Chi tiết tin tức Luận giải “Tâm” và “Đạo” qua hai bài thơ thiền của Thiền sư Phạm Thường Chiếu 15:18:00 - 19/01/2024
(PGNĐ) - Tâm và Đạo trong hai thi phẩm của thiền sư như một bản thể của giác ngộ, chỉ khác nhau ở góc nhìn: hướng vào trong thì đó là Tâm, mà hướng ra ngoài thì là Đạo. Trên bình diện khác – quan hệ nhân quả, Tâm là nhân, còn Đạo là quả.
Dẫn nhập NỘI DUNG Trong sách “Thơ văn Lý – Trần” (Nguyễn Huệ Chi chủ biên (1977), tập I) ghi vắn tắt rằng: “Phạm Thường Chiếu 范常照 (?-1203), không rõ năm sinh, người hương Phù-ninh 枎寧. Đời Lý Cao Tông李高宗 (1176 – 2110) đã làm đến chức Lệnh đô tào ở cung Quảng-từ 廣慈. Sau bỏ quan đi tu, theo học Thiền sư Quảng Nghiêm 廣嚴 chùa Tịnh-quả 淨果. Khi đã hiểu được tôn chỉ của đạo Phật, ông đến trụ trì ở chùa Lục-tổ 六祖, hương Dịch-bảng 驛膀, phủ Thiên-đức 天德, lập thành thế hệ thứ mười hai, dòng thiền Quan bích. Như vậy, về cơ bản, giữa hai tài liệu trên không có sự mâu thuẫn về tiểu sử của thiền sư Thường Chiếu, chỉ có vài chi tiết mà bên này có bên kia không cũng chỉ mang lại giá trị bổ sung về cuộc đời và nghiệp tu của ông.
THI PHẨM Phiên âm: Hai thi phẩm được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt cổ phong. Âm điệu không quá trau chuốt, ngọt ngào. Ngôn từ gần gũi, quen thuộc mà nội hàm lại cao thâm. Tâm là gì? Trong quan niệm tính Không của Đạo Phật, rõ ràng thân xác con người chỉ là mộng huyễn, bọt nước, nó không thường hằng mà biến dịch theo lẽ vô thường. Nhưng ở đây thiền sư nhắc đến “nhân thân” không chỉ với dụng ý tái hiện đối với đời sống thế gian mà là đòn bẩy để ông đề cập đến một đối tượng quan yếu hơn trong hành trình của các bậc hành giả, đó là Tâm. Ông viết tiếp: “Tâm vi Như Lai tạng” (心爲如來藏). Trước hết, cần làm sáng rõ ngữ nghĩa của câu thơ này. Theo cách giải thích trong sách “Thơ văn Lý – Trần”: “Tâm là kho báu của Như Lai” [1, tr.531-532]. Cách giải nghĩa này, nếu xét theo văn tự thì không có gì sai, nhưng như vậy lại chưa minh xác trên tinh thần Phật giáo, hơn thế còn dễ khiến người ta mê lạc vào những tà kiến. “Như Lại tạng” phải được giải thích bằng những pháp ngữ tương đồng, như Chân như, hay Pháp thân, hay Phật tính; tức cái tính Phật sẵn có trong mỗi chúng sinh. Ngoài ra, còn có Tự tính trong Thiền tông và một số tông phái khác của Đại thừa cũng mang nghĩa tương đồng với khái niệm này. Nếu như Tâm trong quan niệm của thế tục là tấm lòng, là những suy nghĩ bên trong hay lòng nhân ái thì trong nhà Phật Tâm lại được hiểu khác, nó không phải là cái tâm của tự ngã, mà là Chân tâm vô ngã. Chân tâm tức là cái tâm chân thực, cái tâm rộng lớn, vi diệu vô cùng khi đã thoát khỏi những vọng tưởng, phiền não, khi đã tìm lại được bản tính thanh tịnh vốn có của nó. Đấy mới chính là cái tâm mà hành giả tìm thấy. Vì thế, ngay trong tôn chỉ của Thiền tông Trung Hoa cũng nêu bật lên pháp truyền để đạt được đốn ngộ: Phiên âm: Từ đây, chúng ta sẽ hiểu rõ câu “Tâm vi Như Lai tạng” với ý của thiền sư Thường Chiếu muốn nhấn mạnh đến phần Tự tính/ Phật tính đã luôn sẵn có trong mỗi chúng sinh, nó vốn thanh tịnh, sáng suốt, vô thuỷ vô chung, bất sinh bất diệt; nó có thể bị che lấp bởi vô minh, như nhật nguyệt vẫn sáng mà tạm thời bị mây đen che phủ vậy. Cũng nói thêm, trong Duy thức luận, Tâm còn được đẩy cao hơn, khi chủ trương: “Nhất thiết duy tâm tạo” (一切惟心造) hay “Vạn pháp duy tâm tạo” (萬法惟心造). Tức tất cả đều do tâm sinh ra. Hai câu kết “Chiếu diệu thả vô phương / Tầm chi cánh tuyệt khoáng” (照曜且無方 / 尋之更絕曠), thiền sư đã nêu bật lên bản chất của Tâm, đó là tính thanh tịnh, vô nhiễm, thuần khiết, sáng suốt, và tỏa ra một thứ ánh sáng kì diệu vô lượng, vô biên, vô ngại của từ bi và trí huệ. Cái hay, cái tinh tế ở đây chính là cách chọn lựa từ “diệu” trong câu thơ. “Diệu”, với nghĩa danh từ, là mặt trời, mặt trăng, sao; với nghĩa động từ, là: 1– chiếu sáng, rọi sáng, 2- hiển thị, huyễn diệu. Xét theo quan hệ ngữ pháp, câu thơ trên “diệu” được sử dụng với tư cách từ loại danh từ hay động từ đều thoả mãn, có thể đây là một dụng ý của tác giả. Tuy nhiên, lựa chọn “diệu” với nghĩa (động từ) – huyễn diệu, có lẽ là lựa chọn ưu tiên, vì điều này tương ứng với ngữ cảnh và tinh thần Phật pháp. Thêm nữa, cách sử dụng từ “vô phương” cũng rất đặc biệt, nó không chỉ để diễn đạt cho phạm vi chiếu sáng bao phủ rộng khắp mà còn biểu đạt ý biến hoá vô cùng hay tính chất thù thắng vi diệu của Chân tâm. Ở đây, hai câu kết còn biểu hiện một sự đối ý để làm nổi bật việc tìm thấy Chân tâm đối với hành giả là vô cùng khó khăn, tựa mò kim đáy bể. Trong khi ở câu 3 cho rằng tâm chiếu sáng muôn nơi thì câu 4 lại nói tìm nó càng mênh mông mờ mịt. Nói như vậy liệu có gì mâu thuẫn? Không, bản chất của Chân tâm là vậy. Nếu dễ thì có lẽ tất cả hành giả đều đắc pháp, thành Phật. Ngay như Từ Đạo Hạnh – một danh sư, một bậc Thánh Tổ, trên con đường tu tập, ngài cũng phải thốt lên: Như vậy, muốn hiểu được Tâm và tìm thấy được bản tính chân thật của nó đòi hỏi hành giả phải đủ căn cơ, phải có một đời sống thanh tịnh, tinh tấn hành trì và quán chiếu. Trong tiếng Hán từ “Đạo” thường được biết đến nghĩa gốc là: con đường. Nhưng nó còn một nghĩa tối quan trọng nữa, đó là: chân lý. Ở đây không phải là sự tình cờ, nói cho đúng hơn nghĩa của ngôn ngữ được phản ánh lại do sự tri nhận về thế giới. Chính cái nghĩa “chân lý” này mới là Đạo trong quan niệm của Phật giáo và Lão giáo. Rộng ra, có thể hiểu nó là những nguyên lý, quy luật, hay chân lý tuyệt đối của vũ trụ; tức vốn sẵn có, bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm. Trong ngữ cảnh này Đạo được hiểu là Chánh pháp Như Lai. Như vậy, Đạo không chỉ là con đường dẫn dắt người ta đi đến đích, mà chính nó đã là đích. Đạo vốn không nhan sắc, vậy sao ngày ngày vẫn phô bày ra nhiều vẻ mới lạ ? Liệu ở đây có gì mâu thuẫn? Giải mã cho điều này cần quán sát trên tinh thần căn cốt của Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Như vậy “sắc” và “không” tuy hai mà một, nó như biểu hiện của sự chuyển hoá từ “sắc” thành “không” hoặc từ “không” ra “sắc” mà thôi. Song chân tính của nó vẫn là Không. Cái Khôngở đây lại không đồng nghĩa với không có gì theo cách nghĩ thông thường, mà nó chính là cái vô tướng. Ngay cả khi “sắc” đang hiện hữu trước mắt cũng chỉ do duyên giả hợp mà thành nên nó vẫn vô tướng, còn cái tướng mà mắt thấy thực chất cũng chỉ do tưởng tạo ra (tướng do tưởng sinh). Thế nên, bằng quán chiếu chư Phật thấy rõ “Vạn pháp giai không”(vạn pháp đều không). Bên cạnh đó, câu thơ “Tân tiên nhật nhật khoa” (新鮮日日夸) có thể hiểu rằng cái biểu hiện của Đạo (ngày ngày vẫn phô bày vẻ mới lạ) như sự truyền thừa, phát triển, thực hành của đạo Phật trong thực tế đời sống. Chánh pháp qua thời gian, dù nhập thế hay xuất thế thì cũng có nhiều sự sai biệt so với cội nguồn nguyên thuỷ ban đầu, điều này cũng như từ một thân cây mà sinh sôi nảy nở ra nhiều nhánh nhiều cành. Hai câu kết “Đại thiên sa giới ngoại / Hà xứ bất vi gia” (大千沙界外 / 何處不爲家), một lần nữa tác giả sử dụng phép đối – đối ý giữa một cái lớn lao vô cùng (đại thiên) với một cái nhỏ bé gần gũi (gia). Ở đây là sự nhấn mạnh tính chất và phạm vi của Đạo, Đạo bao trùm tất thảy, phủ khắp nhân gian, vượt ra khỏi thế giới Sa bà đến toàn cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Tuy nó rất xa nhưng cũng thật gần, vì đâu đâu cũng là nhà của nó (Hà xứ bất vi gia). Đến đây lại thấy sự gặp gỡ giữa Tâm với Đạo ở tính chất, phạm vi bao phủ. Nếu như Tâm – “Chiếu diệu thả vô phương”, thì Đạo lại “Đại thiên sa giới ngoại”, đều nói đến sự bao trùm rộng lớn vô biên, vô hạn… Sự gặp nhau này gợi lên cho ta ý nghĩa gì? Nhắc lại trên, khi tìm thấy Chân tâm là lúc thấy được Tự tính, tức giác ngộ; trong khi Đạo chính là chân lý giải thoát, vậy nên khi đạt đến chân lý ấy còn được gọi là “đắc đạo”. Rõ ràng, như thế Tâmvà Đạo vừa tương đồng vừa dị biệt, và giữa chúng có mối liên hệ khăng khít chặt chẽ, khó phân tách. Cũng cần minh định lại khái niệm Đạo trong bài thơ được hiểu là pháp Như Lai. Và trong một cách nói tương đồng, “đắc đạo” và “đắc pháp” có cùng nghĩa, điều đó càng làm sáng rõ hơn những kiến giải về Đạo cũng như mối tương quan giữa Đạo và Pháp (tất nhiên, chưa bàn đến “pháp” với những ý nghĩa khác trong Phật giáo). KẾT LUẬN
Nguyễn Thanh Huy/TCVHPG416
Chú thích Tài liệu tham khảo
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |