Chi tiết tin tức Trăng sáng giữa đời mơ 18:26:00 - 21/02/2024
(PGNĐ) - Nếu như ánh mặt trời được ví cho sự giác ngộ giải thoát tối thượng của Đức Phật, thì sự giác ngộ của các hàng đệ tử Phật như những ánh trăng rằm tròn đầy, không bị mây đen che mờ, soi sáng những đêm trường tăm tối vô minh.
1. TỔNG QUAN Bài viết này sẽ trình bày ý nghĩa về bậc chân nhân (sappurisa) theo tinh thần Kinh tạng Nykāya. Qua đó, chúng ta nhận thấy bậc chân nhân chính là những vị đại Bồ tát, Thánh nhân thực hành bi nguyện tự giác-giác tha, tự rèn luyện chuyển hóa tự thân và mang đến lợi lạc cho muôn loài, kế thừa sự nghiệp vĩ đại của Đức Phật, đem đến cho nhân loại nguồn ánh sáng của Giới – Định – Tuệ – Giải thoát. Nếu như ánh mặt trời được ví cho sự giác ngộ giải thoát tối thượng của Đức Phật, thì sự giác ngộ của các hàng đệ tử Phật như những ánh trăng rằm tròn đầy, không bị mây đen che mờ, soi sáng những đêm trường tăm tối vô minh. Ánh trăng là sự lan tỏa nguồn sáng kỳ diệu, bởi nó xuất phát từ những trái tim từ bi và lòng vị tha vô ngã của các bậc chân nhân, những vị thực hành Bồ tát đạo đã đạt đến trạng thái giải thoát siêu xuất và không còn sự ràng buộc trong ba cõi. 2. ĐỊNH NGHĨA VỀ BẬC CHÂN NHÂN Thuật ngữ “sappurisa” mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây được hiểu như một con người có phẩm chất tốt đẹp, cao thượng. Từ “sappurisa” trong tiếng Pāli (hay satpuruṣa trong Sanskrit) khi dịch sang Hán ngữ thường là: Chân nhân (真人), thượng sĩ, đại sĩ, chân thiện nhân,… [1]. Trong The Pali Text Society’s Pali-English Dictionary định nghĩa sappurisa cấu tạo bởi sat (=sant) nghĩa là những gì thiện lành, cao quý, tốt đẹp và purisa nghĩa là một con người; do đó sappurisa nghĩa là một người tốt lành, xứng đáng được tôn trọng [2]. Sự chuyển ngữ cho phù hợp với từng quốc gia là điều cần thiết, nhưng không vì thế mà nó đánh mất đi ý nghĩa từ nguyên gốc của nó. Điển hình như, đối chiếu bài kinh số 113 trong Kinh Trung Bộ, Sappurisasuttaṃ – Kinh Chân nhân [3] và bài kinh tương đương Chân nhân kinh (真人經) trong bộ Trung A-hàm Kinh thuộc Hán truyền [4], trong bài kinh này và một số bài kinh khác trong A-hàm cũng thường sử dụng từ “chân nhân” để dịch cho từ sappurisa (hay satpuruṣa), trong các bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu cũng hay sử dụng từ chân nhân trong các bản dịch của ngài (điển hình như bài kinh số 113 Trung Bộ Kinh đã nói ở trên). Thuật ngữ này còn được dịch là “hiền minh chi thiện nhân” trong Hán dịch Nam truyền đại tạng kinh [5]. Ngoài ra, theo Phật quang đại từ điển định nghĩa: “Chân nhân: Tên gọi khác của A-la-hán, vì các A-la-hán là các bậc tu hành đạo chân chính không hư ngụy, nên gọi là chân nhân. Ngoài ra, các bậc tu hành vĩ đại (Đức Phật) hoặc các thánh nhân đã chứng pháp đích thực mà không kiêu, khinh dễ người khác điều gọi là chân nhân” [6]. Ở đây, chúng ta thấy có sự định nghĩa hơi khác so với các từ điển đã dẫn, đó là định nghĩa “chân nhân” tương đương với địa vị của bậc A-la-hán. Như vậy, để có thể làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của thuật ngữ sappurisa (chân nhân) được diễn tả trong các kinh Nikāya hay A-hàm, sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về những ý nghĩa của thuật từ này trong các kinh điển liên quan. 3. CÁC PHẨM CHẤT CẤU THÀNH MỘT BẬC CHÂN NHÂN 3.1. Biết ơn và nhớ ơn Như vậy, đặc tính của một sappurisa theo đoạn kinh này phải gồm hai đức tính tốt đẹp biết ơn và nhớ ơn. Đây cũng chính là một trong những đạo lý căn bản của con người cả thế gian và xuất thế gian. Ngay cả xã hội Việt Nam ta từ ngàn xưa, tinh thần uống nước nhớ nguồn đã nói lên tính dung thông giữa đời và đạo, vì thế không thể nói Phật giáo xa rời nhân sinh, trái lại Đạo Phật luôn đồng hành cùng những thăng trầm lịch sử và những giá trị đạo đức nhân bản trong xã hội. Vì thế mà đặc tính nền tảng (địa vị) của một sappurisa luôn chứa đựng hai yếu tố này, đó cũng chính là phẩm chất mang tri thức hay giới đức tốt đẹp (sabbhi) của một vị chân nhân. Ngay cả Đức Phật, sau khi chứng quả cũng đã thể hiện rõ hai đức tính cao đẹp này, đó là thể hiện sự biết ơn đối với cội cây nơi che chở Ngài trong thời gian thiền định và lần lượt tìm đến những vị ân nhân đã giúp đỡ trong thời gian trước kia, kể cả công ơn sinh thành của đức vua Tịnh Phạn. Chính vì thế, trong Phật giáo, ngoài tu tập giải thoát cho tự thân, còn cần phải báo đáp “Tứ trọng ân” mà người xuất gia đã thọ nhận. Đây cũng chính là một trong những truyền thống cao quý đã có từ thời Đức Phật và duy trì đến hiện tại. 3.2. Chánh hạnh Trong đó từ sammāpaṭipajjamāno được dịch là chánh hạnh, tức những đức tính chân chính của bậc hiền trí, bậc chân nhân, trái ngược lại với micchāpaṭipajjamāno tức tà hạnh, không xứng đáng với phẩm chất của bậc hiền trí chân nhân. Chánh hạnh sammāpaṭipajjamāno đối với cha mẹ (mātari ca pitari ca), chánh hạnh đối với Như Lai và đệ tử của Như Lai (tathāgate ca tathāgatasāvake ca). Ở đây có thể hiểu chánh hạnh của một vị hiền trí, chân nhân cần có những hành động thích hợp (cung kính, tôn trọng, phụng dưỡng, cúng dường,…) đối với hai đấng sinh thành và Đức Phật cùng đệ tử Đức Phật. Bởi công đức cha mẹ là cao tột và khó đáp đền, dù có dùng hai vai cõng vác cha mẹ suốt trăm năm hoặc an trí vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu cũng chưa làm đủ hay trả ơn mẹ và cha. Bởi “cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này.” Do đó, bổn phận của một người con hiếu thảo với trí tuệ cần thực hiện các chánh hạnh như: khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới, bố thí… Cho đến như vậy, tức là làm đủ và trả ơn đủ đối với mẹ cha [9]. Tương tự, đức Như Lai dạy đệ tử của Ngài phải thực hành các bổn phận với những bậc thầy chỉ đạo cho đến các bậc đồng học, cần thân cận gần gũi cúng dường, tiếp nhận lắng nghe những giáo pháp mà các vị ấy truyền đạt. Đó cũng chính là thực hiện phận sự của đệ tử đối với Đức Phật, với vị thầy tế độ hay thầy giảng dạy giáo pháp, luôn sống trong sự cung kính, trên tinh thần lục hòa, tương thân tương ái, cùng hướng đến mục đích đạt tới Niết bàn, giải thoát. 3.3. Niềm tin chân tịnh Theo đoạn kinh này, nhờ sự thành tựu hai yếu tố này mà bậc hiền trí, chân nhân được ngợi khen và tạo ra nhiều phước đức. Hai yếu tố đó là: “Sau khi suy tư và thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ không đáng tin tưởng, và tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng”. Chúng ta nhận thấy sự tin tưởng hay niềm tin cần đặt vào đúng vị trí, sau khi đã suy lường, tư duy với trí tuệ. Bởi nếu đặt niềm tin vào không đúng đối tượng sẽ dẫn đến kết quả không thành tựu, do đó vị chân nhân là người phải luôn tỉnh giác với trí tuệ suy lường mà đặt để tin tưởng, niềm tin (pasāda) đúng đắn sẽ tạo ra nhiều công đức tốt lành. 3.4. Thiện hạnh về thân, khẩu, ý Trong một đoạn kinh khác, cũng với ý nghĩa tương tự, đó là bậc chân nhân ngoài việc đạt đến thiện hạnh về thân, khẩu và ý (kāyasucaritena, vacīsucaritena, manosucaritena) còn thành tựu về chánh tri kiến (sammādiṭṭhi) [12]. Chánh tri kiến là một trong tám chi Thánh đạo, chính nhờ thành tựu tri kiến mà vị ấy luôn sống trong sự quán sát với trí tuệ chân chính, trí tuệ phân biệt rõ được thiện và bất thiện: “Chư hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bản thiện, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu Diệu pháp này” [13]. Cũng theo lời giải thích của ngài Sāriputta, chánh tri kiến có nghĩa là sự hiểu biết rõ ràng (pajānāti) về căn bản thiện và bất thiện. Theo đó, căn bản của bất thiện (akusalamūlaṃ) gồm: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói láo, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời phù phiếm, tham dục, sân và tà kiến. Chính vì thế, một bậc chân nhân cần có sự thanh lọc về thân, khẩu và ý, có sự chú tâm cảnh giác và chế ngự các pháp bất thiện khởi lên. Do vậy, trong một bài kinh thuộc Tăng Chi Bộ định nghĩa rằng bậc hiền trí, chân nhân đạt đến sự thanh tịnh về thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp ([A,i,293]: kusalena kāyakammena, kusalena vacīkammena, kusalena manokammena) chính do ba nghiệp đã an tịnh, nên được xem là không lỗi lầm, tức là thuộc về thiện nghiệp, vô tội, không có lầm lỗi. Bốn đặc tính được diễn tả là: thân nghiệp không có lầm lỗi, khẩu nghiệp, ý nghiệp và tri kiến không có lầm lỗi (A,ii,253: anavajjena kāyakammena, anavajjena vacīkammena, anavajjena manokammena, anavajjāya diṭṭhiyā). Như vậy, ở phần này, chúng ta đã tìm hiểu thêm về những đặc tính của một chân nhân, đó chính là sự an tịnh của ba nghiệp thân – khẩu – ý và chánh tri kiến là một đặc tính không thể thiếu. 3.5. Thành tựu các học pháp 3.6. Chân thật 3.7. Bảy đức tính của một chân nhân Bảy diệu pháp này gần giống với Thất thánh tài (tín, giới, tàm, quý, văn, thí, tuệ) [21], chúng chỉ khác nhau ở chi phần giới và bố thí. Bảy Diệu pháp hay bảy đức tính của một vị chân nhân là: lòng tin (saddha) là sự tin tưởng, tịnh tín nơi Phật – Pháp – Tăng, nơi Giới – Định – Tuệ, tin tưởng vào con đường giác ngộ mà Đức Phật đã thuyết giảng và tin chắc rằng sự thực hành diệu pháp này sẽ dẫn đến an vui hạnh phúc; xấu hổ (hirimā) cảm thấy hổ thẹn, có lỗi với những hành động bất thiện mà mình đã gây tạo, do đó mà ngăn chặn và chuyển hóa chúng; sợ hãi tội lỗi (ottappī) là trạng thái kinh sợ trước những hành động bất thiện, vì vậy mà có sự phòng hộ và ngăn chặn không cho các bất thiện pháp phát sinh trong tương lai; nghe nhiều (bahussuto) hay có nghĩa là đa văn, tức chỉ cho người có một kiến thức rộng rãi về pháp học, có thể tinh thông pháp học thế gian và xuất thế gian; tinh cần tinh tấn (āraddhavīriyo) lòng nhiệt huyết và sự kiên trì không mỏi mệt trong việc tu tập ngăn chặn cái ác và hướng tới sự thánh thiện cao thượng; có sự an trú niệm (satimā) niệm sati trong chánh niệm sammasati để chỉ cho sự an trú niệm trên các đề mục thiền quán, luôn có sự chú tâm cảnh giác và đặt dưới sự soi rọi của tuệ quán minh sát (vipassana); có trí tuệ (paññavā) hiểu rõ bản chất của các pháp, trí tuệ đạt đến do tu tập về giới và định, đạt đến cái thấy biết rõ ràng, vô ngại, giải thoát. 3.8. Chỉ trích và tán thán đúng pháp Trong đoạn kinh này, vị chân nhân còn được đề cập tương tự một bậc hiền trí khôn khéo, bậc trí tuệ mẫn tiệp (paṇḍito viyatto). Vị chân nhân phải là một người biết tán thán (vaṇṇaṃ) và chỉ trích (avaṇṇaṃ) đúng đắn sau khi đã suy tư thẩm sát, suy lường kỹ càng (anuvicca pariyogāhetvā). Chính những hành động này đã tạo ra nhiều phước đức (puñña) tự thân. 3.9. Pháp của bậc Thánh 10 Thánh pháp này tương tự với Kinh Con đường Mười ngành [24] (A,ii,221; Dasamaggasuttaṃ). Kinh này đề cập về mười con đường hay mười ngành dẫn đến địa vị của một bậc hiền trí chân nhân: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh trí và chánh giải thoát. Mười con đường hay mười thánh pháp này đã gồm thâu Bát thánh đạo, tức là con đường dẫn đến Thánh quả, hay nói cách khác, đây chính là “Thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt, này các Tỳ kheo, chính là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến,…chánh định” [25]. Ni sư Dhammadinnā đã giải thích cho Visākha: “Hiền giả Visākha, Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong Định uẩn. Chánh tri kiến và Chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong Tuệ uẩn”[26]. Trong đó chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về Giới uẩn tức là những gì có liên quan đến các học giới, các phương pháp phòng hộ các giác quan. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về Định, nghĩa là thuộc về thiền định, sự nỗ lực trong lúc thiền định hay thiền quán. Chánh tri kiến, chánh tư duy thuộc về Tuệ , phát sinh do thực hành đúng đắn các chi phần trước đó, có được cái nhìn tuệ quán về các sự vật như nó đang là. Chánh trí (sammāñā), chánh giải thoát (sammā-vimutti) là kết quả đạt đến do viên mãn tám chi phần kia, tức là đạt đến trí tuệ của bậc thánh và thành tựu giải thoát, chấm dứt khổ đau. Như vậy, thông qua việc tìm hiểu về một số đức tính tốt đẹp của một vị chân nhân, đến đây đã dần dần phác hoạ được những phẩm chất cốt cách và đức tính cao thượng, một hình tượng về bậc hiền trí chân nhân sappurisa trong Phật pháp. Tìm hiểu về bậc chân nhân cũng chính là tự học tập và định hướng cho quá trình tu tập của chính bản thân, thông qua những định nghĩa, những lời dạy ghi nhận trong kinh điển. 4. VAI TRÒ CỦA BẬC CHÂN NHÂN TRONG CHÁNH PHÁP 4.1. Bốn lợi ích của sự gần gũi bậc chân nhân Nhờ có sự nương tựa nơi bậc chân nhân, người nương tựa có thể đạt đến bốn sự lợi ích (ānisaṃsā pāṭikaṅkhā): “Nhờ y tựa bậc chân nhân, này các Tỳ kheo, chờ đợi là bốn lợi ích. Thế nào là bốn? Lớn mạnh nhờ Thánh giới, lớn mạnh nhờ Thánh định, lớn mạnh nhờ Thánh trí tuệ, lớn mạnh nhờ Thánh giải thoát” [27]. Đoạn kinh xác định rằng, vì có sự nương tựa, gần gũi nơi các bậc chân nhân mà Thánh giới (ariyena sīlena), Thánh định (ariyena samādhinā), Thánh tuệ (ariyāya paññāya), Thánh giải thoát (ariyāya vimuttiyā) tăng trưởng (vaḍḍhati) [A,ii,239]. Như trên đã phân tích về Giới, Định, Tuệ và Giải thoát (cùng với Chánh trí) là một trong những thành tựu của bậc chân nhân đạt đến trên lộ trình tu tập, do sự nương nhờ gần gũi mà chúng ta cũng có thể đạt đến các cấp độ giải thoát như các vị ấy. 4.2. Tăng trưởng trí tuệ 4.3. Lời tuyên bố của bậc chân nhân 5. BẬC KHÔNG PHẢI CHÂN NHÂN Tuy nhiên, trái ngược với những đức tính cao thượng của một vị chân nhân là sự đối lập, tức những phẩm chất của vị không phải chân nhân. Nói tổng quát thì trái ngược lại với những đức tính tốt đẹp của bậc chân nhân là đặc tính của người không phải chân nhân (asappurisa) như: không biết ơn, không nhớ ơn; thân ác hạnh, miệng ác hạnh, ý ác hạnh; thân, lời, ý nghiệp: không thiện; có phạm tội, tri kiến có tội; sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men rượu nấu, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm, có tham, có sân, có tà kiến; ác độc, có tánh ác; không có lòng tin, không có xấu hổ, không có sợ hãi tội lỗi, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ; có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà trí, tà giải thoát,… Trái ngược với những đức tính của vị chân nhân tức người không phải chân nhân, sự diễn tả tương phản này giúp chúng ta có thêm cái nhìn sâu sắc và nổi bật hơn những đức tính của bậc chân nhân. Đó cũng là những trạng thái biểu hiện của thân tâm mà chúng ta cần đề phòng, cảnh giác và tự điều chỉnh. 6. TRĂNG SÁNG GIỮA ĐỜI MƠ Vì thế, việc học Phật cũng cần bắt đầu từ những nền tảng cơ bản và dần tiến đến các cấp độ giải thoát cao hơn. Sự tu tập đó cần thực hành tuần tự, dần dần, không phải sự phóng tâm mong cầu vượt bậc khi chưa thật sự đạt những thành tựu. Những đức tính của bậc chân nhân cũng xuất phát từ những phẩm chất tốt đẹp của con người, thông qua sự rèn luyện, thanh lọc, ai ai cũng có thể có được sự giải thoát như các bậc chân nhân. Trong bối cảnh xã hội phát triển, đời sống vật chất phát triển phong phú nhưng không đồng nghĩa với các sự tiến bộ của đạo đức tâm linh. Do đó, việc tìm hiểu ý nghĩa của bậc chân nhân trong Phật pháp mang tính triết lý và giáo dục cao, đây sẽ là sự định hướng cho tu tập trong xã hội hiện nay. Các giá trị đạo đức căn bản của xã hội như: biết ơn, chân thật, không sát sanh, không trộm cắp,… đã định hình nên một nền đạo đức xã hội, đó cũng là các giá trị nhân bản nhất của con người. Hơn nữa, Phật giáo còn tiến đến sự tu tập và chứng nghiệm các trạng thái giải thoát của tâm, siêu vượt ra khỏi ngôn ngữ lý luận thường tình của thế gian. Chỉ có thông qua con đường tu tập hành trì chứng nghiệm mới có thể đạt đến các trạng thái tâm giải thoát vô ngại. Những con người với lý tưởng giải thoát cao thượng, luôn luôn có sự chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, sống trong sự phòng hộ, luôn được soi sáng bởi chánh tri kiến. Những bậc chân nhân tỏa sáng như ánh trăng rằm trong những đêm trường lạc loài mơ mộng, bị bao phủ bởi những tăm tối vô minh. Ánh trăng là ánh sáng của Giới – Định – Tuệ – Giải Thoát lan tỏa những thông điệp về trí tuệ, từ bi, cùng với những nhân cách cao thượng, bậc phạm hạnh mô phạm trong loài người. Những bậc chân nhân nhập thế hành đạo, làm nơi nương tựa cho loài người như một vầng trăng sáng giữa đời mơ./.
Thích Từ Thông/TCVHPG417
Chú thích: Tài liệu tham khảo:
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |