Chi tiết tin tức Bến mê 23:00:00 - 01/10/2017
(PGNĐ) - Bé Nam đi chơi về, hỏi ông Năm Lèo:
- Nội ơi! Sao người ta nói nghề chài lưới của nội là nghề “hạ bạc”? Bộ nó bạc bẽo lắm hả nội? - Con nghe ai nói? Ông Năm hỏi lại. - Dạ bạn con. Ông Năm vuốt đầu cháu vừa khen vừa giải thích: - Con ngoan lắm! Cái gì hổng biết thì hỏi người lớn chớ đừng nói ẩu tả bậy bạ nghe con. Hổng phải vậy đâu con. Hạ là xuống, bạc là bến nước. Do người chài lưới phải xuống bến nước mới bắt được cá tôm mới có tên gọi đó. Con hiểu chưa? - Dạ hiểu!
Được ông nội trả lời rành rẽ và đã hiểu thông suốt nhưng Nam vẫn không chịu đi chơi mà quanh quẩn bên ông. Biết ý cháu còn thắc mắc gì nữa đây, ông Năm mở lời: - Con còn muốn hỏi ông điều gì nữa, phải không? - Dạ phải! Nam nhanh nhẩu. Cái miếu ngoài vàm Rạch Nứa thờ ai vậy nội? - Thờ “Bà Cậu”. Bà là “bà Thủy”, cậu là “cậu Tài cậu Quý”. Đó là ba vị thủy thần hộ mệnh dân chài lưới làm ăn thuận lợi, tai qua nạn khỏi. Dân chài lưới rất tin tưởng và kính trọng ba vị. Ở bất cứ làng chài, xóm lưới lớn nhỏ nào cũng đều có miếu thờ, mỗi năm cúng tế hai lần vào mùa xuân và mùa thu rất trang nghiêm thành kính, không dám khinh suất, xúc phạm. - Con cám ơn nội. Thỏa mãn, Nam chạy vụt đi. Ông Năm đưa mắt nhìn theo. Hai câu hỏi ngây thơ của Nam khiến ông nhớ về dĩ vãng xa xưa. Từ vàm Rạch Nứa về phía Đông nam có một xóm gọi là Xóm Chài do người dân ở đây chuyên sống bằng nghề chài lưới. Xóm nằm cặp bờ sông Hậu, con sông đã được giới văn nghệ sĩ ca ngợi là dòng sông hiền hòa thơ mộng và ví như dòng sữa mẹ ngọt ngào mang phù sa về vun bồi ruộng vườn phì nhiêu màu mỡ, mang nhiều loại cá tôm về nuôi dưỡng người dân hạnh phúc ấm no. Xóm Chài được hình thành từ xa xưa, đến nay đã qua mấy thế hệ. Lúc bấy giờ người dân chỉ làm một vụ lúa mỗi năm, sau khi thu hoạch xong, bà con chẳng còn việc gì làm, ở không chan chát. Một số bà con nghèo bèn làm thêm nghề chài lưới để cải thiện cuộc sống. Hồi đó tôm cá thiếu gì, “cầm chài mà vãi xuống sông, không tôm thì cá, chẳng không chài nào”. Mỗi ngày bỏ công chừng vài tiếng đồng hồ đi vãi chài, kéo lưới không chỉ có cá tôm ăn khỏi phải tốn tiền mua mà còn dư ra đem bán tăng thêm thu nhập cho gia đình. Thấy nghề này có đồng ra đồng vô hàng ngày nên người tham gia ngày càng nhiều, Xóm Chài được hình thành như thế đó và truyền từ đời này sang đời khác. Về sau có thêm người đóng đáy, đăng mé, chất chà. Ông Năm Lèo là hậu duệ đời thứ ba của ông Tư Trị, một trong số những người khai sinh Xóm Chài. Dù đã gần sáu mươi nhưng ông vẫn theo cái nghề truyền thống của ông cha. Tuy nhiên, những người trạc tuổi ông theo nghề này không nhiều, còn đám trẻ tỏ ra thờ ơ, không mặn mà cho lắm. Nguyên nhân thứ nhất là do số lượng cá tôm ngày càng ít đi bởi vì đồng ruộng nằm trong đê bao khép kín, chỉ được xả nước theo mùa vụ chứ không còn ngập tràn lan như trước kia làm hạn chế môi trường sinh sản của cá tôm. Hơn nữa, bởi vì nông dân dùng quá nhiều thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, hai thứ đó đã hủy diệt tôm cá ngay từ trong trứng nước. Nguyên nhân thứ hai là phương tiện đánh bắt tôm cá của dân chài lưới thường nhỏ bé, thô sơ và cách đánh bắt thủ công lạc hậu, chỉ xẩn bẩn trong sông rạch chứ không có khả năng vươn ra biển lớn nên thu nhập không cao mà còn khá vất vả. Nguyên nhân thứ ba là đất nước ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên rất nhiều nhà máy, công ty, xí nghiệp hình thành tạo nhiều công ăn việc làm cho nam nữ thanh niên thành thị lẫn nông thôn. Xã hội lại từ từ chuyển dịch sang thương mại, dịch vụ tạo ra nhiều ngành nghề mới khỏe hơn, thu nhập cao hơn chài lưới. Đó là những dấu hiệu báo trước cho một tương lai ảm đạm của cái nghề truyền thống ở Xóm Chài nhỏ nhoi này. Ông Năm thở dài thườn thượt. Bà Năm từ nhà sau bước lên hỏi chồng: - Ông chưa đi đám làm tuần trăm ngày của Tư Rớt sao? Người ta mời hai giờ chiều đó. Ông Năm ngước nhìn đồng hồ, hai giờ kém mười lăm chiều. - Chết cha! Bà không nhắc tui quên mất. Bà Năm trêu: - Nghĩ gì mà ngồi chình ình như ông thần thừ, như người mất hồn mất vía vậy? Gần tới giờ vô đám rồi nghen. Ông Năm Lèo đến nhà Tư Rớt thì gia đình ông ấy đã làm lễ cúng, thầy Nghĩa đang tụng kinh cùng vài Phật tử. Thầy Nghĩa không phải tu sĩ hay thầy cúng mà là cư sĩ. Thầy hiền lành, có đạo đức, nhã nhặn, ôn hòa, ăn ở rất được lòng hàng xóm. Am hiểu giáo lý, kinh điển Phật giáo và rành nghi thức tụng niệm. Thường xuyên tụng kinh đám tang và đám làm tuần cho bà con nhưng không bao giờ nhận thù lao bằng tiền hay lễ vật. Trâu cột ghét trâu ăn, nhiều tay thầy cúng mất miếng ăn lộn gan lên đầu tung tin bậy bạ, nói xấu thầy Nghĩa đủ điều nhưng “dù ai nói ngả nói nghiêng, mà ta vẫn vững như kiềng ba chân”, chứng tỏ chính đạo luôn luôn chiến thắng tà đạo. Tụng kinh xong, thầy Nghĩa ra ngồi uống trà cùng bàn với Năm Lèo và nhiều bà con khác. Năm Lèo hỏi thầy Nghĩa: - Anh vừa tụng kinh gì nghe lạ quá vậy? - Kinh Địa Tạng. Thầy Nghĩa đáp. - Kinh đó ý nghĩa ra sao? Thầy Nghĩa nhìn Năm Lèo, khen: - Anh có ý phân biệt và tìm hiểu ý nghĩa kinh điển chứng tỏ anh có căn tu. Tuy nhiên, ý nghĩa kinh Địa Tạng sâu rộng lắm, ở đây lại ồn ào và không có thì giờ nên tui không thể giải thích cho anh nghe được. Để mai mốt tui tặng anh một cuốn cho anh coi và sẵn sàng giảng cho anh những chỗ anh chưa rõ nghĩa. Được không? Năm Lèo mừng rỡ: - Vậy là tốt quá rồi còn gì. Nhưng mà, tui xin hỏi anh thêm chút xíu thôi. Hồi nãy tui nghe loáng thoáng trong kinh có nói đến cá trành cá trạnh gì đó là nghĩa làm sao? Thầy Nghĩa hoan hỷ: - Đây là đoạn kinh nói về nàng Quang Mục cứu mẹ nhưng tui chỉ kể đại khái, anh sẽ hiểu rõ chi tiết hơn sau khi xem kinh. Lúc sinh thời, mẹ nàng Quang Mục rất thích ăn cá trành (hay trạnh), ăn rất nhiều, nhiều như hằng hà sa số vậy đó, nhất là cá con và trành con. Sau khi mất, bà bị đọa địa ngục rất khổ sở. Nàng Quang Mục bèn làm theo lời của vị La-hán chỉ dạy, đem lòng chí thành niệm Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và xuất tiền vẽ tranh đắp hình tượng Đức Phật ấy thờ cúng. Chẳng bao lâu sau mẹ nàng Quang Mục được tái sinh làm một người con trai. Qua lời thầy Nghĩa, ông Năm Lèo chợt nhớ đến cái chết của Tư Rớt, Hai Chạy và bà Chín Hường. Tư Rớt và Hai Chạy đều là thợ chài lưới chuyên nghiệp, lặn lội như rái cá, có tay nghề trên ba mươi năm, giàu kinh nghiệm đánh bắt và khả năng ứng phó hiểm nguy sông nước. Hơn hai năm trước, Hai Chạy đi chài cùng vợ, chài mắc gốc, ông ta lặn gỡ, lâu quá không thấy ông ta trồi lên, vợ ông ta hô hoán, nhiều người lặn xuống mò thấy ống ta nằm chết trong miệng chài. Cách đây đúng ba tháng mười ngày, lúc nước ròng gần hơn nửa sông, vừa bày bãi, Tư Rớt cùng vài người rủ nhau mò tôm. Mò một hồi không thấy ông ta đâu, cả bọn bèn đi kiếm thì gặp ông ta chết ngồi dưới bến trước miễu “Bà Thủy”. Bà Chín Hường là con gái dân chài lưới chuyên nghiệp; sau khi lấy chồng, bà tiếp tục chèo tam bản cho chồng chài. Sau vài năm sắm lưới mua ghe đi đăng mé rồi vài năm sau nữa lại đổi sang đóng đáy nhưng cuộc sống vẫn không khá mấy nên vợ chồng bỏ nghề, đi buôn bán hàng bông. Năm ngoái, lúc nước ròng, bà cùng nhiều phụ nữ khác đi xúc cá, cào hến dưới rạch. Nước giữa lòng rạch chỉ ngang ngực, bà lại bơi lội giỏi nhưng không biết làm sao lại chết đuối một cách im lìm mà cả bọn không ai thấy biết, đến khi phát hiện cái nón lá và cái nồi đựng cá của bà trôi phập phều, mọi người đổ xô đi tìm, vớt được thì bà đã ra người thiên cổ. Cả ba cái chết đều có thể do bệnh tật gây ra, nhiều nhất là bị vọp bẻ (chuột rút) nhưng người ta cứ thêu dệt nhiều chuyện thần bí, hoang đường kỳ quái, chẳng hạn như tại ba người đó xúc phạm, có lỗi với “Bà Cậu” nên bị “Bà Cậu” trừng phạt! Ông Năm Lèo lại nghĩ khác. Họ đã tạo nghiệp quá nặng, giết hại quá nhiều cá tôm, gấp năm gấp mười lần mẹ nàng Quang Mục. Bà ấy chỉ ăn một loại cá, mỗi ngày hai lần, mỗi lần cao lắm nửa ký là cùng, còn họ vãi chài, kéo lưới một ngày mấy chục lần thì có biết bao loại tôm cá bị giết hại, trong đó có những loại cá còn bé xíu bằng cây chân nhang, tăm xỉa răng như cá cơm mồm. Mà đã tạo nghiệp thì sau khi chết phải nhận quả báo như trong kinh Địa Tạng đã nói. Trông người rồi nghĩ đến ta. Ông Năm Lèo tự nhủ. Mình cũng là dân chài lưới chuyên nghiệp, hành nghề gần bốn mươi năm, giết hại không biết bao nhiêu tôm cá. Nhưng, mình lại không có phước như mẹ nàng Quang Mục, không có con hiếu thảo cứu mình. Không có người cứu thì mình tự cứu và cứu luôn cha mẹ, ông bà bớt đi tội nghiệp được chút nào hay chút nấy. Nghĩ là làm. Nhân mùa Vu lan Báo hiếu, ông Năm Lèo quyết định “rửa tay gác kiếm”, treo miệng chài và tấm lưới lên “bảo tàng giàn bếp” làm vật kỷ niệm cho con cháu mai sau. Ông phát tâm ăn chay trọn tháng Bảy, cúng dường trai tăng cầu nguyện cho vong linh cha mẹ, ông bà siêu sinh Tịnh độ, rồi nhờ thầy Nghĩa dẫn vô chùa quy y, thọ giới và theo thầy học kinh kệ, nghi thức tụng niệm để cùng thầy kiếm chút phước báu, duyên lành. Trương Hoàng Minh
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |