Chi tiết tin tức

Vua Trần Thái Tông: Nhà thiền học uyên thâm

20:32:00 - 13/12/2018
(PGNĐ) -  Trần Thái Tông được kể như một ông vua tài giỏi, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu cả hai phương diện chính trị và tâm linh, nhưng cũng là một ông vua mang nhiều đắng cay ngang trái trong sự nghiệp chính trị.

Phương Tây có câu tục ngữ “Hoạn nạn làm lớn con người”. Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự “Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người”. Hai câu nói đo thất đúng khi nói về Trần Thái Tông.Trần Thái Tông là ông vua đầu tiên của nhà Trần đồng thời ông cũng là một thiền sư cư sĩ.

Trần Thái Tông: Đời và Đạo đều lưỡng toàn

Ông được kể như một ông vua tài giỏi, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu cả hai phương diện chính trị và tâm linh, nhưng cũng là một ông vua mang nhiều đắng cay ngang trái trong sự nghiệp chính trị. Cũng có thể những điều ấy là chất liệu xúc tác, nuôi dưỡng để Trần Thái Tông trở thành minh quân, một thiền sư lỗi lạc.

Ông được coi như con người chất chứa một khối mâu thuẫn lớn. Nhưng chính nhờ giáo lý nhà Phật đã làm cân bằng những khối mâu thuẫn lớn trong cuộc đời thi nhân triết gia Trần Cảnh, nhà vua Thiên Ứng Chính Bình, Nguyên Phong. Với vị thế cư sĩ Phật tử, Phật giáo có vai trò rất lớn trong việc hình thành tư tưởng và nhân sinh quan của Thái tông Trần Cảnh. Với ông, Phật Giáo không chỉ là một bộ giáo lý tín ngưỡng, có thể nó còn là một công cụ trị nước, hành dạo mà không xuất thế lánh đời.Tư tưởng Trần Thái Tông vẫn mãi rực sáng trên bầu trời tâm linh, hình bóng ông ngã dài theo từng bước vươn lên đi tới của dân tộc. Công ơn của ông vô cùng to lớn.

Những mâu thuẫn đã được điều hòa bằng chính tư tưởng Phật giáo

Trần Thánh Tông (Trần Cảnh) sinh năm 1218, giữa lúc nhà Lý suy vi, nhà Trần đang củng cố thế lực đang lên nhờ một đôi trai tài gái sắc của dòng họ là Thủ Độ và Thị Dung. Một người làm Điện tiền chỉ huy sứ cai quản ngự lâm quân, một người là hoàng hậu nhà Lý mẫu nghi thiên ha.

Trần Cảnh được đưa lên làm vua năm 1226, tức khi đó ông mới 9 tuổi. Năm đó, anh trai Trần Cảnh là Trần Liễu (1211 - 1251) đã 16 tuổi, câu hỏi thông thường khi đọc sử liệu là tai sao Trần Thủ Độ lại không chọn Trần Liễu để nhằm vào ngôi vua? Kể cả khi Trần Liễu đã lấy công chúa Chiêu Thánh, thì Thủ Độ vẫn có lý để vua Lý nhường ngôi cho Chiêu Thánh? Câu trả lời thường là: Nhường ngôi cho con nhỏ thì Thủ Độ dễ điều khiển triều chính hơn.

Trần Thái Tông với tâm linh cao vút, tư tưởng giác ngộ siêu việt, với sự nghiệp chính trị mang lại thịnh vượng cho Dân Tộc, và đem đến dòng văn học Thiền sáng chói trong lịch sử Thiền tông của Phật giáo Việt Nam

Tuy nhiên, khi xem xét cuộc đời Thái Tông và An Sinh vương sau này, mới thấy quyết định của Trần Thủ Độ có phần sáng suốt, công tâm chứ không phải việc chọn Trần Cảnh làm vua chỉ là muốn dễ “nhiếp chính”.

Câu trả lời là ở chính tư chất của hai người và có lẽ Thủ Độ đã nhìn thấy rất rõ phần thiên tư ở mỗi người cháu mình. So với Trần Liễu, Trần Thánh Tông  hiền hoà hơn, nhân hậu hơn và đó chính là đức tính cần thiết cho bậc đế vương thành một minh quân.

Một khi đã có tư chất thiên bẩm hiền hoà, thông tuệ thì con đường đến với giáo lý Phật pháp, đi đến từ bi giác ngộ, hướng đến trí tuệ Bát Nhã chắc chắn là một nghiệp. Trần Cảnh được chọn ở ngôi cao chắc hẳn là vì vậy, và đây cũng là một thiên nhãn của Trần Thủ Độ, một đức tính cần thiết của người làm “công tác tổ chức - cán bộ” như cách nói của ngôn ngữ ngày nay.

Cuộc đời Trần Cảnh vào năm 1236 - 1237 có nhiều cú sốc lớn. Khi đó, do xếp đặt của Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung mà Trần Liễu bị ép nhường vợ là công chúa Chiêu Thánh cho Trần Cảnh để lập hoàng hậu; còn người vợ 10 năm của Trần Cảnh, hoàng hậu Chiêu Hoàng, thì bị giáng làm công chúa.

Lợi ích của dòng họ đã được đặt lên trên hết, trong đó anh em Trần Liễu, Trần Cảnh phải hứng chịu những oan nghiệt và hy sinh cái cá nhân nhỏ bé. Trong bối cảnh ấy, cách ứng xử của Trần Cảnh đã cứu cho nhà Trần khỏi một cuộc đổ máu, nói không ngoa, cứu cả quốc gia xã tắc khỏi một phen binh đao mà hậu họa nếu có sẽ khôn lường.

Lịch sử cũng có nhiều hoàn cảnh tương tự, khi anh và em tranh nhau ngôi vua, và tất yếu phải có một bên thắng và một bên phải chết. Các hoàng tử nhà Đường đã tranh nhau ngôi vua, Lý Thế Dân đã giết các em để chiếm ngôi. Lý tự nhiên phải vậy. Trần Thủ Độ một người quyền biến càng hiểu phải như vậy.

Nhưng khi đó, vua Trần Thái Tông lại ứng xử không theo nguyên tắc ngôi thứ, mà cách tha cho Trần Liễu làm loạn lại là cách ứng xử của con người Trần Cảnh đến nỗi Trần Thủ Độ đã phải ném gươm mà than: “Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em nhà người thuận nghịch thế nào”.

Câu than ấy chứa đựng cả thái độ vừa giận vừa phục của Thủ Độ. Với cách ứng xử đậm tình người của Trần Cảnh, thì những gươm đao của nhà chính trị Trần Thủ Độ “chỉ là con chó săn thôi”.

Còn khi tha cho Trần Liễu, Trần Cảnh là một người em đối với anh người em có cái lỗi cũng... tày trời chứ. Nhưng nếu không phải là một cư sĩ, thì Trần Cảnh có hành động như vậy được không?

Lòng nhân ấy do đâu mà có? Nếu không có giáo lý nhà Phật soi đường, Trần Cảnh cũng không thể làm thế được.

Con người mang tiếng cướp chị dâu làm vợ ấy, lạ thay, lại có bài văn “răn giới sắc”. Do sắc đẹp nữ nhi mà kẻ mê say đoạn nghĩa thày bạn; người tham đắm đức mất đạo tan. Trên mà phong giáo chẳng còn, dư tất khuê môn rối loạn”. Nếu đó chính là bài văn của vua Trần Thái Tông, thì hẳn không chỉ là “răn dạy” mà còn là chiêm nghiệm.

Nhưng dù có là chiêm nghiệm cuộc đời thì nếu không biết “chỉ giương mắt nhìn ngoại cảnh, chẳng quay đầu chiếu nội tâm” như nhà vua cư sĩ, thể kẻ tầm thường cũng không thể nhận thức được.

Với Trần Cảnh, quan niệm về giới sắc của ông đủ thực tế, nhưng không đến nỗi ham hố như các đấng quân vương khác. Ông viết: “Cởi bỏ lụa là quanh mình, vẫn lộ da bì bọc thịt”.

Coi khinh sắc đến thế, mà vẫn phải phạm vào luân thường để giữ ngôi vua, nỗi cô đơn và thống khổ của cá nhân con người Trần Cảnh thật không gì tả nổi. Và ông chỉ có thể dốc nỗi lòng trong một văn phẩm Phật học.

Tư tưởng Phật học hắn đã làm thăng bằng lại những mâu thuẫn cá nhân trong ông. Ông lý giải ở thiên “bàn về Giới, Định, Tuệ” trong khoá hư lục: “Tuệ làm thiện cuối. Bởi biết thấy như thật, nên sinh lo chán. Bởi lo chán nên lìa dục. Bởi lìa dục nên giải thoát”.

Năm 1237 cũng là năm Trần Thái Tông có một quyết định lạ lùng: Bỏ ngôi vua trốn lên Yên Tử để xuất gia tu Phật. Trong mối mâu thuẫn giằng xé (đổi vợ, lấy chị dâu), giữa lúc nguy cơ loạn ly (Trần Liễu nổi loạn), vương triều Trần có nguy cơ sụp đổ trong gang tấc, thì nhà vua lại trốn đời vào núi đi tu?

Thoạt tiên, có thể hiểu đơn giản là Thái Tông chán ngôi vua nên bỏ vào núi muốn làm sư. Ngôi vua mà sinh ra những chuyện tranh đoạt, sinh ra phá bỏ cả luân thường đạo lý, ngôi vua mà sinh ra nhiều chuyên đau khổ thì đi tu chứ còn làm gì nữa? Nếu hiểu như vậy, thì lẽ nào đạo Phật lại có thể có vai trò quan trọng đến thế trong sự hưng phát của vương triều Trần?

Dùng Đạo Phật để giáo hóa dân chúng, xây dựng chế độ

Tháng 10 mùa Đông năm 1241, người Tống sang cướp phá biên giới, vua sai tướng Phạm Kính Ân đem quân đánh tan quân giặc. Nhân đó, muốn biết tình hình quân địch, vua cải trang thân hành dẫn quân tiến sâu vào tận châu Khâm, châu Liêm, ban đầu người châu ấy bỏ chạy, sau họ mới biết, liền giăng xích sắt giữa dòng sông để ngăn đường thủy. Vua bèn sai quân nhổ vài chiếc cọc sắt đem về (Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên VI, 21). Sử còn chép: Tháng 12 năm Đinh Tị 1257, quân Mông Cổ xâm phạm địa phận sông Thao, vua tự làm tướng đem quân chống cự (Sđd).

Những dẫn chứng trên cho thấy Trần Thái Tông ngồi trên ngôi báu không phải để hưởng phú quý, đắm mình trong thanh sắc hoan lạc. Trái lại, lúc nào vua cũng ý thức trách nhiệm của một vị nguyên thủ quốc gia. Khi đất nước cần, vua đích thân chiến đấu, can đảm xông pha giữa làn tên mũi đạn, đối mặt với quân thù, chứng tỏ bản lĩnh của một vị vua dũng cảm sáng suốt.

Cuộc đời là vô thường, biến đổi không ngừng, con người cũng là sản phẩm của dòng đời vô thường, nên không có lý gì một tội phạm đã từng làm phản lại không biến đổi. Chỉ có một vị vua thấm nhuần giáo lý nhà Phật mới hành động như vậy. Ảnh minh họa

Cuộc đời là vô thường, biến đổi không ngừng, con người cũng là sản phẩm của dòng đời vô thường, nên không có lý gì một tội phạm đã từng làm phản lại không biến đổi. Chỉ có một vị vua thấm nhuần giáo lý nhà Phật mới hành động như vậy. Ảnh minh họa

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: "Một hôm Trần Thái Tông ban cho quân hầu cận ăn xoài, Hoàng Cự Đà không được ăn. Đến khi quân Nguyên đến bến Đông, Cự Đà ngồi thuyền nhẹ trốn đi. Đến Hoàng Giang, gặp Hoàng Thái tử đi thuyền ngược chiều, Cự Đà tránh sang bờ sông bên kia. Quân lính hỏi: Quân Nguyên ở đâu?". Cự Đà đáp: "Không biết, hãy hỏi bọn được ăn xoài ấy !". Sau khi phá được giặc, Thái tử xin trừng phạt Cự Đà để răn những kẻ làm tôi bất trung. Thái Tông nói: "Tội của Cự Đà đáng giết cả họ, nhưng đời xưa có việc Dương Châm không được ăn thịt dê đã làm cho quân nước Tống bị thua trận. Thế nên, trường hợp của Cự Đà ngày nay là lỗi của ta, vậy hãy tha cái chết, cho đánh giặc để chuộc lại lỗi lầm".

Trường hợp bề tôi phạm tội đã không trừng phạt mà còn tự nhận lỗi về phần mình, nếu không có đức độ khoan dung của một vị vua anh minh thì làm sao được như thế.

Dù ngồi trên ngôi báu, công việc triều chính bận rộn trăm bề, nhưng vua lúc nào cũng thao thức học hỏi để tìm con đường giải thoát theo lời ân cần dặn dò của Thiền sư Viên Chứng.

Chính vua đã mô tả sự tinh tấn học đạo của mình trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam "Trong vòng mười năm, mỗi khi việc nước rảnh rỗi, Trẫm lại hội họp các bậc kỳ đức để tham Thiền học đạo. Các kinh điển của đại giáo thì không kinh nào là không nghiên cứu đến".

Không những vua lợi dụng lúc rảnh để nỗ lực học Phật mà ngay trong lúc bận trăm công nghìn việc, vua cũng tranh thủ thì giờ để học cả ngoại điển "Tuy một ngày trăm việc, cũng nhân lúc rảnh rang, chăm công việc, tiếc thì giờ, học càng thêm tiến. Một chữ đinh lo chưa biết đến, đêm canh hai còn gắng tìm xem, đã duyệt sách Nho lại xem kinh Phật".

Sức tinh chuyên của Thái Tông thật đáng làm một tấm gương sáng. Nhờ vậy vua đã có được một sở học khá uẩn súc, không những am tường tam giáo mà những kiến thức chính trị, xã hội, đương thời vua cũng đều quán triệt.

Bằng sự chăm chỉ học hỏi không biết mỏi mệt, vua đã thâm nhập lý vô thường của Phật giáo nên đã tự mình cảnh tỉnh và cảnh tỉnh mọi người: "Mệnh tựa ngọn đèn trước gió, thân như bọt nước đầu ghềnh".

Cuộc đời mỏng manh như vậy mà người ta vẫn đắm chìm trong thanh sắc, không biết tỉnh ngộ: "Luôn khổ, mù mù mịt mịt nào biết nào hay, lẩn quẩn loanh quanh chẳng tỉnh chẳng ngộ. Hết thảy đều buông lung tâm ý chẳng ai nắm mũi lôi về".

Vì không tỉnh ngộ mà chúng sinh bị sinh tử triền miên: "Thông minh tài trí, tránh sao hạn lớn đến nơi, dũng lực oai hùng, khó trốn vô thường ập tới. Thiếp thuận, vợ trinh, trở thành niềm đau đứt ruột, anh nhường em kính vội nên ly biệt suốt đời".

Vậy hãy sớm thức tỉnh quay về ngôi nhà vĩnh cửu: "Cửa đệ nhất phải mau bước tới, nẻo Tam đồ chớ có lần đi, kíp quay đầu nhận lấy quê nhà, mở mắt tuệ chớ cam mộng hảo".

Gần bảy trăm năm nay, hành động bỏ triều chính vào núi định đi tu của vua Trần Thái Tông được người đời ca tụng. Đó tương tự như việc vua Trần Nhân Tông sau này vào núi tu Phật, là “bỏ ngôi cao như trút đôi dép rách vậy”.

Nhưng có thực Trần Thái Tông bỏ ngôi vua là không muốn làm vua, chỉ muốn đi tu hay không?

Vua Nhân Tông sau một khoảng thời gian trị vì đất nước, đạt được thành tựu rất huy hoàng, văn trị lừng lẫy, võ công hiển hách, thái tử đã lớn khôn và khi đó nhà vua ung dung ra đi học đạo, “lập thuyết”, không còn phải quá vướng bận việc đời nữa.

Trong khi đó, hoàn cảnh của vua Trần Thái Tông khi bỏ kinh đô ra đi lại khác hẳn. Triều chính đang rất lục đục, quyền hành do một tay Trần Thủ Độ phân xử cả, làm vua như vua Thái Tông 10 năm đầu chắc chỉ tập trung vào học hành là chính, suy ngẫm là chính, chứ ông chưa thể thi thố được gì nhiều.

Phan Phu Tiên, một sử gia thấm giáo lý Nho học, đã bình luận trong Đại Việt sử ký toàn thư về Trần Thái Tông một cách khá nghiêm khắc, cho rằng vua “khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc... lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ cua anh làm hoàng hậu, chăng phải là bỏ cả luân thường, mở mối dâm loạn đó ư…”, còn Trần Cảnh không giết anh là do “lẽ trời chưa mất mát mà thôi”.

Nói như Phan Phu Tiên, thực là chấp cái “luân thường” mà bỏ qua “lòng nhân”, chỉ chấp việc giết kẻ phản loạn, mà không thấy tha cho tội phạm cũng là một hành vì chính trị của vua Trần.

Ý nghĩa chính trị qua hành động ấy là gì? Là “lẽ trời chưa mất mát” được vua Trần Thái Tông “hành đạo” theo cách của nhà vua, chứ không phải cách “hành đạo” của Trần Thủ Độ. Sự hành đạo của Trần Thái Tông khi tha cho Trần Liễu thấm nhuần quan điểm “không chấp” của Phật giáo.

Cuộc đời là vô thường, biến đổi không ngừng, con người cũng là sản phẩm của dòng đời vô thường, nên không có lý gì một tội phạm đã từng làm phản lại không biến đổi. Chỉ có một vị vua thấm nhuần giáo lý nhà Phật mới hành động như vậy.

Nếu như việc bài binh bố trận khiến Trần Liễu mắc tội là một phép thử chính trị của Trần Thủ Độ, thì việc tha Trần Liễu cũng là một phép thử của vua Trần Thái Tông. Phép thử của vua tỏ ra cao minh hơn, nhờ lấy lòng từ bi để khuất phục võ công. Đây cũng là một hành động “phản kháng” của Trần Thái Tông sau nhiều năm nắm quyền danh nghĩa dưới sự dìu dắt của Trần Thủ Độ.

Rồi sau đó, nhà vua đẩy tới một hành động “nổi loạn” thứ hai quyết liệt hơn nữa, cũng là một phép thử chính trị, đó là bỏ ngôi để vào núi. Nếu như chuyện tha anh chỉ là hành động có tính cá nhân, lấy lòng nhân từ để thuyết, thì việc vào núi lần này chính là lấy Phật thuyết làm cơ sở lý luận, lấy Phật tính làm nền tảng hành vi.

Vì sao lại như vậy?

Như vậy, Phật pháp với vua Trần Thái Tông, không chỉ là mục tiêu giáo lý khô cứng, Phật Pháp vừa là học thuyết hoàn thiện con người, xây dựng nhân sinh quan, vừa là bộ giáo lý nhập thế.Trong thiên Tựa Kinh Kim Cương Tam Muội trong Khoá hư lục, vua viết: “Trẫm lo việc chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lóc trong công việc, quên cả sớm chiều; công việc thì có hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không có được bao lăm. Siêng công việc, tiếc ngày giờ, trẫm cố học hành thêm chữ nghĩa thì chưa biết được bao năm cho nên ban đêm đến giờ khuya vẫn còn phải thức để đọc sách; học sách Nho rồi học kinh Phật”. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo Sử luận, Trần Thái Tông là vị vua đầu tiên thực hiện nhuần nhuyễn kết hợp 2 hệ tư tưởng Phật và Nho. Với Trần Thái Tông, đến với Phật giáo từ chỗ chỉ là nhu cầu tâm linh, tìm nơi “trở về” của một tâm hồn nặng tình đầu nơi bến đậu của một triết gia có tư tưởng lớn khám phá quy luật cõi người; thì trong cuộc đời trị vì, nhà vua đã biến những giáo lý có tính “như” của Phật học bổ xung cho nguyên tắc ứng xử khá cứng nhắc về ngôi vị, tôn ty trật tự xã hội của Nho giáo.

 
Vua Trần Thái Tông đã đưa việc hành đạo trở thành một sự quan hệ hữu cơ với việc nhập thế. Đề cao chữ Tâm, coi trọng “Phật tại tâm”. Ảnh minh họa

Vua Trần Thái Tông đã đưa việc hành đạo trở thành một sự quan hệ hữu cơ với việc nhập thế. Đề cao chữ Tâm, coi trọng “Phật tại tâm”. Ảnh minh họa

Trong câu Quốc sư Trúc Lâm nói với nhà vua ở Yên Tử, “Trong núi vốn không có Phật, chỉ có trong lòng. Lòng lặng mà biết, đó chính là Phật. Nay nếu bệ hạ tâm giác ngộ, thì lập tức thành Phật, không phải nhọc cầu ở ngoài”, Thái Tông dẫn dắt đến một khái niệm “Tâm Phật”, liên hệ với khái niệm “lòng” của người Việt.

Như vậy, tất yếu dẫn đến một tinh thần nhập thế, mà câu nói của Quốc sư như một sự khai ngộ, “Phàm đã là bác nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình...”.

Cái tâm bản thể cung là tâm Phật. Vua Trần Thái Tông đã đưa việc hành đạo trở thành một sự quan hệ hữu cơ với việc nhập thế. Đề cao chữ Tâm, coi trọng “Phật tại tâm” kết hợp với những lễ nghi, lề lối triều chính trong việc trị nước, an dân một cách thực dụng, khởi đầu chính là từ vua Trần Thái Tông vậy.

Trần Thái Tông từ bỏ ngôi vua, âm thầm lên núi Yên Tử để đi tu cầu thành Phật, nhưng bằng vào câu nói của Trúc Lâm thiền sư " Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta" khiến tất cả mọi cơ năng sụp đổ, mọi phiền lụy vỡ tung, nhạt nhòa. Phải chăng câu nói của Trúc Lâm thiền sư như một công án tác động, đánh thức, khiến Trần Thái Tông từ một người với đầy ưu phiền, giờ đây bỗng chốc thức tỉnh, trút bỏ mọi ngang trái, khổ đau? Nếu không có Trúc Lâm Quốc Sư, hẳn đã không có Trần Thái Tông với tâm linh cao vút, tư tưởng giác ngộ siêu việt, với sự nghiệp chính trị mang lại thịnh vượng cho Dân Tộc, và đem đến dòng văn học Thiền sáng chói trong lịch sử Thiền tông của Phật giáo Việt Nam. Nhờ kết hợp, phát huy ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường, trở thành thiền phái Trúc Lâm, thiền phái duy nhất đời nhà Trần, một thiền phái nhập thế mang đậm nét Dân Tộc, dấn thân đi vào cuộc đời, chuyển hóa phiền não, khổ đau bằng con đường hành động tích cực không xa lánh. Phụng sự chúng sanh làm sự nghiệp giác ngộ, giải thoát, ở ngay trong cuộc đời trôi nỗi, biến động này .

Thanh Tâm (Tổng hợp)

Nguồn: phatgiao.org.vn

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin