Chi tiết tin tức

Tinh thần dung hoà giữa Thiền tông và Tịnh độ tông của Thiền sư Minh Châu Hương Hải

14:46:00 - 05/12/2022
(PGNĐ) -  Tinh thần dung hợp Thiền và niệm Phật bắt đầu khá sớm tại Việt Nam cũng như Trung Quốc. Tại Việt Nam, ngay từ những thế kỷ đầu Phật giáo mới du nhập đã manh nha tính dung hợp với văn hóa xã hội đáp ứng cho việc hoằng pháp lợi sanh.

Ảnh mang tính chất minh họa

Chư vị Tổ sư tuy liễu đạt pháp Thiền, nhưng các Ngài cũng giảng dạy  phương pháp Tịnh độ, như Mâu Tửvới tác phẩm Lý hoặc luận, Khương Tăng Hội với Lục Độ tập kinh. Đến thời Lý, tư tưởng Tịnh độ cũng đã xuất hiệntrong các phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông. Bằng chứng là trong Thiền Uyển Tập Anh, cho biết Thiền sư Tịnh Lực (1112-1175) thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã chủ trương niệm Phật tam muộikết hợp giữa thiền và niệm Phật. Theo Thiền sư:

“Phương pháp Thiền định bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này hoặc bằng một lòng quán tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của Pháp thân Phậtthì gọi là quán tưởng niệm Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật thì gọi là xưng danh niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến khi vào thiền định mà thấy Phật hiện ra trước mắt hay thấy được pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của niệm Phật tam muội”1.

Sang đến thời Trần, trước khi Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập vào năm 1299 thì đã có Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ là những người có ảnh hưởng trực tiếp và là người đặt nền mống cho sự ra đời của Thiền phái này. Trần Thái Tông bàn về tư tưởng Tịnh độ qua tác phẩm “Niệm Phật luận2. Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện tư tưởng Thiền qua bài Phật Tâmca, Trần Nhân Tông thể hiện tư tưởng Thiền tịnh qua bài Cư trần lạc đạo: Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương. Di Đà là tánh sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc3. Đến thế kỷ 17-18, có các vị Thiền sư như Minh Châu Hương Hải, Chân Nguyên cũng đã thể hiện tư tưởng dung hợp qua các tác phẩm của mình.

Trong Giải Kim Cương kinh lý nghĩa, Thiền sư Minh Châu Hương Hải có dẫn “Lời Vĩnh Minh Rằng4, chứng tỏ Thiền sư đã từng nghiên cứu tư tưởng dung hợp của Ngài Vĩnh Minh và ứng dụng vào trong việc tu tập sự nghiệp giáo hóa của mình.

Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ là người đề xướng ra tinh thần dung hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ tông tại Trung Quốc. Mặc dù tư tưởng này trước đó đã xuất hiện, nhưng đến đầu triều Tống, tinh thần dung hợp mới trở thành một trào lưu chủ đạo. Người đứng ra chủ xướng và làm cho phát triển, dung hợp tất cả lý thuyết, thực hành. Theo Ngài Vĩnh Minh, những người có lòng tin vào giáo pháp nhưng do lòng tin của họ không đủ, trí tuệ của họ nông cạn, tâm của họ còn dao động, chấp thủ thì họ sẽ tìm cầu việc sinh về Phật quốc; ở đó họ được hỗ trợ bởi môi trường tốt tiếp tục con đường tu hành của mình để đạt đến quả vị giải thoát.

Sở dĩ Ngài Vĩnh Minh đưa ra tư tưởng dung hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ do vào thời của ông có sự đối kháng mạnh mẽ giữa hai tông này. Hành giả Thiền tông chê bai những tín đồ Tịnh độ là tìm cầu cái bên ngoài, không hướng về tự tánh chân thật của mình, trong khi những người theo Tịnh độphê phán những Thiền sư kiêu mạn vô kỷ luật. Nhìn thấy được mối nguy hại bởi thái độ “cuồng thiền” của một số thiền sư chưa thật sự chứng ngộ, chưa thấy biết bằng trí tuệ mà dùng cái thấy biết cạn cợt của mình để luận bàn. Do đó, Vĩnh Minh dung hòa niệm Phật vào Thiền tông để tránh việc thực hành một chiều đi đến kiến chấp sai lầm.

Tư tưởng dung hợp Thiền tông và Tịnh độ của Ngài xoay quanh những lời chỉ dạy sau:

Có thiền không tịnh độ,
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa5.

Ngài đưa ra quan điểm dung hợp giữa Thiền và Tịnh để khẳng  định cả hai pháp môn đều là phương pháp tu tập đạt được giác ngộ giải thoát và là pháp môn thích ứng với số đông người tu học. Bản thân Ngài là một thiền sư nhưng lại hoằng dương Tịnh độ, đưa ra phương pháp dung hợp Thiền - Tịnh. Một lý do khác khiến Ngài Vĩnh Minh dung hợp Thiền - Tịnh là tình hình xã hội chính trị vào thời ông đang bất ổn, dân chúng đang đau khổ cần sự cứu giúp. Thiền định của Thiền tông quá khó đối với đa số dân chúng, việc áp dụng Thiền kết hợp với niệm Phật giúp cho việc ứng dụngđược dễ dàng thích hợp với mọi căn cơ.

Đức Phật dạy có 84.000 pháp môn, tùy theo căn cơ của mỗi người mà chọn pháp tu cho phù hợpđể con đường thăng tiến tâm linh được dễ dàng. Trải qua sự thăng trầm của lịch sử, chư Tổ bao đời đã phương tiện uyển chuyển trong việc giáo hóa dùng Thiền tông để hoằng dương tông Tịnh độ, như dung hòa nước với sữa. Tuy mỗi tông phái khác nhau, phương pháp hành trì khác nhau, nhưng mục đích nhắm đến đều là quy tâm. Tinh thần dung hợp đó luôn được chư Tổ trao truyền tiếp nối.

Cũng như ở Trung Quốc, tại Việt Nam vào thế kỷ 17 - 18, trong giai đoạn tình hình chính trị của đất nước đang bất ổn, nhân dân lầm than, đau khổ, thất học, việc áp dụng phương pháp Thiền là điều khó khăn đối với quần chúng nhân dân đang phải gánh chịu những đau khổ lầm than do cuộc chiến tranh. Thế nên, việc giới thiệu một cảnh giới tốt đẹp thích hợp với căn cơ của họ dễ tiếp nhận hơn là quan sát tâm. Pháp tu Tịnh độ mở ra một cõi A Di Đà với cảnh giới an vui đầy những điều tốt đẹp, xoa dịu cho những tâm hồn ước mơ hạnh phúc của thanh tịnh và giải thoát, nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng về một đời sống tốt đẹp. Cho nên, sự kết hợp Thiền với Tịnh độ cần thiết cho giai đoạn lúc bấy giờ, đáp ứng được nhu cầu tâm linh cho số đông. Sự dung hợp giữa Thiền và Tịnh độsẽ tạo nên được tính linh hoạt, đơn giản, thực dụng, dễ tiếp cận, đem lại sự tu tập quân bình cho quần chúng tín đồ, không hạn chế ở căn cơ cao thấp mà ai cũng có thể thực hành và được lợi ích. Vì thế Thiền sư Minh Châu Hương Hải đã không ngần ngại đưa ra tư tưởng dung hợp giữa Thiền - Tịnh độ giáo hóa đồ chúng. Sự dung hợp này chúng ta dễ dàng nhận thấy qua cách đặt tên nơi mình ở là Thiền Tịnh viện. Trong tác phẩm sự lý dung thông, Ngài cũng đã thể hiện tư tưởng dung hợp của mình rất rõ ràng:

Chuyển vô minh, bối trần hiệp giác,

Vui về bề diệu dược Liên bang67

Thiền sư vui với việc sanh về cõi Cực Lạc (liên bang) và xem như một phương thuốc kỳ diệu. Bởi vậy, Thiền sư đã dịch giải nhiều kinh về Tịnh độ như: Giải Di Đà kinh, Vô lượng thọ, Quán vô lượng thọ cùng với soạn Khoa cúng Cửu phẩm v.v... nhưng theo nghiên cứu của Giáo sư Lê Mạnh Thát hiện tại chỉ tìm thấy Giải Di Đà kinh, các tác phẩm còn lại hiện vẫn chưa tìm thấy.

Để có thể đưa đến sự dung hợp ắt sẽ có sự tương đồng. Vậy phương pháp Thiền và Tịnh độ có những tương đồng như thế nào? Thiền tông khởi nguồn từ tích đức Phật tại hội Linh Sơn, đưa cành hoa sen lên chỉ dạy, tất cả đại chúng đều ngồi im lặng không hiểu, chỉ có tôn giả Ma Ha Ca Diếp chúm chím mỉm cười. Từ đó, tâm tâm tương ấn, truyền ngoài giáo lý. Pháp môn Tịnh độ cũng được đức Phật chỉ dạy để phù hợp với căn cơ của chúng sanh. Thiền chủ trương tự lực là pháp hành, xoay lại quan sát chính mình để thanh lọc những tạp niệm ở nơi tâm. Trong kinh Niệm xứ, đức Phật có dạy:

Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nào lập tâm chánh trú nơi bốn niệm xứ thì trong vòng bảy ngày bảy đêm cũng sẽ nhất định chứng được một trong hai quả: hoặc chứng cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A Na Hàm nếu còn hữu dư.

Không cần phải đến bảy ngày đêm, sáu, năm, bốn, ba, hay hai ngày hai đêm, cũng không cần trong một ngày một đêm, nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nào trong từng khoảnh khắc lập tâm chánh trụ nơi bốn niệm xứ, nếu buổi sáng thực hành như vậy thì nhất định buổi tối liền được thăng tấn, nếu buổi tối thực hành như vậy thì nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn8.

Trong khi đó Tịnh độ nương vào tha lực trì danh hiệu Phật đến nhất tâm bất loạn sẽ được Phật A Di Đà đến đón. Trong kinh A Di Đà có nói:

Nếu có một thiện nam, thiện nữ nào nghe nói đến đức Phật A Di Đà, trì danh hiệu Ngài từ một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày mà được định chuyên nhấtkhông loạn, thì người ấy lúc lâm chung được thấy đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ratrước mắt. Người ấy lúc chết tâm chánh niệm liền được sanh về thế giới cực lạc của đức Phật A Di Đà” [Tư tưởng kinh A Di Đà, tr.30]

Chủ đích của pháp môn Tịnh độ là dùng câu niệm Phật để dẹp trừ loạn tưởng. Tâm loạn tưởng hết rồi gọi là niệm Phật được nhất tâm, trí sáng suốt hiện tiền. Niệm Phật nhất tâm là tâm được an địnhtừ đó phát sinh trí tuệ. Chỗ nhất tâm của người tu niệm Phật gọi là niệm Phật Tam muội cũng đồng với trạng thái tịch tĩnh của người tu Thiền. Cho nên mục đích của sự tu tập là đưa đến Thiền địnhvà trí tuệ để được giải thoát. Thế thì dù niệm Phật, hay tu Thiền mà tâm chuyên chú an định từ một ngày cho đến bảy ngày thì nhất định người đó đạt được đạo quả. Tu Tịnh thì được thấy Phật, còn tu Thiền thì chứng từ sơ quả đến tứ quả.

Niệm Phật đến nhất tâm được đức Phật A Di Đà đến đón, nhưng muốn được vãng sanh cần phảicó đủ Tín, Hạnh, Nguyện. Trong Giải Di Đà kinh, Thiền sư Minh Châu Hương Hải có giải thích rằng:

Tín, Hạnh, Nguyện, ba sự chẳng khá khuyết một. Tín là tin Di Đà bản nguyện, Thích Ca diễn thuyết, lục phương tán thán. Hạnh là tinh tấn chuyên cần, trì niệm danh hiệu, một lòng hằng nhớ, chẳng khi tán loạn. Nguyện là nguyện vãng sinh Tịnh Độ chẳng còn thối chuyển, kíp nên vô thượng Bồ Đề. Tín, hạnh, nguyện ba sự chẳng khá khuyết nhất. Ngàn người tin niệm, ngàn người vãng sinh, muôn người tin niệm, muôn người đều được vãng sinh. Hằng tin niệm danh hiệu Phật, lòng hằng ức tưởng Phật, miệng hằng niệm Phật, thân hằng kính Phật, mới gọi là thâm tín tâm, lấy làm thiết yếu vậy9.

Tín là niềm tin, người thực hành tin chắc có Phật A Di Đà, cũng tin chắc có cõi Tây phương Cực lạc. Tin như kinh đã nói: “Nếu một người trì danh hiệu A Di Đà từ một ngày cho đến bảy ngày được nhất tâm thì lúc lâm chung thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng, được sanh về cõi Cực lạc”. Nên hành giả phát nguyện sanh về cõi Cực lạc, phát nguyện ở đây không phải phát nguyện suông mà phải bằng hành động, khi hành giả tin chắc những điều này hành giả sẽ nỗ lực thực hành (hạnh). Niềm tin (tín) và sự thực hành (hạnh) cùng song hành với nhau thì sự hành trì không bao giờ gián đoạn, cũng không bao giờ thối chuyển, luôn hướng tâm vào giới, định, tuệ cho đến bảy ngày đạt được nhất tâm (chánh định). Nếu tín và hạnh tròn đủ đạt được nhất tâm thì nguyện lực mong được sanh về thế giới Cực lạc tự nhiên được thành tựu. Đến đây không còn nương tựa tha lực nào từ bên ngoài mà chính mình đã tìm được đường đi (tự lực). Ngược lại, không có niềm tin hành giảkhông thể thực hành (hạnh), niềm tin và sự thực hành không đủ không thể đưa đến nhất tâm, nguyện lực cũng sẽ không được thành tựu. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ sanh ra các công đức, nuôi lớn tất cả các căn lành. Lòng tin hay tăng trưởng công đức trí tuệ. Lòng tin ắt dẫn đến địa vị Như Lai”. Đối với phương pháp Thiền nếu tâm không chánh niệm, không chú tâm vào đề mục thì không đạt đến tâm thanh tịnh. Hai pháp môn tuy khác nhau về phương pháp hành trì nhưng đều cốt trở về với bản tánh thanh tịnh. Một bên thấy Bồ đề Niết Bàn, một bên thấy đức Phật A Di Đà tới đón. Vậy Kinh A Di Đà và Kinh Tứ niệm xứ trong A Hàm nói không khác.

Người tu Tịnh độ lấy tín, hạnh, làm căn bản thực hành một cách rốt ráo đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn sẽ đạt được kết quả như nguyện. Người tu Thiền phải dứt hết các duyên tâm được an định từ đó trí tuệ tăng trưởng, tâm thường hằng sáng suốt. Tu Tịnh độ hay tu Thiền cốt đi đến chỗ nhất tâm. Người tu theo pháp môn Tịnh độ niệm Phật được nhất tâm tức là định, người tu thiền thực hành đến chỗ không còn tạp niệm, tâm chuyên nhất đó là định. Tuy phương tiện dùng có khác nhưng đích đến là một, tùy theo căn cơ chúng sanh mà ứng dụng.

Như vậy, hầu hết các Thiền sư đều đã liễu đạt Thiền pháp nhưng lại dung hợp tư tưởng Thiền Tịnhlàm phương pháp hoằng hóa lợi sanh mang tính phổ cập. Trong Thiền môn của Phật giáo Việt NamThiền - Tịnh mang tính hài hòa, tùy theo căn cơ mà dạy hành giả tu Thiền hay niệm Phật để trải nghiệm quá trình tu tập đạt đến sự chứng ngộ. Điều này chứng tỏ sự vận dụng khéo léo của chư Tổ sư cũng như chính Thiền sư Minh Châu Hương Hải, các Ngài đã Việt hóa các nghi thức tu tậphàng ngày, từ câu niệm Phật đến kinh văn tụng đọc, tùy theo căn cơ cao thấp mà chọn một phương pháp tu tập tham thiền hay niệm Phật, hoặc kết hợp với nhau tất cả đều đưa đến mục đích giác ngộgiải thoát.

 

Thích Nữ Trí Tuyền


1. Lê Mạnh Thát (2005), Nghiên cứu Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Phương Đông, tr. 499.

2. Ủy ban khoa học xã hội – Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý Trần tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Cư trần lạc đạo

4. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb Văn học, tr. 188.

5. Liên tông Lục Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ Đại sư, HT. Thích Thiền Tâm dịch.

6. Cõi Cực Lạc ở phương Tây. Vì chúng sanh ở cõi này từ trong hoa sen hóa sinh ra, cho nên gọi là Liên bang.

7. Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 396.

8. Đại Tạng Kinh Việt Nam (1992), kinh Trung A Hàm tập 2, VNCPHVN, tr. 577-578.

9. Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.349.

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin