Chi tiết tin tức

Đạo Phật và môi trường

22:00:00 - 05/02/2022
(PGNĐ) -  Môi trường đang che chở và bảo bọc cho sự sống của chúng ta đang bị chính chúng ta tàn phá mỗi ngày. Hậu quả bi thảm đã tàn phá nhiều nơi trên thế giới như lũ lụt, thiên tai, sóng thần. Quả báo này lại là nguyên nhân tăng thêm sự mất cân bằng sinh thái làm cho con người càng thêm khốn khổ.

Hễ nói đến đạo Phật nhiều người liên tưởng ngay đến một tôn giáo chú trọng đến việc tu hành giải thoát hoặc nghĩ đến một mối đạo chỉ chú trọng đến từ bi hỷ xả. Thế nhưng khi tìm hiểu mối liên hệ sâu xa và những ảnh hưởng tích cực từ đạo Phật đến đời sống nhân loại, chúng ta mới vỡ lẽ đạo Phật lại có mối liên hệ mật thiết rất chặt chẽ đến việc bảo tồn hệ sinh thái và cải thiện môi trường hiệu quả nhất. Vì sao vậy? Như đã nói, vì đạo Phật là đạo từ bi trí tuệ, nếu chúng ta nhận thức một cách sâu sắc mọi vấn đề trong đời sống kết hợp với từ tâm của tất cả chúng ta thì chắc chắn rằng chúng ta sẽ không tổn hại đến bất cứ điều gì dù đối tượng là một cây kim hay ngọn cỏ, huống gì nói đến việc phá rừng lấp sông xẻ núi, tàn sát muôn loài, hủy diệt lẫn nhau. Chính những điều này đã chứng tỏ dù đạo Phật không trực tiếp chủ trương việc bảo vệ môi trường, nhưng kỳ thật đạo Phật lại là đạo sinh ra để giải quyết tận gốc những vấn nạn nghiêm trọng nhất về môi trường, mà các giải pháp bảo vệ môi trường trong đời sống thế gian xem ra chỉ có thể giải quyết ở phần ngọn và rất hạn chế.

Nói về việc bảo vệ môi trường ở nước ta thì ấn tượng sâu sắc mãi ghi đậm trong tâm hồn mỗi người dân nước Việt, đó là cùng nhau thực hiện việc trồng cây theo lời Bác Hồ phát động trong mỗi dịp tết đến. Tết trồng cây, đó chính là một biểu hiện nhân văn sâu sắc về đạo lý sống vị tha. Tức là sống để làm việc, để gánh vác, để hy sinh, để nghĩ đến thế hệ mai sau … chứ không phải sống để hưởng thụ! Và Bác Hồ đã từng xắn tay áo lên tự tay trồng cây không phải một năm mà là nhiều năm như vậy, không phải đợi đến Tết hay dịp lễ, mà trồng cây bất cứ nơi nào, lúc nào, hễ có điều kiện là Bác thực hiện việc trồng cây mà theo Bác là để làm gương sáng cho nhân dân trong việc bảo vệ môi trường.

Nhân loại vẫn đang lo ngại vì mâu thuẫn trầm trọng giữa những chỉ số phát triển kinh tế và sự tàn phá môi trường sống của con người. Theo một nghiên cứu gần đây nhất thì cho thấy theo tốc độ phá rừng hiện nay, với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất đi từ 17% đến 35% loài thực vật trong số 10 triệu loài. Vào năm 2040 hàng ngày sẽ có từ 20 đến 70 loài bị tuyệt chủng.

Xuất phát từ lòng thương yêu và tôn trọng sự sống của muôn loài, việc cấm sát sanh của đức Phật là một biểu hiện cụ thể nhất.

Thật vậy, môi trường đang che chở và bảo bọc cho sự sống của chúng ta đang bị chính chúng ta tàn phá mỗi ngày. Hậu quả bi thảm đã tàn phá nhiều nơi trên thế giới như lũ lụt, thiên tai, sóng thần. Quả báo này lại là nguyên nhân tăng thêm sự mất cân bằng sinh thái làm cho con người càng thêm khốn khổ.

Tại Ấn Độ hai mươi lăm thế kỷ trước, cũng đã từng xảy ra những trận mưa lũ kinh hoàng, chẳng hạn trong kinh tạng Pàli, đức Phật đã mô tả về một trận lũ lụt như sau: “Này các thầy Tỳ Kheo, một thời có mưa nổi lên. Khi mưa lớn nổi lên, này các Tỳ Kheo, lụt lớn sanh khởi. Do lụt lớn sanh khởi nên các làng bị cuốn trôi, các thị trấn bị cuốn trôi, các phố thị bị cuốn trôi”. (Kinh Tăng Chi I). Nguyên nhân gây nên vấn nạn này, theo đức Phật đó chính là do ô nhiễm và mất cân bằng hệ sinh thái môi trường. Trong một đoạn kinh, Ngài đã nêu ra những một vài tác nhân do hành vi con người gây ra: “Ví như, này các Tỳ Kheo, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động đụng bùn. Tại đây có một người đứng trên bờ, không thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn ... các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì cớ sao ? Vì nước bị khuấy đục” (Kinh Tăng Chi I).

Sự thẩm thấu về môi trường, về khí hậu và thời tiết của đức Phật không dừng lại ở đó, Ngài còn mô tả các hiện tượng do ảnh hưởng thời tiết liên quan đến mùa màng một cách sinh động như sau: “Khi nào thời tiết và năm đi sai quỹ đạo, khi ấy gió thổi sai lạc và trái mùa ... Khi nào trời mưa không điều hòa, khi ấy lúa chín trái mùa”. (Kinh Tăng Chi I).

Khi chúng ta bàn về những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống của nhân loại từ giáo pháp của đức Phật, chúng tôi nhận thấy, yếu tố cần thiết phải xét đến là cách giải quyết đời sống kinh tế của loài người mà đức Phật quan tâm đến. Bởi đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự tàn phá môi trường. Về điều này đức Phật đã dạy đệ tử cần phải thực hiện “chánh mạng”, nghĩa là phải kiếm sống một cách lương thiện, đúng đắn, không làm tổn hại cho mình, cho người và muôn loài. Cách ứng xử về vấn đề kinh tế như vậy, nếu được thực hành một cách trọn vẹn, thì chúng ta sẽ thực hiện việc bảo vệ môi trường sống của con người một cách hoàn hảo. Thực hiện phương cách sống chánh mạng, chúng ta sẽ không tàn phá rừng và săn giết muôn thú vô tội vạ (nếu như nó không thực sự tối cần thiết cho cuộc sinh tồn).

Là Phật tử, ai cũng biết rằng thực hiện từ bi là thể hiện lòng thương yêu và lòng thương xót chúng sinh.

Xuất phát từ lòng thương yêu và tôn trọng sự sống của muôn loài, việc cấm sát sanh của đức Phật là một biểu hiện cụ thể nhất. Cũng trên tinh thần từ bi vô hạn này, nếu xét trên lăng kính của thời đại thì nó có tác dụng góp phần bảo vệ môi trường thiên nhiên một cách tích cực và hiệu quả. Bằng chứng là ngày nay các quỹ bảo vệ động vật hoang dã đã lần lượt ra đời trên thế giới, chẳng hạn như đảng Xanh ở châu Âu đã nhận ra sự nguy hiểm của việc tàn phá môi trường, nên họ đã lặn lội khắp nơi trên thế giới để bảo vệ các loài vật sắp bị tuyệt diệt. Những hành động của họ ngày hôm nay thật phù hợp với tinh thần từ bi và tôn trọng sự sống của đức Phật, mặc dù phần đông trong số họ không phải là người chịu ảnh hưởng tinh thần từ bi của đạo Phật.

Vấn đề ăn của đức Phật và đệ tử của ngài đơn giản như vậy, song, vấn đề mặc của ngài và các đệ tử lại càng đơn giản hơn nữa. Chỉ cần một tấm y vải thô sơ, vừa trang nghiêm, vừa lịch sự, thế là đủ. Trong quá khứ và hiện tại, rất nhiều loài thú quí hiếm bị tàn sát để phục vụ cho nhu cầu y phục xa xỉ của con người. Cách thức giải quyết vấn đề ẩm thực và ăn mặc của đức Phật giản dị và biết tôn trọng người và loài vật cũng là một nét đẹp trong văn hóa bảo vệ thiên nhiên và môi trường.

Trong lịch sử nhân loại, những thánh nhân thường yêu thương con người và thiên nhiên, nhưng yêu thiên nhiên, sống hòa nhập với thiên nhiên như đức Phật là một trường hợp hy hữu. Những nơi ngài đã từng đi qua và dừng lại để an trú, thuyết pháp, ngài vẫn luôn có một cách ứng xử đầy yêu thương và tôn trọng. Với tình yêu thiên nhiên, tôn trọng môi trường sống như vậy, do đó cách ứng xử của đức Phật là một tấm gương sáng cho thời đại của chúng ta, khi loài người đang nhân danh văn minh để tàn phá những khu rừng, tàn phá thiên thiên một cách vô tội vạ vì lợi ích trước mắt, rất thiển cận, thì văn hóa ứng xử với thiên nhiên của đức Phật lại càng trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Cuộc đời đức Phật từ lúc Đản Sanh cho đến lúc nhập Niết Bàn là một minh chứng xác thực cho một đời sống gần gũi với thiên nhiên và cỏ cây: Ngài sinh ra dưới gốc Vô Ưu vào mùa trăng tròn. Ngài thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề trong rừng sâu bên dòng sông Ni Liên Thuyền cũng trong một mùa trăng tròn. Ngài thuyết bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Và ngài từ giã thế gian cũng tại khu rừng dưới hai cội Sa La đại thọ … Trong cuộc sống thường nhật mà Ngài đã mô tả được ghi lại trong kinh điển: “... Ở đây, này Bà La Môn, ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi sáng ta đắp y, cầm bát đi vào làng ấy, hay thị trấn ấy để khất thực. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, ta đến một góc cuối của ngôi rừng. Tại đấy, ta lượm cỏ hay lá chất thành một đống, rồi ta ngồi kiết già” (Kinh Tăng Chi I).

Theo phương pháp luận Tứ Diệu Đế, từ “khổ” sang “nguyên nhân của khổ” đến “con đường diệt khổ” và “sự chấm dứt của khổ”, người Phật tử sẽ lĩnh hội dễ dàng những thông tin và nhận định đa chiều về ô nhiễm và suy thoái của môi trường…

Cuộc sống của ngài gắn liền với thiên nhiên như vậy, nên ngài luôn có thái độ yêu mến và trân trọng thiên nhiên. Điều khiến chúng ta ngạc nhiên hơn nữa là ngài đã từng nhiều lần tuyên bố cỏ cây cũng có cuộc sống của riêng nó. Ngài tỏ thái độ của mình bằng cách tôn trọng sự sống của thiên nhiên mà trong các luật chế ra cho các hàng đệ tử xuất gia, ngài đã cấm đệ tử cùa mình tàn hại đến cỏ cây. Tinh thần văn hóa yêu thiên nhiên cây cỏ đó đã được thể hiện rất rõ ở hành động : “Ta đến góc cuối của một ngôi rừng” và “Ta lượm cỏ hay lá chất thành một đống”. Chỉ là hành động lượm thôi, rất nhẹ nhàng và hiền hòa, rất tôn trọng và lịch thiệp như đối xử với một con người thật sự.

Kinh điển cũng thuật lại việc thí chủ Cấp Cô Độc (Anathapindika) thường hay đến viếng thăm đức Phật mỗi ngày. Những khi ông gặp được Ngài thì ông tỏ ra vui mừng, những khi Ngài đi giáo hóa ở phương xa thì ông tỏ vẻ buồn rầu ra mặt. Đại đức A Nan (A Nanda) băn khoăn về vấn đề này nên đã hỏi đức Phật để tìm một giải pháp hợp lý. Đức Phật chấp nhận việc trồng cây bồ đề do A Nan đề xuất để tượng trưng cho dự hiện diện của Phật. Xuất phát từ việc này mà cây bồ đề được xem như là sự hiện diện của đức Phật. Chính vì vậy cho mãi đến ngày nay khi bước chân vào bất kỳ một ngôi chùa nào trên khắp thế giới, ta đều thấy sự hiện diện của loài cây này ở một nơi trang trọng nhất trong sân chùa.

Cuối cuộc đời, khi chuẩn bị cho việc nhập Niết Bàn, đức Phật đã chọn nơi yên nghỉ là một khu rừng già hoang vắng, đó là khu rừng cây Sala của bộ tộc Malla. Trước sự việc này, Đại Đức A Nan đã thỉnh cầu đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị phụ thuộc này, tại đô thị hoang vu này …”. Thế nhưng đức Phật đã thanh thản trả lời: “Này A Nan, chớ có nói như vậy, chớ có nói đô thị này nhỏ bé, đô thì này hoang vu …” (Kinh Trường bộ I). Trong khuynh hướng chung của con người, ai cũng thích và xem trọng những nơi phồn hoa đô hội và xem nhẹ chốn làng quê thôn dã. Nhưng đức Phật đã chọn rừng cây Sala hoang vu để từ giã cõi đời này, bởi Ngài yêu thương và luôn tôn trọng môi trường sống thiên nhiên. Ngài trân trọng thiên nhiên nên thiên nhiên cũng đã ưu ái với ngài khi tiễn đưa ngài lần cuối. Trong giời khắc thiêng liêng ấy, những cây Sa La nở hoa trái mùa, nghiêng mình và phủ lên kim thân Ngài những bông hoa, kính cẩn chào con người vĩ đại của nhân loại giây phút cuối cùng.

Khi con người tàn phá thì môi trường thiên nhiên vẫn luôn im lặng, nó không phản đối trước bất cứ một tác động nào của con người, có điều sức quật khởi mãnh liệt từ hậu quả ô nhiễm môi trường là vô cùng tàn khốc. Trên thế giới ngày nay, trước những tác nhân gây ô nhiễm môi trường như cuộc chiến tranh dầu hỏa tại vùng Vịnh, sự cố Dioxin ở Seveco ở Ý năm 1974 hay tại Việt Nam chúng ta, tại nạn lò nguyên tử tại Tschernoby Ukrain năm 1986 và vô số cuộc chìm tàu chở dầu trên các đại dương v.v . . vẫn luôn là những đề tài nóng trong những bàn hội nghị thảo luận về tương lai nhân loại.

Cuộc đời đức Phật từ lúc Đản Sanh cho đến lúc nhập Niết Bàn là một minh chứng xác thực cho một đời sống gần gũi với thiên nhiên và cỏ cây

Cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Phật đã dạy: “Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu. Cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này diệt thì cái kia diệt”. Nguyên lý này chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới và vũ trụ đều làm điều kiện cho nhau chuyển biến không ngừng nghỉ trong quá trình “sinh thành hoại diệt”. Ngài Tịch Thiên đã nhắc lại trong tập Luận “Nhập Bồ Tát Hạnh”: “Tất cả các pháp đều do các duyên khác sinh ra. Không pháp nào tự có”. Về điều này, nếu chúng ta liên hệ thì sau khi rừng thiên nhiên bị chặt trắng, sẽ dẫn đến việc toàn bộ hệ sinh thái của nó sẽ dần dần tự phục hồi trên mặt đất trống qua quá trình tự cân bằng sinh thái. Thế nhưng chúng ta cứ tiếp tục tàn phá thì hậu quả sẽ vượt ngoài khả năng tự quân bình và như thế chúng ta tự đánh mất nguồn dưỡng khí trong lành., điều này đồng nghĩa với sự hũy diệt thế giới loài người.

Để cải thiện môi trường sống của nhân loại, năm 1991 Hiệp Hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (WWF) đã có những giải pháp cấp thời nhằm “Cứu lấy Quả Đất” với chín nguyên tắc cơ bản và 132 hành động thiết thực nhằm tăng chất lượng môi trường sống của con người, có những nội dung khái quát như sau: “Mỗi dạng sống đều phải được bảo đảm quyền tồn tại, bất kể nó có giá trị như thế nào đối với con người. Sự phát triển của loài người không được đe dọa đến tính toàn vẹn của thiên nhiên và sự sống còn của các loài khác. Con người phải đối xử tử tế với tất cả các sinh vật khác và bảo vệ chúng chống lại những hành vi hung bạo, những đau đớn có thể tránh được, cũng như sự giết chóc không cần thiết”. Trước đó Albert Scheizer đã nói đủ những điều trên qua một công thức ngắn gọn: “Đạo đức là sự mở rộng trách nhiệm đến tận vô biên đối với tất cả những gì có sự sống.Về mặt tôn giáo, tình yêu thương rộng lớn như bác ái, từ bi được xem như nguyên tắc căn bản để cứu lấy Quả Đất.

Là Phật tử, ai cũng biết rằng thực hiện từ bi là thể hiện lòng thương yêu và lòng thương xót chúng sinh. Đối với cuộc khủng hoảng môi trường, tinh thần Từ Bi từ lâu đã trở thành nguyên tắc sống thiên nhiên, sống “vô hại” đối với muôn loài và địa bàn sinh sống của chúng.

Hành động bất hại mang tính hợp tác và cộng sinh như tinh thần đức Phật đã dạy các Tỳ Kheo: “ Ví như ong lấy mật hoa, không làm hư hương sắc..”

Từ Bi đi chung với Hỷ Xả là bốn hạnh tu hỗ trợ nhau để diệt ác tâm và sống an lạc trong hiện tại. Xa hơn nữa, Từ Bi là một con đường sống cao đẹp đưa đến hạnh phúc và hòa bình, điều mà toàn thể nhân loại mơ ước. Từ bi cũng là một bản đồ tu tập để Phật tử thoát khỏi vòng luân hồi, một mục đích mà tất cả Phật tử đều nhắm đến. Những điều này đã được đức Phật trình bày rất hệ thống trong Kinh Từ Bi. Nội dung của Kinh Từ Bi có thể tóm gọn như sau:

Để đạt được hạnh phúc và thoát khỏi luân hồi, Phật tử phải có đầy đủ Trí và Đức.

Thứ nhất, Phật tử cần phải tu học để phát triển trí tuệ và nhận thức.

Thứ hai, Phật tử phải mở rộng từ tâm đến tất cả mọi loài.

Thứ ba, Phật tử phải mạnh dạn lĩnh trách nhiệm và hành động vì lợi ích của chúng sinh.

Thứ tư, Phật tử phải cố gắng vươn lên đạt cho được giới đưc1 và trí tuệ cao vợi và dứt bỏ tham dục lạc để có thể thoát khỏi vòng sinh tử.

Trong lĩnh vực môi trường, với suy nghĩ đúng theo phương pháp luận Tứ Diệu Đế, từ “khổ” sang “nguyên nhân của khổ” đến “con đường diệt khổ” và “sự chấm dứt của khổ”, người Phật tử sẽ lĩnh hội dễ dàng những thông tin và nhận định đa chiều về ô nhiễm và suy thoái của môi trường… từ đó sẽ không còn mấy khó khăn để tìm ra những giải pháp, những hành động thiết thực và hợp với khả năng trong việc cải thiện môi trường. Đây là lý tưởng cùng tột nói lên giá trị nội tại bình đẳng của muôn loài. Do vậy tinh thần bất hại chứa đựng ý nghĩa biết tôn trọng khách thể, nó vừa không xâm phạm hay làm tổn hại khách thể lại vừa che chở cho khách thể. Như vậy hành động bất hại mang tính hợp tác và cộng sinh như tinh thần đức Phật đã dạy các Tỳ Kheo: “Ví như ong lấy mật hoa, không làm hư hương sắc..”

 

HT. Thích Huệ Thông

  •  
Nguồn: phatgiao.org.vn

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin