Chi tiết tin tức

Đặc điểm và giá trị tính dân chủ trong lịch sử Việt Nam

21:45:00 - 08/04/2022
(PGNĐ) -  Khác với các quốc gia Phương Tây, kể từ khi lập quốc, tư tưởng tôn dân đã được xem như là một đặc trưng điển hình của các quốc gia Phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục tiêu chủ yếu mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đường lối cai trị, quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Đền Đô (Bắc Ninh) thờ các vị vua nhà Lý

1. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THỐNG DÂN CHỦ 

Dân chủ thân dân

Khác với các quốc gia Phương Tây, kể từ khi lập quốc, tư tưởng tôn dân đã được xem như là một đặc trưng điển hình của các quốc gia Phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục tiêu chủ yếu mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đường lối cai trị, quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước.Vai trò của nhân dân thể hiện rõ ở mọi mặt của đời sống xã hội, từ những công việc đời thường đến việc lớn như đắp đê, trị thuỷ, ngăn lũ và chống giặc ngoại xâm, nhân dân có một sức mạnh không thể phủ nhận, sức mạnh ấy bao giờ cũng là sức mạnh của tập thể. Ngược dòng lịch sử, trong các triều đại phong kiến Việt nam, giai đoạn được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là giai đoạn phát triển cao nhất trong việc xây dựng một mô hình chính quyền dân chủ đó là mô hình chính quyền thời Lý – Trần. Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. Tư tưởng trọng dân được khẳng định rõ trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn khi đưa ra nhận định “ý dân” cũng được đặt trong mối liên hệ với “mệnh trời”: “Muốn mưu việc lớn, tính kế muôn đời cho con cháu thì trên phải vâng mệnh trời, dưới theo ý dân” [1].

Nhà Lý đã chủ trương xây dựng một mô hình chính quyền thân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, sử dụng kế sách: “Ngự binh ư nông”. Khác với chính sách cai trị của nhà Đinh, dưới thời vua Lý Công Uẩn, nhà nước không tập trung xây dựng lực lượng quân đội thường trực mạnh mà chú trọng liên kết lực lượng dân đinh trong quần chúng ở khắp nơi. Bản chất của kế sách “ngự binh ư nông” chính là sự vận dụng khéo léo quan điểm “Tĩnh vi nông, động vi binh” khi mà chiến tranh xảy ra có thể huy động được mọi người cùng tham gia quân đội. Điểm tích cực ở kế sách này là xây dựng được lực lượng quốc phòng đủ mạnh, nhưng ngược lại, nhà nước lại không tốn kém nhiều tiền, đồng thời vẫn phát huy được sức mạnh của nhân dân. Sử cũ ghi chép nhà Lý đã cho đặt Lầu Chuông trong thành Thăng Long để “dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên”, đây cũng là biểu hiện rất rõ chứng tỏ tư tưởng trọng dân của triều Lý trong lịch sử phong kiến nước ta. Trong thời kỳ này, nhân dân được xem như là cơ sở để tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, theo nghĩa đó, để chiến thắng phải “khoan thư sức dân”, tranh thủ và vận động được sự đồng lòng của người dân cả nước. Trong “Chiếu dời đô”, Lý Công Uẩn đã nói: “Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân…”. Trong bài “Văn lộ bố” khi tiến hành cuộc chiến tấn công quân Tống ở biên giới phía Bắc, Lý Thường Kiệt đã nói: “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất hoà mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Trần Tự Khánh, người có công lớn trong việc gây dựng cơ đồ nhà Trần cũng thường viện dẫn tới lòng dân để làm căn cứ cho các hành động chinh phạt…

Chùa Phổ Minh (Nam Định)

Tiếp đó, thời kỳ từ 1225-1400 là giai đoạn cai trị của nhà Trần. Nhà Trần vẫn dựa vào mô hình chính quyền thân dân, thậm chí đạt đến mức độ hoàn thiện. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thì cho rằng nhân dân là cơ sở để tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước. Luận điểm quan trọng nhất của Trần Quốc Tuấn là khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, coi đó là thượng sách để giữ nước. Điều này biểu thị sự quan tâm của nhà nước đối với sản xuất và đời sống của nhân dân, theo đó, nhân dân là nơi hội tụ những tiềm lực về kinh tế và quốc phòng bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền của đất nước. Ông còn chỉ ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển tài năng của những cá nhân anh hùng: Chim hồng hộc bay cao được là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng chỉ như chim thường thôi, theo đó, những cá nhân anh hùng chỉ có thể thể hiện được vai trò của mình, làm nên sự nghiệp là nhờ vào sự giúp đỡ, ủng hộ, đồng lòng của quần chúng nhân dân. Như vậy, Trần Quốc Tuấn đã khái quát triết lý về vai trò của nhân dân trong chiến tranh giữ nước, đó là đoàn kết toàn dân, cả nước chung sức đánh giặc, phải khoan thư sức dân làm nền móng cho khối đoàn kết đó, khi chiến tranh xảy ra, nó có thể làm cho sức mạnh của nhân dân được tăng lên gấp bội. Đây là triết lý có tính phổ biến của mọi cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, đã được chứng minh bởi các cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt chống quân Tống ở thế kỷ X và XI, chống Nguyên Mông thế kỷ XIII [2].

Tiếp nối tư tưởng trọng dân trong quan điểm của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã tiếp tục đưa ra những tư tưởng sâu sắc về vai trò cũng như sức mạnh của dân, nâng tư tưởng này lên tầm triết lý. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ tư tưởng an dân và trừ bạo ngược: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” [3]. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh đã được Nguyễn Trãi đúc kết: “Nêu hiệu gậy làm cờ, tập hợp khắp bốn phương dân chúng. Thết quân rượu hoà nước, dưới trên đều một bụng cha con”. Nguyễn Trãi ví dân như nước, các triều đại phong kiến như con thuyền; thuyền nổi được là nhờ nước, nước có tác dụng chở thuyền nhưng cũng có sức mạnh lật thuyền: “Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ” (thuyền bị lật mới biết sức dân như nước); “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân” [4]; khẳng định trách nhiệm của người cầm quyền: “Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công bằng… đổi bỏ thói tham ô, sửa trừ tệ lười biếng, coi công việc của quốc gia là công việc của mình; lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ” [5].

Tính dân chủ tác động lên chính sách của Nhà nước

Lịch sử đã cho thấy trong mọi quyết sách của nhà cầm quyền dù ở bất cứ thời kỳ nào cũng đều phải xem xét đến lợi ích của nhân dân, sức mạnh của nhân dân. Dân chủ trong lịch sử ở mức độ nhất định đã mạnh đến mức có khả năng tạo ra sự đối trọng lại với quyết sách của nhà cầm quyền. Việc ra các quyết định không chỉ chú ý đến lợi ích của người ban hành quyết định, mà còn cả người thực hiện các quyết định đó.

Thứ nhất, trong chế độ phong kiến, mọi quyết sách của nhà vua không thể không tính đến mối quan hệ làng – nước, không thể không tính đến lợi ích của nhân dân. Vua luôn đặt mình ở vị trí con trời, “thế Thiên hành đạo” thay trời để trị dân. Thời kỳ nào nhà cầm quyền không dựa vào sức mạnh của nhân dân thì thời kỳ đó, chính quyền đó không thể được coi là mạnh. Nhiều triều đại phong kiến Việt Nam coi lòng dân là ý trời và rất quan tâm tới việc kết hợp lòng dân với ý trời. Quan niệm lòng dân tức là ý trời được thể hiện ở các điềm lành (mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt) hay điềm dữ (bệnh tật, mưa bão, lũ lụt, mất mùa…). Người cầm quyền cai trị có đức, làm việc tốt, hợp lòng dân thì trời xuống điềm lành; không có đức, ăn chơi xa xỉ, hoang phí, hại dân, dân oán thì trời xuống điềm dữ để răn bảo.

Trong lịch sử có ghi: Sang đến đầu thế kỷ XI, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược, xây dựng lực lượng quân thường trực khá đông, có súng thần cơ, có nhiều chiến thuyền, nhưng không đoàn kết được toàn dân, lòng dân ly tán nên đã thất bại, cha con Hồ Quý Ly đều bị giặc Minh bắt, lúc đó Hồ Nguyên Trừng đã chỉ rõ nguyên nhân của sự thất bại chỉ thông qua một câu nói: “Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”.

Sử cũ chép lại: Trạng nguyên Giáp Hải, quan đại thần thời Mạc Mậu Hợp, thấy chính sách của nhà Mạc không xuất phát từ lợi ích của nhân dân, gặp khi có bão lớn, ông đã dâng sớ lên vua Mạc và nói rằng: “Trời ra tai không phải vô cớ, chính ở người mà ra. Tai biến về gió bão là trời hiện điềm để răn bảo… Vậy xin bệ hạ lấy sự biến của trời là đáng sợ, coi nhân sự là cần phải sửa… thi hành mọi điều khoan tất cho dân; ban ra ân dụ để tha những dân vô tội bị ức hiếp; đặc biệt, sai quan sở tại thăm nom giúp đỡ luôn. Có thế, ơn của trên ban xuống mới thấm đến kẻ dưới. Lòng người đã vui, tai trời sẽ hết… Xin bệ hạ tôn trọng gốc nước, cố kết lòng dân, hậu đãi mà đừng làm khốn dân; giúp đỡ mà đừng làm hại dân… nhẹ bớt cho dân những việc phục dịch tức là chính sách của vương đạo đó” [6].

Ngô Thì Nhậm có triết lý khá sâu sắc về dân tức nhân dân: Dân là những người bình thường, chiếm số đông, làm ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội và triều đình, đó là những người phải đi phu, đi lính, đóng thuế; là những người nông dân phải lo lắng đến đồng ruộng khi mưa dầm nắng hạn; là những người thợ dệt phải ngậm ngùi bên khung cửi khi sưu cao thuế nặng. Thái độ và xu hướng của những con người như vậy (nhân dân) có tác động và ảnh trực tiếp tới vận mệnh xã hội và triều đình. Trong triết lý này, thì dân là trung tâm của vũ trụ, của mối quan hệ trời – người; được lòng dân là cơ sở của sự hoà hợp và phát triển, là điều kiện để có được sự cân bằng cả trong xã hội và tự nhiên. Từ những luận điểm của triết lý này, ông đề xuất những phương pháp, cách thức làm thế nào để có được lòng dân: Một mặt kế thừa những tư tưởng của các bậc tiền bối như: Trần Quốc Tuấn hay Nguyễn Trãi, mặt khác ông cho rằng cần giảm bớt sự đóng góp của dân: “Muốn được lòng dân, cốt là phải làm cho hai xứ (Thanh, Nghệ) và bốn tuyên (Bắc Bộ) được thư thả”. Cần làm cho người nông dân được hài lòng, người buôn bán được thoả dạ và binh sĩ được vừa ý. Nếu suy xét rộng hơn, về mặt nguồn gốc tư tưởng dân chủ đó, một phần là sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng dân vi bản trong triết lý Nho gia, đó là thuyết “dân quý quân khinh”, thuyết “dân là nước, vua là thuyền” của Tuân Tử… Mà điểm đặc sắc nhất có lẽ là ở luận điểm cho rằng an nguy quốc gia, chính trị có bình ổn hay động loạn được quyết định bởi lòng dân thuận hay nghịch “trời sinh ra dân, không phải sinh ra ra vì vua; trời lập ra vua cũng là vì dân”.

Thứ hai, nhân dân có khả năng tạo ra sự đối trọng với giai cấp lãnh đạo: Trước thời kỳ phong kiến, trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, làng trong lịch sử Việt Nam là một đơn vị tụ cư, có không gian và chiều sâu văn hoá riêng, được sử dụng như một đơn vị hành chính cơ sở mà nhà nước phải dựa vào. Trong số những dòng phát triển khác nhau của thời kỳ Bắc thuộc ở nước ta (179 TCN đến 905 SCN), có hai dòng đối nghịch luôn luôn diễn ra một cách quyết liệt trên đất nước ta, đó là Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, trong đó có thể kể đến hàng loạt các cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền đô hộ và luật pháp của nhà Hán [7]. Với một thời gian dài, sự xung đột đó đã tạo ra một hiệu ứng nghịch đó là thái độ phản kháng lại nhà nước và pháp luật thời bấy giờ.

Lịch sử cho thấy nếu chính quyền triều đại nào không giải quyết tốt mối quan hệ làng – nước, hệ quả tất yếu là sẽ có những cuộc binh biến và các cuộc nổi dậy chống chính quyền triều đại đó. Tư tưởng bạo động chính trị có cả trong những câu nói truyền khẩu dân gian “Được làm vua, thua làm giặc”; “Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”; “Thà rằng bạo động bất lương, còn hơn chết đói nằm đường thối thây” [8]. Như vậy về mặt chính trị, tư tưởng dân chủ cao nhất của nhân dân là bạo động chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ bọn bạo chúa, tham quan, cường hào với ước mơ một xã hội công bằng. Triết lý về nhân dân của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở tư tưởng về cộng đồng nhân dân, theo đó thì cứu nước và cả dựng nước là công việc của đại đa số người dân, của “trăm họ”. Trong những công việc này, nếu mọi người dân đều đồng lòng thì sẽ có sức mạnh. Nhà Hồ thất bại vì quân của họ Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng; Lê Lợi thắng vì quân không quá vài mươi vạn nhưng ai cũng một lòng. Cá nhân phải gắn với cộng đồng, phải trở thành phần tử cố kết của cộng đồng. Thông qua tình yêu thương và quyền lợi, sự công bằng, đồng cam cộng khổ, giải quyết hài hoà các lợi ích, nhu cầu của quần chúng nhân dân thì mới gắn bó được họ để tạo ra sức mạnh. Mọi chủ trương đường lối, chính sách, mọi quan hệ đối xử của triều đình, nhà nước đều phải căn cứ vào lòng dân bởi vì, các công việc của nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp quan hệ đến nhân dân, đều có thể gây cho nhân dân một sự phản ứng và từ đó xuất hiện có thể là tư tưởng ủng hộ hoặc chống đối. Lòng dân ủng hộ thì làm, chống đối thì phải huỷ bỏ.

Lịch sử có chép lại khi Ngô Quyền mất, nội bộ nhà Ngô mâu thuẫn đã tạo điều kiện cho các thổ hào thứ sử địa phương nổi dậy. Năm 965, khi Xương Văn qua đời, đất nước rơi vào tình cảnh chia cắt, hỗn loạn, nổi lên 12 vùng đất biệt lập, do 12 thủ lĩnh đứng đầu. Đến cuối thời kỳ nhà Lý, nhất là từ đời Lý Anh Tông (1138-1175) khi chính sự dần sút kém, vua lên ngôi còn nhỏ, quyền hành nằm trong tay ngoại thích mà không ít là bọn hại nước, hại dân, lộng hành, tham bạo. Các cuộc nổi dậy của dân chúng diễn ra liên miên như: Cuộc nổi dậy của Thân Lợi (1140); của Nùng Khải Lai ở Đại Hoàng (1151); cuộc nổi dậy của Hồ Đỗ ở Diễn Châu (1198) [9]…

Dân chủ công xã

Nếu như ở Phương Tây, chủ thể và trung tâm của lý thuyết dân chủ là cá nhân độc lập, thì ở nước ta thời phong kiến, không thể có dân chủ thực sự nếu cá nhân không đặt mình trong một tập thể công xã. Quyền bình đẳng và dân chủ giữa các thành viên được thừa nhận khi họ là thành viên công xã, là bộ phận tạo thành của cộng đồng. Dân chủ công xã trong lịch sử có những điểm tích cực (động lực quan trọng để duy trì và phát huy một truyền thống yêu nước và truyền thống đoàn kết, bất khuất, chống giặc ngoại xâm). Ngược lại, cũng vì đó là dân chủ tập thể, nhưng yếu tố cá nhân dường như bị chìm đi và dân chủ sẽ không tồn tại nếu cá nhân đó không đặt trong quan hệ với tập thể công xã. Rõ ràng dân chủ công xã là một sức mạnh, song sức mạnh ấy không dựa trên sự giải phóng và tôn trọng quyền của con người, mà trói chặt con người trong quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền lợi bình đẳng của con người với tư cách là thành viên cộng đồng. Xét dưới góc độ người dân sống theo nghĩa đồng bào thời kỳ phong kiến, cộng đồng xã hội như vậy, sự làm chủ ở đây có chăng chỉ là việc chủ động làm tròn nghĩa vụ, đền đáp ơn nghĩa Tổ tiên, là tình nghĩa đồng bào ruột thịt [10]. Một điểm cũng rất dễ nhận thấy là trong đấu tranh xã hội, tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam chỉ dừng lại ở yêu cầu bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản mà mức độ phát triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân về kinh tế – xã hội. Tư tưởng đó gắn liền với tâm lý người nông dân công xã, người sản xuất nhỏ. Dân chủ công xã có mặt chính đáng và tích cực, đó là tạo ra áp lực và đối trọng với triều đình phong kiến chống lại chế độ chuyên chế, chống những bất công của xã hội phong kiến, nhưng ở một khía cạnh khác, tư tưởng dân chủ này cũng bộc lộ sự bất lực của người nông dân trong việc tự giải phóng mình.

2. VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THỐNG DÂN CHỦ

Truyền thống dân chủ luôn gắn liền với độc lập dân tộc

Trong thời kì giữ nước truyền thống dân chủ mà điển hình nhất là tính dân chủ trong làng xã tạo nên tính tự trị của làng, vì vậy, dù phải trải qua nhiều lần bị các thế lực ngoại xâm xâm lược hoặc đặt ách thống trị nhưng làng xã vẫn tồn tại và hầu như không bị chi phối. Chính điều đó đã giúp chúng ta không bị mai một, mất dần những truyền thống văn hóa, mà còn là bức tường che chắn giúp chúng ta chống lại ngoại xâm. Mỗi ngôi làng là một pháo đài, nơi hun đúc những giá trị về văn hóa và tinh thần. Nhìn chung, ý thức giác ngộ về quyền tự do và bình đẳng của con người Việt Nam trong và sau thời Bắc thuộc đã tập trung hướng tới lợi ích cộng đồng nhiều hơn lợi ích cá nhân, nên thường được phát huy vào những lúc đất nước lâm nguy, nhân dân khốn khổ. Còn trong những thời kỳ độc lập và hòa bình thì tâm lý tiểu nông an phận của nông dân và tư duy “pháp tiên vương” (theo phép tắc thời tiên vương) trì trệ của tầng lớp thống trị lại vượt lên chiếm vai trò chủ đạo, làm triệt tiêu tính năng động và sáng tạo của dân tộc trên tất cả các hoạt động và lĩnh vực xã hội, điều này quy định yếu tố thụ động và tự phát trong sự phát triển của truyền thống dân chủ ở Việt Nam.

Truyền thống dân chủ là động lực cho sự phát triển của xã hội

Dân chủ là đích đến của một xã hội tiến bộ và trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, truyền thống dân chủ đã được thể hiện ngày càng sâu sắc qua các triều đại, các thời kì lịch sử. Dù trong chế độ quân chủ, ý thức dân chủ vẫn còn hạn chế. Nhưng điều đó vẫn tồn tại và có tác động không nhỏ trong xã hội. Còn trong thời kì hòa bình, truyền thống dân chủ được các triều đại phong kiến vận dụng tập hợp sức dân. Từ một đất nước ngập chìm trong chiến tranh, nước ta từng bước xây dựng lại đất nước và trong kế sách trị nước của các triều đại đều coi trọng việc gần gũi với nhân dân, lắng nghe những nguyện vọng của nhân dân. Khi nhân dân được đáp ứng những yêu cầu về kinh tế, đời sống, không chỉ tạo điều kiện để nhân dân an tâm với cuộc sống mà còn giúp xã hội phát triển đi lên, đạt những thành tựu lớn lao. Thời Lý – Trần với tư tưởng thân dân đã đưa nước ta lên tầm cao phát triển, đạt thành tựu cả về kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội. Có thể thấy trong thời kì nào mà chính sách cai trị của triều đình hướng nhiều lợi ích cho nhân dân thì đó là những triều đại vững bền, phát triển. Ngược lại những đời vua chỉ biết đục khoét của nhân dân, coi thường sức dân – của dân thì đất nước luôn lâm vào cảnh khó khăn.

3. TẠM KẾT

Truyền thống dân chủ trải qua các thời kì đã được hun đúc và đúc kết thành những đặc điểm có tính kế thừa, bao gồm: Dân chủ thân dân; tính dân chủ tác động lên chính sách của Nhà nước và dân chủ công xã. Trong đó, các đặc điểm này đều được rút ra từ những bài học lịch sử cụ thể của từng triều đại phong kiến và từng giai đoạn lịch sử. Việc thực hiện tính dân chủ trong xã hội đã giúp nước ta đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Trong đó, truyền thống dân chủ đã thể hiện được những giá trị quý báu của mình, bao gồm: Truyền thống dân chủ luôn gắn liền với độc lập dân tộc, quá trình bảo vệ tổ quốc khỏi các thế ngoại xâm; và truyền thống dân chủ là động lực cho sự phát triển của xã hội.

 

Lam Phương/VĂN HÓA PHẬT GIÁO 386

 

Chú thích:

[1] Trương Hữu Quýnh , Đại cương Lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.193.

[2] Trương Hữu Quýnh, Sđd, tr.188

[3] Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.201.

[4] Nguyễn Trãi, Sđd, tr.276.

[5] Trương Hữu Quýnh, Sđd, tr.256

[6] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.256-257

[7] Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 – 43); Bà Triệu (248); Lý Bí (542); Đinh Kiến (687); Mai Hắc Đế (722); Phùng Hưng (791).

[8] Phan Huy Lê. Tìm về cội nguồn (tập 1). Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 1999,  tr.112.

[9] Trương Hữu Quýnh, Sđd, tr.166.

[10] Phan Đại Doãn (Chủ biên), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.107.

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin