, là một nghệ thuật sống luôn làm người khác cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Hiền hoà là một đức tính đi ngược lại sự lấn lướt, muốn hơn người. Người biết bao dung và độ lượng luôn thấy được lỗi của mình nhiều hơn là thấy lỗi của người khác. Người tu nhờ thấy được lỗi mình mới biết mình sai và nhờ đó sửa sai nên ngày càng sống tốt hơn mà chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc; ngược lại, người hay thấy lỗi người khác không ích lợi gì mà còn làm tâm mình vẩn đục, khiến ta cảm thấy bực bội và không ưa người khác, từ đó dẫn đến oán giận, thù hằn mà sinh ra tranh cãi, bất đồng quan điểm với nhau. Người thanh đạm là người sống trong sạch, đạm bạc, luôn an nhiên, tự tại và thanh thản. Do đó, ta cần phải biết bằng lòng với hiện tại, hoàn cảnh môi trường sống mà khéo thể hiện chất liệu từ bi đối với mọi người. Tri túc có nghĩa là biết đủ, người biết đủ là người không có nhiều tham cầu cá nhân quá đáng nên sống an ổn, nhẹ nhàng. Mọi phương tiện từ nhà cửa, vật dụng, đồ đạc cho đến áo quần hay ăn uống ta đều sắp xếp hài hoà. Nhờ thế ta được an vui, hạnh phúc vì ta biết bằng lòng với những gì mình đang có, không cầu kỳ, xa hoa. Chúng ta nên hiểu rằng, dầu ta có mua sắm, sở hữu nhiều thứ vật chất cũng chỉ làm cho tâm ta thêm tham lam, ích kỷ và dính mắc vào chúng. Dĩ nhiên, đời sống chúng ta cũng cần có những thứ cơ bản để đáp ứng nhu cầu hằng ngày cho được thêm thoải mái. Ham muốn nhiều thì khổ đau càng lớn, vì lòng tham con người không biết bao nhiêu mới cho là đủ. Nếu chúng ta là người biết đủ, mình sẽ dễ dàng buông xả được phiền não, khổ đau. Trước khi hiểu được thế nào là lòng từ bi, tình thương yêu chân thật, ta cần phải buông bớt mọi ý niệm tham cầu, chấp trước để “cái tôi” của mình rơi rụng bớt sự dính mắc. Không lăng xăng, rộn ràng thì ta không bị nhấn chìm trong lo lắng, sợ hãi. Nếu chúng ta không biết quay nhìn lại chính mình để thấy sự vọng động lăng xăng làm tâm ta càng thêm mệt mỏi, bồn chồn, lo lắng thì ta không có được phút giây nào yên lắng để suy gẫm, thiền quán nên không có được cơ hội bình yên, hạnh phúc từ nội tâm. Thanh đạm là một đời sống giản dị, ăn cũng giản dị và ngủ cũng giản dị. Chúng ta sống không làm khổ vợ con, làm khổ gia đình, người thân vì nhu cầu của mình. Người nào mà đời sống cao quá thì không thể phát triển được lòng từ bi thương xót đối với tất cả mọi người. Nhu cầu đời sống càng đơn giản thì việc phát triển lòng từ bi càng tốt đẹp. Hễ ta quá chú trọng đến nhu cầu của mình thì chúng ta phải lo cho mình nhiều hơn, và chúng ta sẽ làm khổ người khác. Chúng ta sẽ thấy những tâm hồn vô cảm đến độ tàn nhẫn vì chỉ nghĩ đến cá nhân của mình mà quên đi lợi ích của người khác. Chúng ta đừng trách họ, vì nếu nhu cầu chúng ta cao quá thì chúng ta cũng trở nên ích kỷ và chắc chắn là lòng từ bi sẽ bị giới hạn rất nhiều. Không rộn ràng là đời sống không lăng xăng, không vọng động. Ðiều này không có nghĩa chúng ta sống một cuộc sống quá đơn giản, không làm việc gì hết. Người nào bận rộn nhất là chứng tỏ họ có khả năng quản trị được thời gian. Họ sẽ có thì giờ riêng cho họ và họ cũng có thì giờ để làm nhiều việc khác. Nếu họ nhận công việc của ai giao phó thì sẽ hoàn thành một cách tốt đẹp. Ðiều này cho chúng ta thấy, chữ "rộn ràng" ở đây không có nghĩa là đời sống chúng ta không đa đoan. Một người đa đoan mà biết quản trị rất ngăn nắp thời gian của mình thì người đó sẽ có những giây phút rất bình yên. Thế nào là người lăng xăng, rộn ràng? Đó là người hay ôm đồm nhiều việc để chứng tỏ tài năng của mình. Nếu chúng ta vừa làm việc vừa điểm tâm, vừa coi báo vừa nghe điện thoại thì quả thật lăng xăng quá nhiều. Người lăng xăng, rộn ràng làm mất đi chính mình vì họ không còn thời gian để tịnh hoá thân tâm thì làm sao mở rộng lòng từ giúp cho người khác. Không rộn ràng là yếu tố để phát triển lòng từ bi rộng lớn. Biết cần kiệm cũng là một đức tính tốt thể hiện sự siêng năng, tinh cần, biết tiết kiệm những gì đã được tạo ra bằng sức lao động, công khó nhọc của người khác. Cần kiệm cũng có nghĩa là biết bằng lòng với những cái ít ỏi, không đòi hỏi sự quá đáng cho mình. Nếu cuộc đời ta sống chỉ để đuổi theo những ham muốn vật chất phù phiếm thì thật là uổng công vô ích, phí thời gian của cả một kiếp người. Cần kiệm còn có nghĩa là biết bằng lòng với cái càng ít càng tốt, chứ không phải cố gắng để có được nhiều thứ sở hữu cho riêng mình, nhờ vậy mà người biết cần kiệm lúc nào cũng được sống trong bình yên, hạnh phúc. Sự thanh tịnh của các căn là một trong những yếu chỉ Đức Phật đã hướng dẫn cho chúng ta, như mắt ta nhìn thấy cái gì đẹp thì liền thích thú, muốn chiếm đoạt ngay dù chỉ là một vật không đáng giá trị; chẳng hạn khi mình nhìn thấy một đoá hoa đẹp tại một công viên, mình liền muốn hái nó ngay và sẽ khiến khung cảnh công viên mất đi vẻ đẹp thiên nhiên. 6 căn mắt - tai - mũi - lưỡi - thân - ý luôn trong sáng là không bị chi phối quá nhiều bởi 6 trần cảnh bên ngoài là sắc - thinh - hương - vị - xúc - pháp. Ðức Phật nói, một người 6 căn luôn trong sáng tức là đối với sắc - thanh - hương - vị - xúc - pháp không hề cảm thấy dính mắc khoái lạc đến độ mất đi sự quân bình trong đời sống. Như vậy, chúng ta là người sống trong cuộc đời này thì mắt phải thấy, tai phải nghe, mũi phải ngửi, lưỡi phải nếm, thân phải xúc chạm và ý phải suy nghĩ; nhưng để giữ 6 căn luôn trong sáng thì ta nên biết tiết độ ở mức vừa phải. Thấy tranh thì cũng thích, thấy cảnh thì cũng thưởng thức nhưng chỉ ở mức vừa phải, đừng quá đam mê. Khi đã lệ thuộc, đã bám víu rồi thì chắc chắn đời sống chúng ta sẽ nghiêng về hướng đó và chúng ta không thể phát triển lòng từ bi. 6 cảnh chi phối chúng ta rất nhiều, đối với chúng nó ta nên giữ tâm quân bình để có thể sống không lệ thuộc. Có như vậy ta mới phát triển được tâm từ bi. Thực tập chánh niệm, tỉnh giác giúp ta nhận thức được nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy. Các căn của chúng ta lúc nào cũng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta thấy - nghe - ngửi - nếm - xúc chạm, do vậy ta phải luôn dòm chừng giác quan để khi thấy-nghe-ngửi-nếm-xúc chạm ta cũng không sinh tâm luyến ái hay ghét bỏ. Ưa thích thì bị đam mê, dính mắc vào chúng, ghét bỏ thì sinh ra bực tức, hờn mát, cái nào cũng làm cho ta khổ đau hết. Khi ta thấy cái gì thì đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ thêm bao nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét, chấp thủ vào đó; với các giác quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Giờ có lẽ chúng ta cũng đã hiểu và có thể thực hành như thế. Điều đó có thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở, tiếng động bên ngoài, đó là những lúc ta có thể thực hành khi nghe chỉ là nghe. Khi ta nhìn thấy một bông hoa đẹp, mình chỉ tập nhìn mà không nói rằng “tôi sẽ trồng loại hoa đó trong vườn", hay "cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng trong bình hoa", vì nó là hoa đẹp. Chúng ta hãy nhìn và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp xúc với sắc - thinh - hương - vị - xúc - pháp. Thanh tịnh các căn không có nghĩa là ta hủy bỏ các căn hay đè nén chúng, chỉ có nghĩa là ta nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất thật của chúng. Khi chân bị đau, ta liền biết đó là chân đau, cái biết của ta biết được chân đau. Khi chúng ta có thể thanh tịnh các căn, lòng ham muốn của ta cũng giảm bớt dần theo thời gian, giúp ta có được sự an vui, tự tại trong mọi hoàn cảnh. Vì lòng ham muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được bình yên. Lòng ham muốn càng mãnh liệt thì sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước muốn không được toại nguyện như ý. Thật thú vị khi biết trí tuệ là điều kiện để ta phát triển lòng từ bi. Kiến thức nhiều thì sinh lòng tham đắm, có trí tuệ thì chuyển hoá được lòng tham lam, ích kỷ. Trí tuệ được phát triển từ sự học hỏi Phật pháp và sự quán chiếu, nghiệm xét khi tu tập. Người Phật tử chân chính nếu không có trí tuệ thì không thể buông xả được phiền não tham-sân-si, nhờ có trí tuệ soi sáng nên ta mới thấy biết đúng như thật, biết rõ bản chất thật-hư của cuộc đời. Sự thành công, giàu có, cùng quyền cao chức trọng thường làm cho con người chấp ngã, phình trướng, gia tăng “cái tôi” của mình nhiều hơn. Chính vì vậy, người thiếu tu sẽ lầm đường lạc lối, chìm đắm trong cao sang, quyền quý mà làm tổn hại cho nhân loại. Ai chất chứa nhiều kiến thức thì gia tăng “cái tôi” và bám víu vào sự hiểu biết của mình, khi phải tranh luận họ thường đưa cái biết của mình vào, nên rốt cuộc chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả. Ta phải tu tập cho đến không luyến niệm, có nghĩa là luyến ái bám víu vào một đối tượng nào đó. Đức Phật đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam và nữ. Người nam thì sự tham muốn rất mãnh liệt là biểu hiện của sự mạnh mẽ, quyết đoán. Người nữ thì thiên về tình cảm, thường chờ đợi sự tìm đến của người khác, giống như dây leo muốn nương tựa vào một thân cây. Trái lại, người tự tin có thể tự đứng trên đôi chân, tin chắc vào khả năng, triển vọng của mình. Nếu chúng ta thấy người khác sân hận thì ta biết rằng họ đang khổ đau lắm, vì thân tâm họ bị đốt cháy bởi sự chấp thân này làm ngã do “cái tôi” ích kỷ của mình. Ta không để lòng sân đó lôi kéo mình chạy theo trong tức tối, bực bội. Nếu ai đó đang buồn rầu, lo âu vì một chuyện không vui nào đó, ta biết họ đang bị một thứ ma mị nào đó làm cho tình cảm bị cảm xúc vui-buồn tác động, ta không ủ rũ, u sầu theo họ vì ta đang trong từng phút giây tỉnh thức, thấy rõ từng nỗi khổ, niềm đau của họ đang bị dày dò, bức bách. Nếu người khác có ý chỉ trích một ai ta cũng không nên hùa theo vì đó là chuyện riêng phải trái của họ, ta chỉ biết lắng nghe để thấy rõ mọi diễn biến đang xảy ra, nhờ vậy ta biết được ai đúng, ai sai, ta không thích nói những chuyện như thế để làm tổn hại thân tâm mình. Thực hành như vậy giúp ta có thể làm chủ được các cảm giác của mình. Khi tiếp duyên xúc cảnh ta chỉ biết ghi nhận, chúng như thế nào thì biết rõ như thế đó, không cần thêm tạp niệm nào. Khi chúng ta không làm chủ được bản thân thì ta sẽ phát sinh lòng sợ hãi, sẽ bị khiếp đảm bởi những chuyện không đâu. Khi không kiềm chế được sự nóng giận, ta sẽ sinh ra tranh cãi, lớn tiếng hơn thua mà đánh mất mình; và khi không làm chủ được các cảm xúc của mình, ta sẽ bị mọi người lôi kéo vào các cuộc chiến như nói xấu kẻ khác, phê bình, chỉ trích họ một cách gay gắt. Để không bị sự tác động của đám đông lôi cuốn, chúng ta cần phải nhận diện được những cảm xúc của riêng mình, nó diễn biến ra sao ta đều biết hết. Ta phải tự biết khi nào chúng tốt đẹp, khi nào chúng xấu ác mà làm chủ bản thân. Thật ra, sự nóng giận trước tiên sẽ làm thương tổn chính mình, sau đó mới làm ảnh hưởng tới người khác. Khi nóng giận ta có những lời nói không hiền lành, tay chân không đàng hoàng, mặt mày nhăn nhó rất khó coi. Ai dù đẹp cách mấy nhưng khi nóng giận cũng biến thành ma, trông rất dữ tợn. Cái làm cho mình đau khổ quá nhiều, tai hại quá lớn như vậy mà ta vẫn bị nó chi phối, sai sử. Chúng ta biết tu rồi thì phải khôn ngoan, sáng suốt. Những gì tai hại phải chừa bỏ. Như xử sự với người trong nhà, với hàng xóm lúc nào cũng ôn hòa, hiền lành, tử tế, không bao giờ nổi nóng thì mọi người đâu có giận, ghét mình. Khi ta có tai nạn gì mọi người đều giúp đỡ. Như vậy, việc làm hiền lành của mình sẽ khiến ta được người khác mến thương. Chúng ta tu là để buông xả phiền não tham - sân - si, sống lại tính biết sáng suốt của chính mình chớ không phải tu để cầu Phật ban cho cái này, cái kia. Người chỉ lo tu tâm sửa tánh hiền thiện trên nền tảng nhân quả mới thật là người biết tỉnh thức; và cuối cùng, Phật dạy chúng ta phải biết tránh xa những điều các bậc hiền Thánh chê bai, phải phát nguyện gìn giữ 5 điều đạo đức bằng cách không làm các việc ác mà hay làm các việc lành, giữ tâm ý luôn thanh tịnh, sáng suốt. Bất cứ một ai khi có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới nào cũng đáng bị các bậc hiền Thánh chê trách; như người hay sát sinh hại vật thì gây ra oán giận, thù hằn, nhân quả tiếp nối không có ngày thôi dứt bởi tâm niệm trả thù. Luật pháp chỉ bắt bỏ tù hoặc xử trảm khi ai làm đả thương hoặc giết người, chưa có luật về sự giết hại các loài vật, nhưng có luật bảo vệ các loài thú hoang dã, quý hiếm. Người hay trộm cướp, lường gạt của người khác cũng là một thói quen xấu làm hại mình hại người, từ gia đình cho đến xã hội không ai chấp nhận nên có luật pháp để răn đe, phạt tù tội tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Kẻ tà dâm hay lăng loàn, mất nết cũng bị luật pháp nghiêm cấm. Nói dóc láo, dối gian để lợi dụng, lừa gạt kẻ khác cũng là một hành vi không tốt đánh mất lòng từ bi của chính mình. Uống rượu say sưa và hút chích xì ke, ma tuý làm tàn hại thân tâm, hao tiền tốn của gia đình, người thân và xã hội, làm huỷ hoại nhân cách đạo đức làm người khi vướng vào vòng này, chúng ta là người Phật tử thì càng không nên vi phạm vì đó là những điều đáng chê trách. Những người hay giận dữ, sân hận cũng rất đáng chê trách vì họ làm đau khổ cho mình và người khác. Lòng sân hận rất nguy hiểm, khi ta để nó bộc phát thì có khi thiêu đốt cả rừng công đức mà bấy lâu nay mình tích luỹ. Sự ham muốn quá đáng do lòng tham lam, ích kỷ tác động tuy không bị chỉ trích bao nhiêu, nhưng nếu trong ta có hai thứ này thì sự phát triển con người tâm linh của mình sẽ bị hạn chế. Người tham lam và sân hận quá sẽ làm giảm bớt sự phát triển lòng từ bi của họ nên cũng khó bề tu tỉnh. Chúng ta là người Phật tử chân chính cũng cần phải biết những gì sẽ đưa đến sự tổn hại cho người và vật cùng những gì sẽ đem lại sự lợi ích tốt đẹp. Tất cả chúng ta đều có lương tâm để tự biết hành động nào đáng chê trách và cần phải tránh xa, nhưng chúng ta thường hay bào chữa “họ làm vậy nên sao tôi không nóng giận cho được”. Chúng ta cứ hay đổ thừa tại - bị - thì - là mà không dám can đảm nhìn nhận sự thật, chỉ cần chúng ta nhận diện được mặt mũi của nó khi ta mới khởi nghĩ, nói năng hay làm một việc gì đó thì sẽ biết rõ nó tốt hay xấu; khi biết như vậy ta sẽ tự biết điều chỉnh lại những gì sai trái do bản thân suy nghĩ và hành động. Mỗi hành giả phải nên hằng ghi nhớ trong tâm những điều sau đây: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được bình yên, hạnh phúc, an lạc, thái bình. Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện này trong tâm thì chúng ta sẽ không bao giờ có những suy nghĩ, lời nói phê bình, chỉ trích hay chống báng lại một ai. Chúng ta cần hướng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Trước mắt, chúng ta chỉ thấy được loài người, các loài vật, còn những loài khác phải có thiên nhãn mới thấy hết chúng đang hiện hữu. Do đó, những gì ta không thể thấy nghe nhưng vẫn có thể hiện hữu trong bầu vũ trụ bao la này. Chúng ta luôn mong mỏi cho tất cả chúng sinh trên thế gian này đều được sống trong bình yên, hạnh phúc. Người Phật tử chân chính không bao giờ có tâm làm tổn hại đến một chúng sinh nào, ta luôn có tấm lòng vì tình người trong cuộc sống. Nếu chúng ta luôn biết suy nghĩ không làm tổn hại đến một ai thì ta sẽ được bình an, hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh và ta luôn nguyện không làm hại bất cứ một chúng sinh nào, không lừa đảo, dối gạt người, cũng chớ bất mãn một điều gì và cũng đừng mong ai đau khổ. Hãy nguyện cho tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, đó là lời nguyện chân chính; luôn mong mỏi muôn loài vật sống biết đùm bọc, thương yêu, như người mẹ hiền luôn hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa con duy nhất của mình. Chúng ta nên nuôi dưỡng một tình thương như thế đối với tất cả chúng sinh trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật dạy, nếu chúng ta có thể xếp được xương của tất cả những người làm mẹ, làm cha của mình trong hằng hà sa số kiếp nối tiếp nhau thì xương đó có thể chất cao thành núi đủ để bao quanh trái đất này. Tâm từ có thể siêu việt đến cõi trời, ngạ quỷ hay cùng khắp trong vũ trụ. Tình thương được trãi rộng đến tất cả chúng sinh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm ô, cấu uế làm vẩn đục. Đó là tâm tỉnh thức của những người biết buông xả mọi phiền muộn, khổ đau. Tâm phàm phu lúc nào cũng bị phiền não bức bách làm giao động, bất an, giống như chú chuột hay ngậm nhắm các thứ đồ đạc linh tinh. Kế đến là tâm không hẹp hòi, oan trái, Không hờn giận, căm thù. Người tu giận không quá một đêm huống chi là phải chất chứa tâm thù hận trong lòng. Dù ở đâu, đi đứng hay ngồi nằm thì ta cũng nên gieo trồng hạt giống lòng từ bi. Khi là cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn trong việc biểu lộ tình cảm với con cái của mình và cũng biết rõ tình cảm của mình đối với chúng ra sao, cũng như ta vẫn nhớ đến cách cư xử của cha mẹ mình lúc nào cũng thương yêu con cái hết lòng. Với những kinh nghiệm cá nhân này làm nền tảng, chúng ta có thể cố gắng để trãi rộng tình thương xa hơn nữa đối với những người chưa quen biết. Ta có một đời sống thánh thiện ngay nơi trong lòng mỗi người, điều này tạo cho ta cảm giác vui vẻ, yên ổn trong mọi hoàn cảnh. Đó là một cách sống thánh thiện ngay trong hiện tại. Sống giữa đời trần tục nhưng ta không đam mê, dính mắc, ái nhiễm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều. Mọi tham muốn luyến ái đều được chuyển hoá nên tâm ta an ổn, nhẹ nhàng. Muốn được như vậy, trước hết ta phải phát khởi tâm từ bi thương yêu đến tất cả chúng sinh như thể thương yêu đứa con duy nhất của mình. Đó là những điểm trọng yếu mà đức Phật đã hướng dẫn cho ta, những lời dạy rõ ràng làm tâm chúng ta luôn được trong sạch, sáng suốt. Ngày xưa, có người tìm đến đức Phật để thưa hỏi một vấn đề. Ông ta nói ai cũng nghe pháp của Phật trong nhiều năm nay, tại sao có những Tăng Ni đệ tử Phật nhờ nghe pháp mà hoàn toàn thay đổi tốt đẹp, trở nên hiền hoà, tử tế, từ bi đối với mọi người; nhưng cũng có những người không thay đổi được gì cả, thậm chí có người còn đánh mất lòng thương yêu chân thật trong khi tất cả đều là đệ tử Phật đà. Phật chỉ dạy, “Ta không phải là thần linh, thượng đế hay ban phước giáng hoạ, Ta chỉ là người thầy hướng dẫn, còn làm được hay không là do những người đó”.
Lòng từ bi là tình thương yêu chân thật, là kết quả của sự chuyển hóa tự thân với tấm lòng vô ngã, vị tha trong sự hiểu biết, cảm thông và tha thứ. Lòng bao dung hướng tâm chúng ta rộng mở để tiếp thu những ý kiến, quan điểm và niềm tin trong cuộc sống. Lòng tha thứ giúp ta bỏ đi cảm giác thua thiệt rồi gây ác cảm và thù hận khi người khác xúc phạm mình. Hiểu biết để cảm thông nghĩa là ta đặt bản thân vào hoàn cảnh khó khăn của người khác khi xảy ra xung đột.
Những đức tính ấy giúp ta xoa dịu bớt nỗi khổ, niềm đau để mang lại tình thương yêu chân thành. Đạo Phật luôn lấy từ bi song hành với trí tuệ, như đôi cánh của một con chim. Trí tuệ ở đây là nhận ra chân lý của cuộc đời làm cho tâm được tự tại, giải thoát. Việc thực hành tâm từ bi trước hết là thực hành lòng vị tha, sự khoan dung và hiểu biết, cảm thông. Do đó, nó là cái vô cùng quan trọng để đạt đến sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Tâm từ bi cũng là liều thuốc giải độc hữu hiệu cho sự ganh ghét, tật đố, oán giận, thù hằn khởi lên trong tâm mỗi người. Chúng ta biết rằng, tinh thần tiêu cực có thể sản sinh ra những độc tố phá hủy sức khỏe, thân thể lẫn tinh thần. Trong những độc tố khác nhau ấy, tâm hận thù bị dồn nén tạo nên sự hỗn loạn của tâm lý, là nguy cơ đưa đến chứng rối loạn thần kinh và bệnh trầm cảm. Ngược lại, khi tình thương được tăng trưởng thì con tim và tâm hồn mở rộng để chấp nhận mọi tình huống với mọi người và xoa dịu nỗi đau bằng tình thương, đưa bàn tay thân thiện tiếp đón người khác khi họ cần giúp đỡ. Từ bi là năng lượng đủ ấm áp để chữa lành được vết thương, đủ mạnh mẽ để vượt qua trở ngại. Đó là năng lượng tiềm ẩn cần thiết cho nhân loại, là nguồn năng lực quý giá bên trong mà tất cả chúng ta có thể trau dồi để phát triển và làm lợi ích cho mọi người. Để đạt được tỉnh thức trong cuộc sống ta cần phải tập phát triển tâm từ bi. Từ bi là biết chia sẻ niềm vui và nỗi buồn cho nhiều người khác. Phần nhiều các Phật tử cứ nghĩ ai hiền lành là dễ thương, còn kẻ hung dữ thì dễ ghét. Như vậy, tâm mình còn thương người này, ghét bỏ người kia nên đâu thể gọi là lòng từ bi bình đẳng. Ta phải làm sao để người hiền mình vẫn thương mà người dữ mình cũng không ghét. Chúng ta khéo tu như vậy thì lòng từ bi mới ngày càng rộng lớn. Tại sao người hung dữ ta không ghét? Vì khi họ nổi nóng, nói lớn tiếng nạt nộ một ai đó là họ đã bị khổ đau hành hạ rồi. Họ đã khổ nên ta cần phải thương họ, tìm cách giúp đỡ, an ủi, động viên để làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau của họ. Cho nên, biết con cái mình dở thì cha mẹ phải thương, phải khéo tìm cách này cách khác để khuyến dụ, dạy dỗ, nhắc nhở. Tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp mà giúp con cái hiểu biết để thức tỉnh. Từ bi trong đạo Phật là thương yêu bình đẳng tất cả chứ không phải chỉ thương người tốt mà ghét bỏ người xấu. Nhờ có tâm từ bi rộng lớn mà chúng ta mới có cơ hội tạo được nhiều công đức. Cho nên, từ bi là tập thương người một cách bình đẳng, bất luận người hiền hay dữ ta cũng đều thương xót, giúp đỡ như nhau khi cần thiết. Người lỡ tạo những điều xấu xa, tội lỗi thì ai cũng ghét bỏ nên rất khổ sở vô cùng. Vì vậy, đối với người hung dữ chúng ta tìm cách nhắc nhở, khuyến dụ để họ trở nên hiền lành, như vậy mới thực là người có tâm từ bi không bỏ một ai. Nếu chúng ta cũng ghét bỏ như những người khác thì mình vô tình đẩy họ vào hố sâu tội lỗi không có ngày thôi dứt.
Như vậy, người biết tu tỉnh nhờ biết nhẫn nhục, nhờ có tấm lòng từ bi thương xót nên mới tăng trưởng công đức. Từ bi và nhẫn nhục đâu phải hao tiền tốn của gì mới có mà chỉ trong nội tâm mình phát ra. Cho nên, chúng ta phải làm sao tạo được những công đức và đó mới chính là tài sản lâu dài. Tất cả chúng ta vì thương mình, muốn lợi ích cho nhiều người thì phải cố gắng tu tạo để phát triển tâm từ bi rộng lớn bởi đó là cái của mình, không ai có thể lấy được và không bị 5 nhà lấy mất. Chúng ta tu là phải tỉnh sáng chứ không thể mù tối hoài được. Nên vì vậy, những ai là người tu hành chân chính đều phải chuẩn bị cho mình điều này ngay trong đời này. Nếu gia đình và xã hội nào vợ chồng con cái đều biết qui y Tam bảo, biết giữ 5 giới lành thì cuộc sống sẽ hiền lành, đạo đức, không sợ trộm cướp, tà dâm hoặc thù hằn, ghét bỏ bởi ai cũng ý thức việc tu hành của mình. Người khéo biết tu thì tránh nhân xấu ác, như ngành y luôn khuyến khích ngừa bệnh hơn trị bệnh, đó là phù hợp với lời Phật dạy. Nhân xấu chúng ta không tạo thì quả xấu làm gì có, kẻ mê chờ quả khổ đến làm sao tránh khỏi, như người ăn trộm không biết sợ nhân xấu, đến khi bị bắt chịu tù tội mới sợ quả khổ. Đó là người sợ quả mà không biết sợ nhân. Khi hiểu rõ như thế, người tỉnh luôn sáng suốt không tạo nghiệp nhân ác nên chắc chắn không bị quả xấu. Phật nói, “Bồ - tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ - tát biết nhân ác liền tránh nên không sợ quả xấu. Kẻ mê sợ quả vì khi vui chơi trác táng không sợ, tới khi gặp quả xấu thì than trời, trách đất. Cho nên, nói tới tu là nói tới người biết tỉnh sáng chứ không phải người ngu si, người mê vui trên sự đau khổ của kẻ khác, người tỉnh chỉ vui cái vui chung của nhiều người biết làm việc tốt. Ở đây, Phật dạy người đời khi được những món ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều hay sắc - thinh - hương - vị - xúc - pháp khi cảm thấy vừa ý, hài lòng thì cho là vui. Chẳng những người đời mà tất cả chư Thiên cũng thấy như thế. Người trời thấy ngũ dục là vui nhưng khi chúng bị hoại diệt, tức khi chúng mất đi thì chừng đó mới thấy khổ nên trong người hiện lên 5 tướng suy. Bậc Thánh thấy vui khi nơi thân này đoạn diệt được phiền não tham - sân - si là cái mầm dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Cái vui khi dứt mầm sanh tử mới là cái vui chân thật, vĩnh viễn và lâu dài. Sau đây, chúng tôi sẽ nêu lên những cái vui của người biết tu tỉnh. Người biết tu tỉnh thì không làm các điều ác mà hay làm các việc lành, lúc nào cũng luôn giữ tâm ý mình được thanh tịnh, trong sáng, lặng lẽ nên vui. Lúc ngồi dưới gốc cây nhìn trời mây, cây cỏ, hoa lá, tâm hồn thanh thản, an định, cảm nhận một niềm vui tràn ngập khắp thân tâm, cảnh vật. Người tỉnh tu khi tâm thanh tịnh sẽ vui trên sự bình yên, hạnh phúc của vạn vật, không làm tổn hại bất cứ loài vật nào. Người đời ở chỗ vắng vẻ thì buồn chán, thường vui thích ở nơi nhộn nhịp, ồn náo. Lại nữa, người tu tỉnh vui khi phá được vô minh, phiền não tham - sân - si. Giả sử có người gièm pha, chỉ trích, nói lời nhạo báng Phật pháp thì người tu nghe qua khởi niệm bực bội, muốn nói lại cho đã giận thì liền tỉnh giác, biết giận là phiền não mê mờ, nói lời xúc chạm gây buồn khổ cho người là tội lỗi nên ngang đó liền thôi, cơn giận từ từ lắng xuống; sau đó tâm được bình an vì lòng vui sướng thấy mình chiến thắng được cơn sân giận. Nếu ta không thắng được cơn giận thì phát ngôn bừa bãi, nói ra những lời đau đầu, nhức óc, kẻ nói qua người trả lại, lúc đầu thì đấu khẩu, sau thì đấu đá tay chân… Như vậy, vô tình làm khổ đau cho nhau mà chẳng được lợi ích gì. Giờ đây chúng ta tự phản tỉnh và thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm sân vừa khởi lên liền biết, không chạy theo nó. Đó là tự thắng mình, thắng được phiền não sân giận. Thế là mình được an ổn và mối quan hệ giữa mình và người bình thường, vui vẻ, không có chuyện buồn thương, giận ghét xảy ra. Thế cho nên người biết tu vui khi thắng được phiền não tham - sân - si, một cơn giận là một niệm buồn khởi lên liền biết dừng ngay, cứ như thế mà tu tỉnh từng phút, từng giờ, cho đến hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự an vui, hạnh phúc được trọn vẹn; ngược lại, hễ ai đụng tới là buồn giận, không biết tìm cách chuyển hoá chúng thì đau khổ dài dài. Như vậy, người tu tỉnh phá được vô minh, phiền não là gốc vui chân thật. Ngược lại, chúng ta để cho vô minh tăng trưởng, không điều phục nó là gốc của đau khổ. Vì vậy người tu phải thường xuyên phản tỉnh, chế ngự phiền não để được an vui, hạnh phúc. Thế gian có nhiều người thật đáng thương, hễ ai nói hay làm điều gì trái ý thì họ lớn tiếng, nạt nộ trả lại cho bằng được mới vừa lòng. Lại nữa, người tu tỉnh vui khi biết làm lợi ích cho nhiều người. Họ đi làm từ thiện xã hội, đem cơm áo, gạo tiền, thuốc men, đồ đạt… đến tận vùng sâu, vùng xa đưa tận tay cho những người nghèo khổ, thiếu thốn trong cơn hoạn nạn; hoặc họ hướng dẫn, sẻ chia cho nhiều người có niềm tin trong cuộc sống, biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc. Người tu tỉnh càng làm lợi ích cho nhiều người thì càng giúp mình biết cách chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại chứ không phải tìm cầu đâu xa. Lại nữa, người tu tỉnh vui khi buông xả được phiền não tham - sân - si, nhận ra ông Phật của chính mình ngay nơi thân này. Trong mỗi người ai cũng có tính biết sáng suốt nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; giờ đây, biết khởi niệm chạy theo phải quấy, tốt xấu, đúng sai là vọng tưởng, là hư dối nên quyết định trở lại sống với ông Phật của mình thì được cái vui lâu dài. Nếu chúng ta thấy tu là vui thì hãy nên cố gắng nỗ lực tiến tu để sống được với cái biết chân thật ngay nơi thân này. Chúng ta thấy ở thế gian này có ai giàu sang, nhiều quyền thế, thọ hưởng ngũ dục mà không khỏi đau bệnh, già yếu, chết chóc hay không? Khi nào chúng ta thoát ra khỏi cái khổ sanh tử thì mới được cái vui chân thật, lâu dài; nếu còn ở trong sanh tử mà có nhiều tiền lắm của thì cuối cùng cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ có người tỉnh thức biết buông xả vô minh, phiền não mới thoát khỏi già - bệnh - chết và được cái vui lâu dài. Chúng ta thường thấy người thế gian không sáng suốt nên lấy cái khổ của người, vật để làm cái vui của mình. Người biết tu tỉnh luôn có lòng từ bi nên không bao giờ lấy cái vui trên sự đau khổ của người, vật. Tất cả chúng ta phát tâm tu là nguyện sống đời bình yên, hạnh phúc. Vậy người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành chứ không phải tu cầm chừng, nếu không lo tu khi cái chết đến làm sao trở tay cho kịp? Thế cho nên, người phát tâm tu chẳng những khi còn trẻ phải lo tu hành mà lúc về già lại càng phải tu nhiều hơn nữa, như thế mới có được nguồn an vui, hạnh phúc trọn vẹn. Được vậy, chúng ta sống trên cõi đời này không uổng phí chút nào, còn hơn sống bảy tám mươi năm mà chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, vui chơi, hưởng thụ, rồi khi già - bệnh - chết không biết mình đi về đâu . Vậy mà hầu hết những kẻ mê đều mắc kẹt trong đó. Chúng ta biết tu là người biết tỉnh thức, còn người không biết tu tỉnh tuy sống mà như kẻ say, vui trong cái mê muội trên sự đau khổ của người và vật. Vì vậy, chúng ta hãy mau sớm tỉnh thức, vui trong những việc làm thiện ích giúp người, cứu vật; được vậy khi sống cũng như lúc sắp lâm chung đều an ổn, nhẹ nhàng, bình yên, hạnh phúc. Tóm lại, người biết tu tỉnh sẽ ý thức trong việc trau dồi, tích luỹ nhân cách, phẩm chất đạo đức để hoàn thiện chính mình và còn mở lòng từ bi chia vui, sớt khổ trong tình thương yêu bình đẳng. Muốn được tỉnh thức trọn vẹn trước tiên chúng ta phải biết quy kính Tam bảo, phát nguyện giữ gìn những giới đức để không làm tổn hại cho người và vật; không phạm 5 giới cấm, thọ Bát quan trai, tu Thập thiện và biết cung kính bố thí, cúng dường hay giúp đỡ, sẻ chia bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Nhờ vậy ta luôn sống an ổn, nhẹ nhàng trong bình yên, hạnh phúc. Nhiều người quan niệm tôi khỏi cần quy y Tam bảo nhưng vẫn giữ giới, tu Thập thiện và làm nhiều việc phước đức để hoàn thiện chính mình, quan điểm trên không phải là sai, nhưng có điều này chúng ta cần tham khảo để hiểu và thông suốt cho tường tận hơn. Người biết sống hiền lương đạo đức và hay thường xuyên giúp đỡ người khác mà còn biết tu mười điều thiện thì dĩ nhiên sau này được phước báo lớn lao là sinh về cõi Trời làm Thiên ma, hưởng thụ ngũ dục lừng lẫy, như ý, muốn gì được đó; nhưng vì không có quy kính Tam bảo nên làm Thiên ma chống lại Phật pháp vì nghĩ mình là chúa tể các loài ma. “Ma” ở đây là sự hưởng thụ ngũ dục đầy đủ; dư dã tiền bạc, của cải; danh vọng, quyền lực tối cao; có nhiều thiên nữ cung kính, hầu hạ; ăn món ngon, vật lạ và ngủ nghỉ thoải mái; chính vì vậy mà quên lãng việc tu hành của mình, chỉ lo thụ hưởng ngũ dục tối cao, đến khi phước hết vẫn bị đoạ lạc trở lại như thường. Nếu làm phước ít hơn thì được sinh làm người trở lại, tuỳ theo mức độ phước báo mà được làm lãnh đạo các cấp từ thấp đến cao; như tích lũy phước vừa thì làm chủ tịch xã, cao hơn một chút làm cấp huyện và cứ như thế tăng lên theo phước báo. Thường người có nhiều phước báo mới được làm quan, làm quan thì mọi quyền lợi vật chất được đầy đủ. Mỗi ngày bận bịu với công kia việc nọ và được sự chiêu đãi của kẻ dưới quyền nên tối ngày ăn uống, tiệc tùng, nhà cửa sang trọng, nệm ấm chăn êm; gia đình người thân cũng được lo riêng chu toàn như thế. Làm lãnh đạo thì giúp xã hội, đất nước phát triển tốt đẹp nhiều mặt, nhưng vì không quy hướng Tam bảo, phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nên khi có quyền chỉ lo riêng cho gia đình, người thân; bên cạnh đó còn phải đối đầu với kinh tế, chính trị xã hội; vì phải bảo vệ quyền lợi, địa vị của mình mà bất chấp các thủ đoạn, dễ dẫn đến sát phạt lẫn nhau; chính vì vậy dễ sinh ân oán, thù hằn vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt. Khi còn đương chức thì mình có thể giúp đỡ nhiều người, khi hết kỳ hạn thì người khác lên và sẽ tìm cách khống chế lại mình. Chính vì những quyền lợi về chính trị mà chúng ta có thể tàn sát lẫn nhau để giành quyền lợi cho đảng phái của mình, do đó mà thế giới này luôn có xung đột, tranh chấp, chiến tranh để giành quyền sống được đầy đủ, sung túc hơn. Người lãnh đạo một nước nếu là Phật tử chân chính, thuần thành thì họ sẽ đóng góp, phục vụ, dấn thân vì lợi ích chung mà ngày càng làm tốt mọi công việc. Cụ thể như đất nước Thái Lan gần 40 năm về trước so với Việt Nam họ thua xa lắc về mọi phương diện từ kinh tế, chính trị, đời sống an sinh xã hội; vậy mà giờ đây đất nước họ toàn thể người dân là Phật tử, kể cả những người lãnh đạo tối cao. Họ làm việc tôn trọng nhau trên tinh thần Phật pháp, nhờ vậy mà đất nước họ tiến bộ vượt bật về mọi mặt từ vật chất cho đến tâm linh con người. Họ biết đưa Phật pháp vào thực tế cuộc sống từ trong nhà trường cho đến bao trùm cả xã hội. Chính vì vậy mà đất nước họ tiến bộ vượt bật về mọi mặt. Từ người dân bình thường cho đến ông vua cao nhất đều phải tu học Phật pháp và mỗi người thanh niên đều phải thực tập lời Phật dạy tối thiểu từ 1 năm cho đến 3 năm. Đất nước Nhật Bản của ngày xa xưa là phát xít, có thể nói họ là những người tàn ác nhất hành tinh này. Họ thống trị Việt Nam chỉ một thời gian ngắn mà hơn hai triệu người bị chết vì đói, không có lương thực để sống. Sau khi bị người Mỹ ném hai trái bom nguyên tử và phải đầu hàng vô điều kiện, từ đó họ bắt đầu có suy nghĩ vận dụng, thay đổi chính sách và lấy Phật giáo làm nền tảng để áp dụng cho tất cả mọi công dân. Giờ đây, họ đã thay da đổi thịt, từ con người tàn ác trở thành con người hiền hoà, nhân hậu, có nền thông tin khoa học điện tử hiện đại, tiến bộ nhất thế giới. Hình ảnh ấn tượng nhất để lại trong lòng người sau trận động đất là vô số con người thiếu thốn, đói khát phải sắp hàng đề chờ nhận phần ăn. Một chú bé khoảng 6, 7 tuối thân thể xanh xao, gầy còm, được người khác ưu tiên cho nhiều phần ăn nhưng em không nhận mà nói để dành cho những người đang thiếu thốn. Tiền bạc, của cải trôi lênh láng không phải của mình thì người dân đem giao cho nhà chức trách để trao lại cho khổ chủ. Tinh thần Phật pháp đã thấm nhuần trong lòng người dân nước Nhật nên khi họ gặp hoạn nạn, khó khăn như thế mà vẫn vui, vẫn chia sớt đầy đủ cho nhau không cần giành giựt. Chúng tôi có biết một Phật tử đã đi hợp tác lao động tại đất nước này, anh ta nói sống ở nước Nhật khỏi phải lo nạn trộm cướp, giựt dọc linh tinh. Xe cộ để ngoài đường bình thường khỏi cần phải khoá vì ai cũng có lòng tự trọng cao, cái gì của mình mới xài, không phải của mình thì thôi, không tự ý lấy. Người dân ý thức cao như vậy nhờ biết giữ Năm giới của nhà Phật. Chúng tôi nhiều năm nay chuyên đi làm từ thiện ở vùng sâu, vùng xa để giúp đỡ người hoạn nạn nhưng chưa bao giờ thấy được những con người biết chia sẻ yêu thương với nhau thật sự. Họ lăng xăng, lao chao xúm lại giành giựt phần ít, phần nhiều. Rồi có những chỗ người có chức quyền ăn xén ăn bớt của người hoạn nạn công khai, chúng tôi nhìn những hình ảnh đau thương này mà hai hàng rơi lệ. Thật ra, nơi nào được Phật pháp thấm nhuần thì nơi đó có sự yêu thương bằng tình người trong cuộc sống với tấm lòng từ - bi - hỷ - xả và trái tim hiểu biết của họ tràn ngập khắp cả lòng người. Chúng ta ai cũng có thể biết và hiểu những gì là xấu xa, tội lỗi làm tổn hại cho người và vật; nhưng một số người vẫn tán tận lương tâm, sống mất đạo đức lại còn chèn ép, bóc lột công khai của người khác. Người biết tu tỉnh chỉ vui khi thấy nhiều người cùng sống tốt đẹp, biết làm lợi ích cho xã hội trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Kẻ mê chỉ vui trên sự đau khổ của người và vật thì hỏi thế gian này sao không ngày càng mọc thêm những nhà tù để chứa những con người tệ nạn đó. Chúng tôi khi xưa cũng là những kẻ đã từng mê muội, chưa từng biết khuất phục một ai; vậy mà từ ngày gặp được Phật pháp cho đến bây giờ chúng tôi cũng đã thay da đổi thịt để chừa bỏ những thói hư, tật xấu, tuy chưa hoàn toàn hết hẳn nhưng cũng giảm bớt đáng kể. Chút tâm tình cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa, chúng tôi luôn nguyện cầu hồng ân Tam bảo thường xuyên gia hộ cho tất cả mọi người trên thế gian này đều tỉnh thức hết, lấy cái vui vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà sống an ổn, nhẹ nhàng trong bình yên, hạnh phúc.
Bài “Niềm vui của người tỉnh thức”
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |