Chi tiết tin tức

ĐỂ TRỞ THÀNH PHẬT TỬ CHÂN CHÍNH TẬP 2

21:41:00 - 18/09/2014
(PGNĐ) -  Đạo Phật chủ trương lấy nhân quả làm nền tảng của sự sống để phản ảnh mọi lẽ thật hư trong cuộc đời này bằng ánh sáng trí tuệ, nhằm thấu suốt  nguyên lý thế gian. Mọi lẽ thật giả đều hiện bày sau khi có sự chiêm nghiệm và suy xét bởi ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi lòng tin đó là "chánh tín". Ngược lại, tin mà không hiểu rõ cội nguồn của mọi lý lẽ là tin càn tin bướng, người tin như thế là "mê tín". Chính vì thế người học đạo cần phải có lòng tin, song lòng tin ấy đã trải nghiệm qua sự quán chiếu, suy xét và có chọn lọc kỹ càng...

BÀI 12- CHÁNH TÍN NHÂN QUẢ PHÁ TRỪ MÊ TÍN

 

Đạo Phật chủ trương lấy nhân quả làm nền tảng của sự sống để phản ảnh mọi lẽ thật hư trong cuộc đời này bằng ánh sáng trí tuệ, nhằm thấu suốt  nguyên lý thế gian. Mọi lẽ thật giả đều hiện bày sau khi có sự chiêm nghiệm và suy xét bởi ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi lòng tin đó là "chánh tín". Ngược lại, tin mà không hiểu rõ cội nguồn của mọi lý lẽ là tin càn tin bướng, người tin như thế là "mê tín". Chính vì thế người học đạo cần phải có lòng tin, song lòng tin ấy đã trải nghiệm qua sự quán chiếu, suy xét và có chọn lọc kỹ càng.

 

 

Mê tín là lòng tin mù quáng không thấy đúng lẽ thật, không thấy đúng chân lý vì mê muội. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao giải hạn, tin có một người ban phước giáng họa v.v... Những lối tin này không có logich, không đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọi là mê tín, vì đi ngược lại với giáo lý nhân quả. Mê tín có hai loại:

Mê tín do tâm mong cầu quá đáng - Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả năng mình thì dễ sinh mê tín. Ví như có một người muốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết việc làm ăn này sẽ đạt được kết quả tốt hay xấu. Tự nhiên lòng họ thấy băn khoăn lo lắng không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói có một ông thầy nào đó biết được quá khứ vị lai đoán trúng được vận mệnh của mọi người, họ liền tìm đến để cầu cho được. Chỉ tốn tiền quẻ có năm bảy trăm hoặc vài ba triệu, biết việc làm cuả mình thành công hay thất bại thì ai mà không ham. Chính vì lòng tham và sự mong cầu quá đáng mà dẫn con người ta đến mê tín dị đoan.

Mê tín do tâm lo lắng sợ hãi – Con người ta hay lo lắng sợ hãi, suy nghĩ vu vơ là gốc sinh ra mọi điều mê tín. Có những người bị tai nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, con trai thi rớt, con gái bị bệnh.. mất bình tĩnh, nghe đồn ông thầy đó coi tay xem tướng rất giỏi và có thể trừ được tà ma yêu tinh quỷ mị. Hoặc có người sợ vận sui hạn xấu, nên đầu năm đến chùa cúng sao giải hạn, cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông, gia đình được an vui may mắn. Hoặc có người vì thương cha mẹ đã quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa ngục chịu đói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho, xe cộ, giấy tiền vàng bạc, lễ cúng đốt xuống cho cha mẹ được an hưởng nơi âm ty... Mọi sợ hãi đều bắt đầu từ sự mê tín.

Đã làm người ai cũng có thể ước mơ hay mong cầu một điều gì đó, rồi tình trạng lo lắng sợ hãi, trong bầu vũ trụ bao la này với thiên nhiên huyền bí, chính vì chưa thấu rõ hết nguyên lý nhân duyên quả nên con người dễ dàng rơi vào mê tín dị đoan. Dù là người học cao hiểu rộng nhưng trong tâm vẫn có niệm mong cầu và sợ hãi hoặc quá tham lam, họ sẽ bị mê tín dị đoan chi phối.

Sao gọi là mê tín?

Mê tín là lối tin mù quáng khiến con người mất hết khả năng suy đoán và phán xét của mình. Một số người chủ trương mê tín làm mê hoặc thế gian, để hưởng lợi cho riêng mình. Một cuộc sống ấm no và bền vững bởi con người văn minh, một dân tộc có hiểu biểu chân chính vì đã thông suốt mọi lý lẽ, không cho phép sự mê tín len lỏi trong dân tộc mình.

Tập tục cúng sao giải hạn

Ngày hôm nay trên đà tiến bộ của khoa học hiện đại giúp cho con người nhận ra lẽ chân thực của cuộc đời, cho nên những tập tục cúng sao giải hạn trong các chùa chiền cần phải nên chấm dứt. Chúng ta quá lạc hậu và lỗi thời, sao là những hành tinh cách xa chúng ta bao nhiêu ngàn cây số.

Tập tục cúng sao giải hạn có nguồn gốc từ Lão giáo Trung Hoa không phải của đạo Phật. Có những tập tục đem lại lợi ích thiết thực giúp ích cho con người và cũng có những tập tục làm cho con người mất hết năng lực làm chủ bản thân. Tập tục cúng sao giải hạn vào những ngày đầu năm tuy có nguồn gốc từ Lão giáo, nhưng ngày hôm nay hầu hết các chùa chiền đều lấy đó làm nghi lễ quan trọng trong đầu năm.

Mong muốn có một năm mới tốt đẹp, bình an hạnh phúc là những điều ước nguyện thông thường của một con người đối với gia đình người thân và xã hội. Tập tục cúng sao giải hạn, đầu năm cũng như là một phương tiện dẫn dụ con người đến với đạo Phật nhanh nhất, nhưng khi họ đến với chánh pháp rồi thì những người hướng dẫn phải chỉ dạy về chánh tín nhân quả.

Có nhiều người đi cúng sao giải hạn đầu năm đã in trên tay hàng xấp giấy ghi rõ tên tuổi để đến mỗi chùa sẽ tìm cách dán trên chiếc chuông, chiếc trống. Nhà chùa không cho dán bên ngoài, thì dán bên trong chuông vậy. Vì làm sao mà chiếc chuông có thể giải được cái hạn mà nó đã chín mùi, quả xấu nó đã trổ.

Ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch hàng vạn người đội sớ trên đầu để xin mong được bình an, mong những điều xấu không đến với bản thân và gia đình. Có chùa chỉ để ngồi đọc các tên và tuổi những người có sao xấu mà cũng không hết, các thầy phải thay nhau đọc, đọc đến khản cả cổ mà danh sách hãy còn hàng xấp.

Những người Phật tử chân chính đến đễ mong được tụng một thời kinh cầu an đầu năm, chờ mãi không được, đành ngao ngán quay trở về. Có người thì lập luận rằng cúng sao giải hạn nó chẳng có gì xấu, cần phải cúng sao giải hạn mới thu hút được mọi người đến chùa, nếu không thì không có người tới.

Ý kiến này chỉ đúng khi mà ngôi chùa đó chẳng bao giờ thuyết pháp, sống dựa vào những tập tục tín ngưỡng dân gian nên trong chùa thờ phượng đa sắc thái, không truyền tải được tinh thần đạo Phật chân chính đến với tất cả mọi người.

Như chúng ta đã biết, tất cả mọi người học Phật ai cũng hiểu giáo lý nhà Phật đều dựa trên nền tảng của nhân quả, nói cho đủ là nhân duyên quả.

Nhân là nguyên nhân, là hạt giống, quả là kết quả do gieo nhân mà được và nhờ duyên  thời tiết, chăm sóc, kỹ thuật... , cho nên một đời sống của một cá nhân hay cộng đồng đều do nhân quả mà ra. Chính vì vậy khi một người gieo nhân dù tốt hay xấu thì nhất định người đó phải nhận lấy kết quả tốt hoặc xấu mà mình đã gieo chỉ sớm hay muộn mà thôi. Nếu muốn hóa giải nghiệp xấu ác, thì chúng ta phải nỗ lực tu tập, trì chay, giữ giới, làm nhiều việc thiện ích.

Ví dụ: Như chúng ta lỡ gieo tạo nhân sát sinh hại vật, thì ta sẽ biết chắc hậu quả của nó trong nay mai là bệnh tật truyền miên hoặc chếu yểu, hay thường gặp những tai nạn bất ngờ. Khi biết được thế, chúng ta quyết tâm nỗ lực sám hối, bố thí cúng dường, phóng sinh…thì quả có thể sẽ trổ theo hướng khác nhẹ hơn, hoặc bị triệt tiêu. Nên trong đời sống hằng ngày, chúng ta thọ nhận những việc tốt xấu là đều do chúng ta tạo nhân cả, nên khi quả tốt đến thì chúng ta vui vẻ hạnh phúc, và ngược lại quả xấu đến chúng ta đành phải chấp nhận để tìm cách hóa giải nó.  

Tập tục cúng sao giải hạn là đi ngược lại lời Phật dạy trong các kinh điển, nhưng tại sao tập tục này vẫn còn tồn tại ở các chùa chiền. Một giả định khác, nhiều người cứ đinh ninh rằng nếu đem tiền vào chùa cúng sao, giải hạn thì tật bệnh sẽ được tiêu trừ, và tai qua nạn khỏi. Chính đức Phật cũng từng khẳng định Ta không có khả năng ban phước hay giáng họa cho bất kỳ ai, ta chỉ là người thầy dẫn đường, còn làm được việc tốt hay xấu là do tất cả mọi người”.

Nếu ai cũng tin sâu nhân quả hết thì mọi việc nên hư tốt xấu, thành công thất bại đều do con người tạo ra. Chúng ta cứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt nhất định sẽ đến. Không phải chúng ta cầu xin mà nó đến, không phải chúng ta xua đuổi mà nó đi, một khi nhân đã thành thì quả phải chịu.

Song nhân quả không phải đơn thuần mà đa dạng và phức tạp, chẳng phải chỉ do trực tiếp ở đời hiện tại mà lại gián tiếp của nhiều đời. Chỉ khi nào chúng ta tạo nhiều nhân lành, khi quả xấu đến sẽ nhẹ đi hay giảm bớt đôi phần.

Tập tục đốt giấy tiền vàng mã

Trong đạo Phật không có kinh điển nào dạy đốt giấy tiền vàng mã để cúng người quá cố hoặc rải giấy tiền vàng bạc khi đưa tiễn người mất về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhưng từ lâu việc đốt vàng mã trong Phật tử nói riêng và những người có tín ngưỡng dân gian sâu đậm vẫn tiếp tục duy trì tập tục này.

Chúng ta cần phải nói rõ tập tục đốt giấy tiền vàng mã, theo quan điểm của đạo Phật, thì đây là một việc làm lãng phí tốn kém không có tác dụng lợi ích thiết thực. Thay vì, bỏ tiền ra mua đốt giấy tiền vàng mã, thì tại sao chúng ta không làm những việc khác có lợi ích cụ thể thiết thực hơn, như là bố thí cúng dường giúp đỡ sẻ chia cho những mãnh đời bất hạnh.

Theo chỗ chúng tôi được biết, đây là một tập tục có từ lâu đời trong dân gian, do ảnh hưởng văn hóa có từ thời cổ đại trong xã hội Trung Hoa. Ngày xưa người ta quan niệm rằng cõi này là cõi tạm, cõi âm mới là cõi lâu dài nên khi chết phải chôn theo tài sản và của cải. Những gì mà người ta lúc còn sống tiêu xài như thế nào, thì khi chết cũng cần có nhu cầu như thế đó. Do tin tưởng một cách cuồng tín như vậy, nên sau khi chết đi, thân nhân của người chết họ chôn theo những vật dụng cần thiết kể cả tiền bạc để cho người chết tiêu xài. Đây là sự biểu lộ mối thâm tình sâu đậm của con người đối với gia đình người thân và có công trạng giúp ích cho đất nước. Về sau này con người ta có sự tính toán và căn nhắc lại việc chôn theo các đồ vật dụng và tiền bạc, thật là quá lãng phí. Do đó, tập tục làm đồ giả chôn theo người chết được hình thành qua sự tính toán một số nhà kinh doanh sống trên sự mê tín của nhiều người khác. Họ truyết lý rằng nếu không làm vậy sẽ bị thần linh quở phạt.

Phật dạy con người sau khi chết tùy theo nghiệp tốt xấu đã gieo tạo trong hiện tại mà được tái sinh vào những cảnh giới thiện ác khác nhau trong ba cõi sáu đường. Vì chúng sinh tạo nghiệp bất đồng nên tái sinh vào nhiều cảnh giới khác nhau, thì đương nhiên việc thọ hưởng vật dụng của mỗi loài cũng khác nhau. Nếu chúng sinh đó hiện đời biết gìn giữ năm giới và biết quý kính Tam bảo thì đương nhiên sẽ được tái sinh trở lại làm người và có thể thần thức người đó đang nằm trong bào thai mẹ. Hoặc nếu trong hiện đời người đó tạo nghiệp ngu si mê muội thì sẽ bị đọa vào các loài súc sinh tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có quả báo tương xứng.

Chính trên thế gian này, đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận, huống là nhân gian in, xuống âm phủ xài, có lý lẽ gì tin được. Những chiếc lầu bằng giấy, quần áo bằng giấy, làm xong đốt gởi xuống âm phủ cho thân nhân dùng, quả là việc làm lãng phí, tốn kém vô ích.

Đối với những Phật tử vì chưa thông hiểu giáo lý Phật dạy và chưa có một niềm tin nhân quả thấu đáo sáng suốt, nên có đôi khi cũng hay đốt giấy tiền vàng mã cho người chết. Thay vì, bỏ tiền ra mua đốt giấy tiền vàng mã, thì tại sao chúng ta không làm những việc khác có lợi ích cụ thể thiết thực hơn bằng cách bố thí cúng dường, giúp đỡ những mãnh đời bất hạnh như bệnh hoạn, tàn tật, nghèo đói v.v… Rồi chúng ta đem những việc làm này, hồi hướng cho những hương linh người chết! Đây mới là việc làm chánh tín nhân quả “âm dương lưỡng lợi”, đúng theo quan điểm từ bi và trí tuệ của đạo Phật cho người sống và kẻ mất. Là người Phật tử chân chính, chúng ta nên nghe theo lời Phật dạy mà tránh những việc làm mê tín vô ích, có tính cách làm tổn hại cho mình và người mà thôi.

Tập tục đồng cốt

Đồng cốt là hiện tượng mê hoặc khủng khiếp, hiện tượng ông lên bà xuống này đều là những người sống trong trạng thái bất bình thường, tâm hay mong cầu quá đáng. Những người này không làm chủ được bản thân, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi những ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu xưa mà người đời hay tôn sùng gọi là bậc thánh, để lừa bịp người nhẹ dạ cả tin.

Phật dạy không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác để làm việc giáo hóa chúng sinh. Vì các ngài khi tu chứng có đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là do những loài yêu tinh ma mị của quỉ thần gá vào. Chúng vì sợ người đời không tin, nên mạo xưng những danh hiệu như Tề thiên đại thánh hoặc hoặc bà Quan Âm chẳng hạn, để tạo uy tín. Chúng ta là người Phật tử chân chính biết rõ tính cách ma mị của đồng cốt, nên cần phải tránh xa.

Tập tục coi tay, xem tướng

Coi tay, xem tướng cũng có khi trúng, khi trật vì còn tùy thuộc nghiệp báo phước đức của người đó, chính vì vậy ông thầy luôn nói câu thòng: "Tay hay tướng của ông có biểu hiện điều xấu, có thể đến tháng đó sẽ bị mắc nạn, nếu ông ngay bây giờ biết tu tâm sửa tánh làm lành lánh dữ thì mọi tai nạn có thể qua khỏi. Nếu đến tháng đó, người ấy mắc nạn thì khen ông thầy xem trúng quá, bằng không mắc nạn thì ông thầy nói do mình biết tích phước làm lành! Như thế, đứng về mặt nhân quả tốt xấu ông thầy cũng đoán trúng hết. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ lại xem, nếu coi tay xem đoán đoán vận mạng tốn một số tiền, đến khi mắc nạn chúng ta cũng phải tự chịu, mà lại mắc bệnh thêm lo nữa. Ngược lại nếu mình tai qua nạn khỏi là do mình có phước nên chuyển hóa được nghiệp xấu, ông thầy đâu giúp gì cho mình. Như vậy chúng ta đi coi bói làm chi cho uổng tiền mà mắc bệnh thêm lo ra và bất an sợ hãi vì cứ nhớ nghĩ đến nó hoài.

Nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả, tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc thì ta chỉ cần phát tâm làm việc tốt có lợi ích cho mình và người  thì điều tốt sẽ đến. Người quá tham lam hay mong cầu những điều thiện lành đến với mình, thì ta chỉ việc gieo nhân quả tốt, còn quả đến sớm hay muộn là do duyên phụ thuộc. Thế mà, chúng ta không ứng dụng ngay cội gốc, lại chạy theo ngọn ngành, hao phí tiền bạc một cách vô ích, đó gọi là mê tín.

Xin xăm, bói quẻ:

Xin xăm bói quẻ là một việc làm cầu may do lòng tham lam của con người. Vận mạng chúng ta chỉ ứng quẻ trong 100 cây xăm do người đời đặt ra có tốt xấu may rủi. Chúng ta phó thác vận mạng của mình, vào chỗ không có duyên cớ, không có lẽ thật rồi tin vào đó, tiền mất mà lại thêm lo. Thánh, Thần nào có rảnh đâu mà ngồi sẵn nơi đó để ứng hiện phán xét trong quẻ xăm cho quí vị. Con người gặp lúc phước đến thì lắc quẻ nào ra cũng đều tốt hết, nếu thật sự gặp họa thì lại rút nhằm lá xăm xấu. Chính chúng ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, mình làm lành được phước, mình làm ác gặp họa khổ đau. Thế là tốt xấu do mình, không phải tại xăm quẻ mà có tốt xấu. Chúng ta cứ tu tâm dưỡng tánh, thận trọng từng ý nghĩ cho đến lời nói để khi làm việc gì cũng không tổn hại cho ai. Như vậy chúng ta đi xin xăm bói quẻ để làm gì? Xin xăm bói quẻ khiến chúng ta thêm bất an lo lắng sợ hãi khi gặp quẻ xấu và ta sẽ ỷ lại khi gặp quẻ tốt. Chúng ta làm một việc gì không lợi ích, lại hao tốn tiền của, mà lại mang lo vào lòng, vậy không phải mê tín là gì?

Ứng dụng nhân quả để phá trừ mê tín

Tất cả mọi hiện tượng sự vật trong bầu vũ trụ bao la này, không một vật nào thoát ngoài nhân quả mà được hình thành. Khi cái này có thì cái kia có, khi cái này không thì cái kia không. Nhân quả, quả nhân xoay vần không dứt. Thấy rõ lý nhân quả, chúng ta chuyển xấu thành tốt, chuyển dở thành hay, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thấu rõ lý nhân quả, chúng ta sẽ biết cách làm chủ bản thân mà sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha. Chúng ta tin sâu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày thì việc gì cũng sẽ tốt đẹp.

Đứng về mặt không gian, vạn vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hợp thành. Không một vật nào do một đơn vị làm nên, mà phải nhiều đơn vị hợp lại mới thành hình. Chính thế, lý nhân duyên quả thích ứng với tinh thần phân tích của khoa học hiện nay. Nếu sự vật do một đơn vị làm nên thì còn gì phân tích. Bởi nhiều đơn vị hợp thành một vật thể, người ta mới phân tích chia ra nhiều đơn vị, nhiều loại. Nhỏ nhất như một nguyên tử, người ta phân tích trong đó vẫn có nhiều phần hợp thành, huống là những vật thể to tát.

Đạo Phật là đạo của giác ngộ, là đạo của từ bi và trí tuệ, cho nên lấy nhân duyên, nhân quả làm nền tảng. Nếu chúng ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, đây chính là những oan tình của đạo Phật, chẳng qua một số người vì thiếu hiểu biết, vì chạy theo tín ngưỡng tập tục của thế gian mà làm ảnh hưởng đến Phật pháp chân chính.

Do đó, chúng ta thấy rõ lý nhân duyên quả nhà Phật nói, là một lẽ thật, đúng với tinh thần khoa học hiện thời. Hiểu được lý nhân duyên quả, chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian có sự liên quan chằng chịt với nhau. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài tập thể, một cá nhân đứng ngoài nhân loại. Đây là lý do khiến dẹp được quan niệm cá nhân ích kỷ. Chúng ta tích cực xây dựng nên hạnh phúc chung cho nhân loại, không riêng của một cá nhân. Chúng ta tin lý nhân duyên quả là tin bằng trí tuệ, là thấy biết đúng như thật, cho nên gọi là chánh tín.

Thế mà hiện nay có nhiều Tăng sĩ trụ trì, khi nghe Phật tử than làm ăn sa sút, liền bảo đến chùa thầy cầu phúc cho; nghe con cháu Phật tử sắp thi cử, bảo ghi tên để thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tử than gia đình xảy ra tai nạn, bảo đến chùa thầy cúng sao giải hạn cho ... Đó là chúng ta đang truyền đèn nối đuốc Như Lai hay làm lu mờ chánh pháp? Chúng ta là những người hướng dẫn, kế thừa sự nghiệp của Như Lai. Bước đầu vì phương tiện thiện xão đễ giúp người đến với Phật pháp, sao đó chúng ta phải lấy lời Phật dạy chân chính là nền tảng nhân quả hướng dẫn cho quý phật tử. Làm được như vậy chúng ta mới xứng đáng là con nhà Thích tử truyền trao mạng mạch của Như Lai để mọi người thấm nhuần Phập pháp.

Như chúng ta đã biết, nghề tử vi bói toán là một khoa giải đoán tương lai  về vận mạng của một con người qua tình duyên, học hành thi cử và chọn phong thủy nhà cửa thích hợp, bao gồm các việc chọn ngày giờ tốt để khai trương, cưới hỏi, tang ma cúng sao giải hạn xấu, dựa theo ngày tháng năm sinh tuổi tác.

Có nhiều hình thức bói toán, nhưng có bốn loại phổ thông đối với người Việt Nam chúng ta. Đó là bói bài, xem lá số tử vi hay bói ngày tháng năm sinh tuổi tác, xem chỉ tay coi tướng và lên đồng nhập cốt. Bói bài là dựa vào việc giải đoán những dấu hiệu cũng do con người vẽ ra nơi những con bài cho nên chỉ phỏng đoán chung chung, không có cơ sở chính xác. Việc coi lá số tử vi là dựa trên sự tương tác của các ngôi sao vào lúc người đó chào đời, những ngôi sao này mang một số đặc tính nhất định được biểu trưng qua sự sắp xếp của thần linh, nhưng tất cả đều do con người đặt ra, do đó mức độ chính xác tối đa khoảng 70% là cùng. Còn việc xem chỉ tay coi tướng cũng do con người sắp đặt, chỉ tay có thể thay đổi trong thời gian từ ba tháng đến sáu tháng; tướng trạng con người cũng thay đổi theo thời gian tùy theo việc làm tốt xấu. Việc bói qua hình thức lên đồng là có một vong linh người chết nào đó nhập vào, tự  xưng mình là thánh thần này nọ, khuyên người phải làm việc cúng bái quỷ thần, tạ lễ hoặc cần tìm một cái gì đó khi có sự mất mát. Việc làm này có khi linh hiển có khi không.

Ngay cả việc coi ngày tốt xấu cho việc khai trương, khánh thành, xây cất nhà cửa, coi ngày giờ tốt xấu cũng không rõ ràng và chính xác, nên dễ dẫn đến những hậu quả tiêu cực làm cho con người ta bất an và sợ hãi. Việc định ngày giờ tốt xấu ghi trên lịch sách hoàn toàn không có cơ sở chân chính mà chỉ dựa theo tín ngưỡng dân gian do kinh nghiệm của một số người. Vì mưu cầu lợi ích kinh doanh trong việc sinh sống, các nhà làm lịch sách đặt thêm phần coi ngày giờ tốt xấu vào. Họ tự đặt ra ngày này tốt ngày kia xấu để áp đặt cho một số người nhẹ dạ cả tin, chấp nhận có một đấng thần linh ban phước giáng họa. Ai theo truyền thống này chỉ tin tưởng và làm theo chứ không có quyền suy xét, tìm tòi lẽ đúng sai. Thật ra mọi việc tốt xấu là do con người làm ra theo nguyên lý duyên sinh, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau.

Trong cuộc sống vì mưu cầu hạnh phúc, con người vì lòng tham muốn quá đáng nên luôn lo lắng cho vận mạng của mình trong tương lai tốt xấu như thế nào, nên việc xem tử vi bói toán ngày càng phổ biến. Người giàu nhiều của cải, có địa vị danh vọng nếu không hiểu biết Phật pháp tin sâu nhân quả thì lại càng bói toán xem phong thủy nhiều hơn, mục đích để làm sao không bị thất thoát. Kẻ nghèo vì muốn đổi đời nên hy vọng trong bói toán để xem vận mạng mình có được tốt hay không, nhất là những ngày đầu năm mới. Nhiều người từ việc mua nhà, đi xa, khai trương, dựng vợ, gả chồng, cho đến việc tang ma... nhất nhất đều tìm đến những người coi bói toán để được sự hướng dẫn làm đúng theo ngày giờ tốt xấu. Tử vi, bói toán, coi tay xem tướng, hiện tượng đồng cốt đang lan rộng ra khắp cả ba miền Nam, Trung, Bắc nhiều người, nhiều giới và nhiều nơi đang bị sự mê tín này chi phối quá lớn.

Người phương Tây không cần coi ngày giờ tốt xấu khai trương cửa hàng, nhưng họ vẫn giàu có hơn các nước có nhiều người mê tín. Họ không có thờ thần tài, thờ ông địa, nhưng họ vẫn làm ăn buôn bán, phát triển công nghệ khoa học kỹ thuật cao, họ mau chống làm giàu nhờ tích cực tự nguyện đóng góp lợi ích đất nước. Họ chỉ tính toán ngày giờ theo dự án, theo kế hoạch làm việc, họ siêng năng cần mẫn làm theo khả năng chuyên môn nghề nghiệp của mình một cách có ý thức.

Mê tín đem lại rất nhiều tai hại không thể lường trước được. Nó có thể làm tổn thương thiệt hại nặng nề về sự văn minh tiến bộ của con người, nó có thể làm tan nhà nát cửa, gia đình ly tán con cái chia lìa, và có thể làm ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Cho nên ca dao Việt Nam có câu:

Tay cầm tiền của bo bo

Đi coi thầy bói mang lo vào người.

Người hay đi xem bói toán tử vi, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu là người không tự tin chính mình, không tin sâu nhân quả không đủ khả năng làm chủ bản thân bởi vì lòng tham muốn quá đáng và nỗi sợ hãi về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Tóm lại, mê tín là một tệ nạn xã hội, nó làm cho con người ngày càng trở nên yếu hèn, mất tự tin chính mình vì si mê, mờ mịt. Chúng ta là chủ của bao điều họa phúc, mình gieo nhân xấu sẽ kết thành quả xấu, mình gieo nhân tốt sẽ kết thành quả tốt. Con người hay có mâu thuẫn muốn cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhân tốt, sợ hãi quả xấu mà không chịu dừng nghiệp xấu. Chúng ta muốn sống trong một xã hội văn minh lành mạnh bền vững và lâu dài, mọi người cần phải tin sâu nhân quả, tin mình có đủ khả năng làm chủ bản thân, mọi việc tốt xấu nên hư thành bại đều do ta tạo lấy.

Song nhân quả không phải đơn thuần mà đa dạng và phức tạp, có nhân mình vừa gieo liền thọ quả, có nhân phải chờ một thời gian, có nhân phải trải qua nhiều đời và có khi gieo nhân mà không có kết quả vì không đủ duyên. Biết rõ nhân quả tốt xấu do mình tạo ra, chúng ta can đảm nhận chịu và tìm cách chuyển hóa chúng mà không chút sợ hãi buồn phiền. Mình làm chủ tạo nhân, chính mình làm chủ thọ quả, còn cầu khẩn van xin đâu có lợi ích gì. Chúng ta tin chắc lý nhân quả như thế, thì mọi sự mê tín sẽ không có chỗ để xen vào làm phá hủy chánh tín nhân quả.

BÀI 13- CÁCH THỨC THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT

Sau khi quý Phật tử đã quy y rồi cần biết cách thức thờ Phật như thế nào cho đúng, tục ngữ có câu: “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Lòng biết ơn là một đức tính quí báu, mà người Phật tử chân chính lúc nào cũng khắc ghi để tìm cách trở ơn.

Một xã hội mà có nhiều phần tử xấu quên ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát, thì không thể tồn tại lâu dài. Sự không biết ơn và đền ơn sẽ làm băng hoại đạo đức, và làm ảnh hưởng xấu đến nhiều người khác. Chính vì vậy, để tôn vinh lòng biết ơn, để soi sáng lại chính mình chúng ta cần phải thờ Phật, lạy Phật và cúng Phật cách thức như sau: 

1-Thờ Phật

Phật là bậc phước đức và trí tuệ vẹn toàn, và có đầy đủ phẩm chất đức hạnh cao quý. Chư Phật đã dùng đức từ bi hỷ xả, nhằm dẫn dắt chúng sinh ra ngoài biển khổ sông mê để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Phật có đủ ba đức tính quý báu là Bi, Trí, Dũng, ba đức tính căn bản mà một con người muốn được tự giác, giác tha, giác hạnh, viên mãn, không thể thiếu được.

Chúng ta thờ Phật là để tỏ lòng biết ơn đối với Phật, là bậc đã có đầy đủ đức tính từ bi và trí tuệ rộng lớn. Chúng ta thờ Phật là để được học hạnh cao quý của ngài và cố gắng bắt chước phước huệ song tu hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành tựu viên mãn.

Chúng ta phải thờ đức Phật nào mới đúng? Đức Phật nào cũng từ bi hỷ xả và có vô lượng ánh sáng trí tuệ nên gọi là vô lượng quang, cùng với tuổi thọ không giới hạn, cho nên gọi là vô lượng thọ.

Cách thức thờ Phật trong nhà Phật tử, nếu có đủ điều kiện và nhà cửa rộng rãi thì nên thờ tam thế Phật chung một bàn, tượng đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở giữa. Hoặc tượng Phật ở giữa hai vị Bồ tát hai bên, nếu không đủ điều kiện thì thờ một tượng Phật Thích-ca Mâu-ni. Bởi vì đức Phật Thích-ca Mâu-ni là người khai sáng ra đạo Phật, chúng ta phải nhớ rõ chỗ này.

Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở phía dưới hoặc bên hông nếu có chỗ rộng rãi. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác, ngoài bình bông, lư hương, chân đèn và dĩa trái cây. Mỗi ngày chúng ta đều chăm sóc lau quét, dọn dẹp sạch sẽ.

Lần đầu tiên thỉnh tượng Phật, Phật tử phải làm lễ an vị Phật có thỉnh chư Tăng đến. Nếu không có điều kiện thì gia đình tự làm lễ thỉnh tượng cũng được không sao! Lễ này không bắt buộc phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản, nhưng không kém phần trang nghiêm và tinh khiết.

Khi thiết lễ an vị Phật, trong gia đình phải dọn mình sạch sẽ, ăn chay, giữ giới. Và kể từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi, tất cả mọi người trong nhà, luôn nghĩ nhớ đến đức hạnh cao cả của Phật mà cố gắng bắt chước học hỏi và tu sửa, nguyện dứt ác làm lành, để cho thân tâm mình ngày càng được trong sạch.

2- Ý nghĩa lạy Phật 

Khi Đức Phật còn tại thế, các đệ tử từ vua quan, đến dân chúng, mỗi lần được gặp Phật, đều cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính. Cử chỉ và thái độ ấy là sự khiêm tốn thấp mình, cung kính tôn trọng đối với một người thầy. Ngày hôm nay Phật không còn tại thế, chúng ta chỉ lễ lạy hình tượng Phật và người tu hành chân chính.

3- Lạy Phật như thế nào mới đúng nghĩa 

Trước khi lạy Phật, phải dọn mình cho sạch sẽ: rửa mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng. Sau đó, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay thẳng, hai tay chắp hình búp sen để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, miệng tỏ bày nguyện vọng chân chinh của mình rồi sau đó lạy ba lạy.

Lạy thứ nhất chúng con nguyện suốt đời nương tựa Phật, lạy thứ hai chúng con nguyện suốt đời nương tựa chánh pháp, lạy thứ ba chúng con nguyện suốt đời nương tựa Tăng đoàn thể sống an vui. Lễ Phật như thế mới đúng pháp, trong kinh gọi là “thân tâm cung kính lễ”.

Trái lại, chúng ta lễ Phật với lòng không cung kính hay còn gọi là ngã mạng lễ, là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc đầu, hai tay, hai chân không sát đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện.

Cầu danh lễ, là khi thấy có đông người thì miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ý để cho mọi người khen ngợi. Trái lại khi không có người thì ta lại biếng nhác, giải đãi, không muốn lễ lạy gì cả. Hai cách lễ bái trên đây rất giả dối, người Phật tử chân chính phải nhận thức rõ điều này để khi lễ lạy thân tâm được trong sạch.

Cách lạy thân tâm cung kính lễ, hai tay chắp trước ngực hình búp sen không so le rồi đưa lên trước trán và từ từ hạ xuống đầu cúi xuống theo, hai tay úp xuống chạm đất trước cách khoảng 35 cm đến 40 là vừa, đầu chạm đất, hai đầu gối chạm đất. Và cứ như thế hai tay bật lên trước theo thế đàn hồi năm vóc nhất như trở về tư thế ban đầu.

4-Cúng Phật 

Ý nghĩa về cúng Phật

Cúng Phật nói cho đủ nghĩa là cúng dường Phật. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, các đệ tử cùng đàn na thí chủ đã cúng dường Ngài đầy đủ tứ sự, nay chúng ta vẫn tiếp tục nối tiếp truyền thống như thế vì lòng biến ơn và đền ơn. Sự cúng dường này làm cho chúng ta được gieo thiện duyên với Tam bảo về lâu, về dài.

Do việc thờ phụng, đọc kinh, lễ bái cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ cuộc đời của Ngài để chúng ta quyết tâm noi theo công hạnh cao cả của Ngài với tinh thần vô ngã, vị tha.

2- Cúng Phật với những gì trong thực tế?  

Chúng ta cúng dường Phật để tỏ lòng cung kính về sự biết ơn và đền ơn, nhưng nếu mỗi khi cúng Phật, lại bày biện đủ thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh đình thì thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật đúng ý nghĩa thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong là đủ.

3- Năm món diệu hương để cúng Phật

Cúng Phật có hai loại hình tướng: Hình tướng bên ngoài cúng Phật gọi là sự và hình tướng bên trong cúng Phật gọi là lý. Hình tướng bên trong cúng Phật là dùng năm món diệu hương để cúng Phật như sau:

Hương giới nghĩa là oai nghi, là hình tướng của người tu theo đạo Phật, từ cư sĩ cho đến người xuất gia tùy theo khả năng mà phát giữ gìn giới phẩm thanh tịnh. Cư sĩ tại gia có thể phát nguyện, giữ năm giới, mười giới hay cao hơn nữa là giới hạnh Bồ tát. Tỳ kheo tăng 250 giới, tỳ kheo ni 347 giới.v..v

Hương giới được thể hiện qua hình tướng từ cách đi, đứng, nằm, ngồi, ăn nói của mình sao cho hợp với oai nghi giới luật của mình. Người muốn cho tâm an, tinh thần vững chải, trước phải có hình tướng điềm đạm trang nghiêm, nếu hình tướng còn lăng xăng thì tâm rất khó bề yên định nơi một chỗ. Cho nên được gọi là hương giới nhằm để kềm chế cho hình tướng được nghiêm chỉnh. Chính vì vậy, giới Phật không cho Tỳ-kheo vừa đi vừa nhảy, không cho đi ngó bên này liếc bên kia. Đi đứng phải nghiêm trang, từng bước an lạc thảnh thơi vững chải, mắt lúc nào cùng hướng về phía trước nhìn ngay ngó thẳng. Nhờ giữ giới thanh tịnh cho nên tâm ta ít loạn động.

Hương định là gì? Định là nghĩa chẳng loạn vì tâm đối cảnh mà không dính mắc ta, người, chúng sinh. Nghe nói định chúng ta cứ tưởng có cái gì lạ, nhưng thật ra khi tâm ta hòa nhập với câu niệm Phật Bồ tát hay hơi thở hoặc là không dấy niệm, không khởi nghĩ đó là định. Chúng ta nên nhớ chừng nào tâm không loạn là được định, đó là chân lý.

Hương tuệ là do sự quán chiếu mà được nên chúng ta có nhận thức đúng đắn, thấy biết đúng như thật. Thấy biết đúng như thật gọi là hương tuệ phát sáng.

Nhờ giữ giới trọn vẹn thì các pháp ác không xâm nhập nỗi. Nhờ giữ giới nên chúng ta dần hồi giàm bớt tham lam, sân hận và, si mê. Từ đó chúng ta phát sinh định lực nên ta biết hổ thẹn khi lỡ làm điều gì trái và không ganh ghét tật đố đối với mọi người. Ta biết mở lòng giúp đỡ người khác khi cần thiết.

Khi hương tuệ phát sinh ta sẽ thấy biết đúng như thật nên các kiến chấp về phiền lần hồi rơi rụng hết, cho đến những kiến chấp về ta người chúng sinh thọ giả cũng tan biết trong tâm ta, nhờ vậy tâm ta thanh tịnh sáng suốt tròn sáng mà không còn nghi ngờ gì nữa.

Hương tuệ cúng Phật là mỗi hành giả biết văn tư tu. Văn huệ là chúng ta biết lắng nghe lời chỉ giải quý báu của chư Phật và các bậc hiền Thánh Tăng, tư huệ là đem những lời quý báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là phải quấy, đúng sai, thật giả, tu huệ là buông xả hết phiền não tham sân si.

Hương giải thoát cúng Phật là chúng ta phá trừ được ngã chấp, nên giải thoát bao mê lầm của luân hồi sinh tử khổ đau. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận thấy thân này là mình, là tôi, là ta cũng không nhìn cái ý thức phân biệt là mình, để chúng ta hoàn toàn thoát ly vòng  luân hồi sống chết trong vô tận.
Hương giải thoát tri kiến là khi hành giả đã phá được ngã chấp rồi, những vẫn còn dính mắc ở pháp tu mình là thật.

Cúng dường pháp bảo

Pháp bảo là lời dạy của Phật đã giảng dạy, để cho chúng sanh y theo đó mà tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo, trước hết chúng ta phải học Kinh, Luật, Luận và nghiên cứu giáo lý để nhận định thế nào là Pháp bảo, là chánh giáo. Nếu chúng ta có thực học thì phải nghĩ đến việc phiên dịch các Kinh điển Ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những vấn đề có liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh thì nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ thông Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng đường Pháp bảo cả.

Cúng dương Tăng bả
Nếu chúng ta đã thành tâm thờ cúng Phật, thì tất nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đã thay Phật mà truyền giáo lý của Phật lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng ta cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng dường Tăng bảo.

Lợi ích của thờ, lạy và cúng Phật

Sự thờ, lạy và cúng Phật, nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và đúng ý nghĩa, thì sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích trong hiện tại và vị lai:
a) Trong hiện tại: Mỗi chúng ta và gia đình, luôn sống trong bầu không khí xán lạn, trong ảnh hưởng tốt lành của Chư Phật. Chúng ta luôn sống trên thuận dưới hòa, vì mỗi ý nghĩ, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của Đức Phật soi xuống. Chúng ta không sống bừa bãi, làm xằng, nghĩ quấy khi Đức Phật đang ngự trị trong gia đình và trong lòng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống rỗng, không biết tin tưởng, không biết tôn thờ nên mới dễ sa ngã, trụy lạc. Cho nên trong gia đình, nếu muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống một đời sống có ý nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc, thì người gia chủ nên thiết lập bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng dường Phật và tập cho con em sống một đời sống hiền lương và an lạc.

Nói tóm lại, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do lòng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đã vì lòng bi mẫn thương tưởng, vì hạnh phúc, vì lợi ích cho tất cả chúng sanh; Sự thờ, lạy và cúng còn là để cho chúng ta luôn luôn có trước mắt và trong tâm chúng ta, hiển hiện hình ảnh gương mẫu của Phật, bậc hoàn toàn Chân, Thiện, Mỹ để noi theo. 

Vẫn biết thờ, lạy và cúng Phật đủ cả hai phương diện sự và lý là khó, nhưng chung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có lòng Từ vô lượng vô biên của chư Bồ tát và Hộ pháp thần vương, đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả những người phát tâm chánh tín thờ cúng Phật, thì lo gì công đức của chúng ta không tròn, quả của chúng ta không mãn?

 BÀI-14 TỘI PHƯỚC THEO TA NHƯ BÓNG VỚI HÌNH

Người Phật tử chân chính, cần phải biết rõ tội phước để tìm cách tránh dữ làm lành, nếu tu hành mà không biết rõ tội phước thì chúng ta khó bề thăng tiến, có khi còn gây thêm nhiều tội lỗi. Mọi sự hạnh phúc hay khổ đau gốc từ tội phước mà sinh ra. Chính vì thế người Phật tử chân chính, trước tiên cần phải thấu hiểu rõ ràng về tội phước.

Muốn sự tu tập được kết quả tốt đẹp chúng ta cần phải biết về tội và phước. Chúng ta tu tập là để diệt trừ tội lỗi và tạo dựng phước đức trong hiện tại và mai sau. Tội và phước không phải là cái gì viễn vong, huyễn hóa mà là những kết quả đích thực do chính chúng ta tạo nên. Không có một vị thần linh hay một đấng sáng tạo nào ban phước hay giáng tội cho chúng ta cả. Chính chúng ta tạo ra tội hay phước, rồi tội hay phước đó trở lại quyết định số phận của chúng ta.

Người Phật tử chân chính phải biết làm phước bố thí, cúng dường để buông xả tâm phiền não tham, sân, si làm hại đời chúng ta. Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình người thân, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng và thật lớn lao, bởi họ vừa phải lo làm lụng nuôi sống bản thân, gia đình, cha mẹ, anh em, vợ con, phải lo đóng góp cho xã hội, lại còn thêm trách nhiệm hộ trì Tam bảo, giúp đỡ chư Tăng, Ni có điều kiện, thời gian học hỏi, tu hành.

Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật tử chân chính phải lo cơm, áo, gạo tiền, gánh vác việc gia đình, đóng góp cho xã hội với bổn phận người công dân lại phải làm hậu cần cho Tam Bảo không phải là chuyện dễ làm mà ai cũng có thể làm được. Muốn làm được điều này, đòi hỏi người Phật tử chân chính phải có Bồ-đề tâm kiên cố, có nguyện lực cao cả để dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi, nhàm chán với tinh thần vô ngã, vị tha bằng trái tim hiểu biết.

Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bổng dưng khi không mà có, mà đó là kết quả việc tu nhân, tích đức của họ đã hành Bồ tát đạo vô số kiếp về trước. Trên đời này, không thể có một người nào đủ khả năng ban phước giáng họa như các truyền thuyết xa xưa đã từng tuyên bố mà kết quả tốt hay xấu là do ta tạo ra.

Chúng ta muốn được giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng được mọi yêu mến và kính nể, thì ngay bây giờ ta phải biết làm phước, bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính phải ý thức được điều này, muốn được giàu sang, sung sướng có nhiều của cải mà hiện thời ta không biết dấn thân đóng góp, giúp đỡ người khác để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành được an vui, hạnh phúc.

Người Phật tử chân chính phải biết làm phước, bố thí, cúng dường hay giúp đỡ, sẻ chia để đem đến an vui hạnh phúc cho tất cả mọi người là từng bước chúng ta đang hoàn thiện chính mình. Phật dạy người Phật tử chân chính, phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi, và sẵn sàng hy sinh bản thân mình để làm cho người khác được vui bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại, với quan niệm ai cũng là người thân, người thương, nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha bằng tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù.

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào tách rời sự sống mà có thể tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài, giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ, người nghèo hèn khốn khổ, đói rách thiếu thốn lang thang; kẻ sang người hèn, kẻ xấu người đẹp, kẻ ngu người trí, kẻ chết yểu người sống thọ, người an vui hạnh phúc, kẻ bất hạnh khổ đau…Do đó làm phước là điều kiện cần thiết để ta có cơ hội dấn thân đóng góp mà vẫn biết cách buông xả để hoàn thiện chính mình. Cho nên,

Người đủ ăn đủ mặc

Là người có phước đức

Vì thế nên ít lo

Nhờ vậy mà dễ tu.

Vậy thế nào là người có phước đức?

Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính, lễ phép với người trên, thương yêu, đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành, sống trong tình thương yêu, giúp đỡ đồng loại.

Nếu bây giờ chúng ta không làm phước, mà muốn được phước trong tương lai thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước thì bây giờ làm gì có phước để mà hưởng và giúp đỡ người khác. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước tất được quả vật chất sung mãn trong hiện tại và mai sau. Biết rõ điều này, người Phật tử chân chính phải cố gắng gieo trồng phước đức, người có tiền thì đóng góp vật chất, người không tiền thì xả thân giúp đỡ người khác khi có nhân duyên. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, chửi mắng làm khổ đau cho nhau là vì kém phước đức.

Phước là những hành động đem lại sự an vui, hạnh phúc cho mình, người ở trong hiện tại và mai sau. Người làm phước cũng gọi là người hiền, người tốt, người có tấm lòng nhân ái. Chính sự làm phước này mà chúng ta được nhiều người quí mến, tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống, khi gặp nhau vui vẻ và sẵn sàng san sẻ giúp đỡ nhau khi cần thiết. Nhờ làm phước chúng ta được mọi người quý mến, ưa thích gần gũi. Nhờ sự gần gũi đó, mọi người dễ dàng thông cảm, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Thế nào là phước?

Đã làm người ai cũng ước mơ, mong muốn làm sao mình được an vui, hạnh phúc. Người Phật tử chân chính không mơ ước mong mỏi suông, mà phải thực tế gầy dựng hạnh phúc cho mình và gia đình người thân. Hạnh phúc không thể từ nhiên đến với chúng ta được, mà do ta biết tích công bồi đức, một mặt biết vun trồng phước báo, một mặt biết buông xả phiền não khổ đau. Một ý nghĩ chân chính luôn giúp người cứu vật mới phát sinh ra lời nói tốt đẹp, để ta hành động đem lại an vui hạnh phúc cho mình và người.

Trái với tội, phước là những hành động làm cho mình và người được an vui hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Bởi vì, thông thường khi mình làm cho người khác được an vui, hạnh phúc thì họ sẽ quý mến mình, biết ơn mình và muốn đền đáp công ơn của mình. Tuy nhiên, không phải ai được mình giúp đỡ cũng đều trở lại đối xử tốt với mình, mà có thể vô ơn bạc nghĩa với mình, chính vì vậy như người đời thường than: “Làm ơn mắc oán”. Nhưng với việc thiện mình đa gieo thì mình sẽ hưởng được phước quả chứ không bao giờ vô ích cả. Thường thì không phải người đã chịu ơn mình trực tiếp đền đáp lại mà mình sẽ nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ một người khác trong chuỗi nhân quả đan xen chằng chịt theo nguyên lý cái này có thì cái kia có.

Trong cuộc sống với muôn vàn sự khổ đau và hạnh phúc, người biết buông xả lại là người được nhiều nhất. Ngược lại, người cố giữ gìn nắm níu lại là người mất mát đau thương nhiều nhất. Chúng ta đang tạo dựng hạnh phúc cho mình, bằng cách biết chia sẻ, dấn thân đóng góp cho người khác khi cần thiết thì ngay lúc đó mình và người được an vui, hạnh phúc. Chúng ta làm phước không biết bao nhiêu mà cho đủ, chúng ta làm mãi suốt cả cuộc đời cũng chưa xong vì thế gian này người hiểu biết chân chính thì ít, người sống không có ý thức thì quá nhiều.


Thời Phật còn tại thế, người đệ tử A-na-luật là anh em chú bác ruột với Ngài. Do quyết chí tu hành, nên A-na-luật bị mù cả hai mắt, bù lại, Ngài chứng được Thiên nhãn thông.

Một hôm, đức Phật thuyết giảng trong một pháp hội lớn, tất cả đại chúng đều say mê chăm chú lắng nghe, riêng Ngài A-na-luật thì ngủ gà, ngủ gật. Thấy thế, đức Phật gọi dậy và phương tiện độ người đệ tử:

- Này A-na-luật, có ai bắt buộc ông đi tu không? Hay vì ông thiếu nợ nhiều quá phải làm thuê, làm mướn vất vả nên trốn vào đây tu?

A-na-luật thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải như thế. Con là một Hoàng Tử đâu cần làm thuê, làm mướn và cũng không thiếu nợ ai. Con đi tu vì cảm kích công hạnh của Thế Tôn không thể nghĩ bàn. Con tu là để cầu giác ngộ giải thoát, nhưng vì tập khí xa xưa của con còn quá nhiều, nên nó che chướng làm con mê mờ trong lúc nghe Thế Tôn chỉ dạy.

Đức Phật bảo:

- Ông tu vì muốn giác ngộ và giải thoát sinh tử cho chính mình và cứu giúp chúng sanh, tại sao lại mê ngủ như vậy?

Nghe những lời cảnh tỉnh của Thế Tôn, Ngài ăn năn hổ thẹn, xin sám hối chừa bỏ tật ngủ gật và phát nguyện lớn: “Nếu đời này không thành đạo thì tôi không nhắm mắt.” Do quyết chí tu hành, ban ngày học hỏi làm việc, ban đêm siêng năng hành trì đến nỗi đôi mắt bị đỏ lên và sưng vù. Các thầy thuốc bảo Ngài chỉ ngủ lại bình thường thì mắt sẽ hết bệnh, nhưng Ngài vẫn cương quyết một lòng tu tập không ngủ nghỉ.

Đức Phật nghe chuyện, thân hành đến thăm và khuyên ông nên ngủ lại bình thường như trước, nhưng ông vẫn không chịu ngủ, cuối cùng đôi mắt của Ngài bị mù hẵn khi chưa chứng đạo. Tuy vậy, Ngài vẫn quyết tâm tinh tấn tu hành, chỉ một thời gian ngắn, Ngài chứng đắc Thiên nhãn thông với lực dụng không thể nghĩ bàn. Ngài có thể thấy suốt vũ trụ bao la như nhìn một trái xoài trong lòng bàn tay không bị chướng ngại của vật cản nào.

Một hôm, chiếc y của mình bị rách, Ngài muốn tự tay khâu lại, nhưng ngặt nỗi không thấy đường xỏ chỉ vào kim, Ngài lên tiếng nói rằng: “Có ai xỏ kim dùm tôi không?”  Vừa lúc ấy đức Phật đi ngang nghe được, liền đến xỏ kim giúp người đệ tử mù của mình. Chúng ta thấy, một việc làm lành dù nhỏ nhoi đức Phật cũng không từ nan. Học chuyện xưa để mỗi người chúng ta bắt chước công hạnh của Như Lai Thế Tôn.

Việc làm của đức phật khiến chúng ta phải cảm phục, quý kính, bởi Ngài là bậc toàn giác, bậc thầy vĩ đại, mà vẫn không bỏ qua việc làm phước nhỏ.

Qua đó, chúng ta thấy người giác ngộ không từ chối bất cứ việc lành nào cho dù rất nhỏ khi đủ nhân duyên. Như vậy, chứng tỏ rằng sự có mặt của đạo Phật luôn đem đến lợi ích thiết thực cho con người, không gây tổn hại cho ai trên đời này cả dù rất nhỏ.

Chúng ta phải biết làm việc thiện dù lớn hay nhỏ, ta phải cố gắng vun trồng, cóp nhặt để như giọt nước lâu ngày đầy lu. Ngược lại, việc ác dù nhỏ mấy ta cũng phải tránh, không làm. Muốn gieo trồng phước đức, ta phải xa rời nghiệp ác và phát triển nghiệp lành.

Học hạnh xưa của Thế Tôn để ngày nay chúng ta cố gắng bắt chước gieo trồng phước đức. Một ngày làm việc thiện thì bao việc ác không thể có mặt. Như vậy gieo trồng phước đức có lợi cho ta rất nhiều, còn tham lam bỏn xẻn, ích kỷ, tâm địa nhỏ nhoi thì lúc nào cũng chịu nhiều đau khổ thiệt thòi.

Ta làm việc ác nhỏ lâu ngày tạo nên nghiệp ác lớn, ví như lỗ thủng nhỏ rỉ nước vào thuyền, nếu không chặn lại ngay từ đầu, đến một lúc nào đó nó sẽ nhấn chìm cả chiếc thuyền lớn.

Bởi chưng kiếp trước khéo tu

Kiếp này con cháu võng dù xênh xang.

Dân gian có câu: “Có phước làm quan.” Làm quan thì có điều kiện giúp đỡ gia đình người thân, đó là lẽ đương nhiên trong cuộc đời. Theo quan niệm dân gian Việt Nam “một người làm quan cả họ được nhờ” là thế. Để thấy lời Phật dạy không sai, mỗi người chúng ta phải cố gắng gieo trồng phước đức. Do phước nghiệp không đồng nên con người có thân tướng, lời nói, vóc dáng khác nhau, không ai giống ai cả. Người giàu sang, kẻ nghèo khổ, người sống thọ, kẻ chết yểu, người thông minh, kẻ ngu dốt cũng từ đó mà ra.

Trên thế gian này, người được giàu sang, phú quý, hiển vinh, công thành danh toại là nhờ biết tu nhân tích phước từ nhiều đời trước. Trên đời này, không có việc gì ngẫu nhiên, đương nhiên, tự nhiên mà thành. Muốn được như vậy, ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình.

Công hạnh cao cả không thể nghĩ bàn của Như Lai Thế Tôn như nói ở trên thật đáng để loài người và chư thiên tôn kính, xứng đáng là bậc thầy trong ba cõi, bởi vì Ngài không từ bỏ bất cứ một việc thiện nào dù lớn hay nhỏ khi đủ nhân duyên. Làm phước có hai thứ: phước hữu lậu và phước vô lậu.

Phước hữu lậu hay con gọi là phước vật chất

Phước hữu lậu là niềm an vui, hạnh phúc mà người tạo phước hưởng được nhưng chỉ là an vui hạnh phúc tạm thời, không bền vững, vì phước đó chưa đưa người tạo phước thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Sở dĩ như thế là vì khi tạo phước, người làm phước còn có tâm niệm đối đãi, còn có phân biệt ta là người ban ơn, người khác là người thọ ơn, ta là người hướng dẫn, san sẻ còn họ là người được hướng dẫn, được san sẻ,…và còn thấy vật thí cho kẻ khác.

Làm cho mình và người an vui, hạnh phúc tương đối trong cuộc sống trên thế gian này. Hiện nay Phật giáo chúng ta vẫn còn quan niệm độ người có duyên, ai cần đến đạo thì đến chùa hoặc tự tìm hiểu, như vậy là thụ động trong việc truyền bá đạo pháp rộng rãi đến với mọi người. Nói như vậy chúng ta có thể hiểu lầm lời Phật dạy và cách thức hoằng hóa độ sinh trong thời Phật còn tại thế.

Đức Phật ngày xưa mỗi ngày đi khất thực là để tạo thiện duyên trực tiếp cho tất cả mọi người, ai đến cúng dường và thưa hỏi đạo lý, thì Phật tùy theo căn cơ trình độ mà nói pháp độ sinh thích hợp. Ngày nay do chính sách và luật pháp không cho phép tu sĩ đi khất thực để hóa duyên, nhưng giáo hội chùa chiền các nơi vẫn phát triển đội ngũ hoằng pháp, từ thiện bằng nhiều hình thức để độ sinh.  

Chúng ta nên nhớ rằng không phải khi có tiền mới làm phước được, còn khi không có tiền thì không làm phước được, quan niệm như vậy là chúng ta tự phủ nhận khả năng làm phước của mình. Người có tiền thì bố thí vật chất giúp đỡ người khác, kẻ không tiền thì bố thí bằng tấm lòng, bằng lời nói và bằng hành động thiết thực.

Tạo phước vật chất là chúng ta biết bố thí, cúng dường, cho các bậc Sa môn Bà la môn, cúng dường cho người tu hành chân chính, hiếu dưỡng đối với ông bà cha mẹ. Bố thí giúp đỡ sẻ chia vật chất cho người bất hạnh hoặc nghèo khổ thiếu thốn khó khăn. Phật dạy: “Này tất cả thiện nam tín nữ  trong đời này có tâm vui vẻ hoan hỷ xả tài sản của cải vật chất để cúng dường người tu hành chân chính, sau khi qua đời sẽ được sinh về các cõi trời, nếu người đó được sinh trở lại cõi người, thời người đó có nhiều tài sản của cải, vật chất.”

Trong đời sống hàng ngày ta có một thân tướng xinh đẹp, chúng ta nhờ có thân thể khoẻ mạnh, khuôn mặt xinh đẹp, không bị bịnh tật là do nhờ có phước đức, được nhiều người thương mến kính trọng, sống bình yên hạnh phúc. Thì như vậy phước đức là cần thiết đối với người Phật tử chân chính, bằng cách an trú trong chánh niệm tỉnh giác như có lòng tin đối với Tam bảo, giữ tròn năm giới cấm và phát nguyện tu hành dứt ác làm lành và giữ tâm ý thanh tịnh.

Chúng ta phải sẵn sàng cứu giúp khi thấy người gặp tai nạn, tùy theo khả năng của mình, chúng ta hết lòng cứu giúp, đó là việc làm phước của thân. Bởi vì mạng sống đối với con người là tối thượng, cho nên giải cứu người thoát chết, làm cho người mừng rỡ và biết ơn vô kể.

Kế đến, chúng ta sẵn sàng giúp đỡ sẻ chia khi gặp người thiếu thốn khó khăn. Chúng ta đừng quá tham lam bỏn sẻn cứ mãi ôm giữ lấy tài sản, cần phải ban bố cho những người đang thiết tha cần nó. Hạnh phúc không phải đến riêng với chúng ta, mà do sự thù đáp từ hạnh phúc của mọi người mang lại. Những cái vô thường mà cứ giữ, có ngày sẽ khổ đau khi nó không còn ở trong tầm tay mình nữa.

Phước vô lậu

Tu phước vô lậu là chúng ta nhắm đến giải thoát sống chết hoàn toàn giúp đỡ người mà không thấy mình giúp, không thấy vật bố thí và kẻ được thí. Cứ thế chúng ta dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi, nhàm chán cho đến bao giờ viên mãn mới thôi. Chúng ta làm như vậy, chỉ dạy người làm như vậy là tu phước vô lậu.

Phước vô lậu là loại phước báo khiến cho người tạo phước được tự tại, giải thoát, không còn bị trôi lăn, trong vòng luân hồi sanh tử. Người tạo phước vô lậu cũng làm các việc lành như trên nhưng với tâm niệm không chấp thủ, không phân biệt; dù chỉ là việc lành nhỏ họ đều hồi hướng phước đức ấy cho tất cả chúng sinh chứ không phải chỉ riêng cho họ hay quyến thuộc của họ, họ hồi hướng về sự giải thoát giác ngộ. Chính vì vậy mà phước đó đã trợ duyên cho người làm phước được dễ dàng đạt đến quả vị giác ngộ, giải thoát tất cả mọi hệ lụy, triền phược trong cuộc đời.

Khi chúng ta có đầy đủ phước vô lậu thì đời sống tuy chúng ta hơi thiếu thốn một chút, hơi nghèo một chút nhưng chúng ta có được tình cảm gia đình yên ấm, hạnh phúc. Tuy cuộc sống vật chất của chúng ta không được sung túc đủ đầy như nhiều người khác, nhưng bù lại chúng ta có được thân tướng dễ nhìn, khoẻ mạnh không bị bịnh hoạn ốm đau, như vậy chúng ta quá ư là hạnh phúc.

Đức Phật nhờ phát tâm hành Bồ-tát đạo từ vô số kiếp, Ngài đã làm được những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn, giúp vô số chúng sinh được an lạc, giác ngộ, giải thoát, tùy theo tâm nguyện chúng sanh mà bố thí, nhờ vậy Ngài mới thành Phật.

Phước vô lậu hay còn gọi là bố thí Ba-la-mật là đem cho vật chất hay tinh thần hoặc là thân này phải chết để giúp đỡ cho người thoát khổ mà tâm vẫn hoan hỷ, không dính mắc, không hối hận, không tiếc nuối hay mong cầu một điều gì khác.

Muốn vậy, khi thực hành bố thí không phân biệt thân hay thù, mà chỉ tùy duyên, tùy thời cho phù hợp. Muốn đạt đến sự trọn vẹn của Bố thí Ba- la-mật, chúng ta phải bố thí với lòng thành kính và biết ơn mọi người.

Người Phật tử chân chính bố thí Ba-la-mật luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cần thiết của chúng sanh, không phân biệt thân hay thù bằng nhiều cách như tài thí (thí các loại tiền bạc, của cải vật chất), nội thí ( cho những gì đang có trong thân thể này) Pháp thí (dùng lời nói chỉ cho chúng sanh hiểu thấu được lý nhân quả, nghiệp báo tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc để tránh xa những điều xấu ác, mà hay làm các việc thiện lành tốt đẹp.)

Người Phật tử chân chính sẵn sàng bố thí tất cả, không bao giờ có sự hối tiếc hay phiền muộn dù phải chịu khổ, chịu chết thay cho chúng sanh. Bố thí như thế mới gọi là bố thí Ba-la-mật.

Tại sao chúng ta phải thực hành bố thí Ba-la-mật?

Bởi vì Bồ tát là người đang trên đường tiến tới giác ngộ Phật quả, cho nên mỗi khi làm việc gì có lợi cho chúng sanh, Bồ-tát đều phát nguyện và hồi hướng, nhờ thế tâm từ bi của Bồ-tát càng thêm tăng trưởng và trong hạnh bố thí, chỉ có bố thí Ba-la-mật là phước quả cao hơn tất cả.

Bồ-tát là người phát tâm cầu thành Phật quả để hóa độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau, sanh tử luân hồi. Vì vậy, trong suốt quá trình dấn thân, tu học, hành đạo, Bồ-tát luôn phát Bồ-đề tâm cho đến lúc thành Phật.

Phát nguyện là để giữ vững ý chí, lập trường của mình khi gặp trở ngại, khó khăn. Phát là phát cái tâm làm các việc thiện lành tốt đẹp, còn nguyện giống như một lời thề nguyền, để ta ghi nhớ mà quyết tâm phấn đấu khi gặp chướng duyên hay trở ngại. Mỗi khi làm được việc lợi ích gì, ta đều hồi hướng hết cho tất cả mọi loài chung hưởng thì phước báu của ta ngày càng được tăng trưởng.

Chính vì vậy, phát nguyện và hồi hướng công đức là việc làm rất quan trọng của người Phật tử chân chính để hướng đến bố thí Ba-la-mật và thành tựu Phật quả.

Tóm lại, phước vô lậu hay còn gọi là bố thí Ba-la-mật là bố thí bình đẵng, không phân biệt thân, sơ giàu, nghèo. không bao giờ hối tiếc hay phiền muộn trong cả ba điều kiện: tài thí, nội thí và pháp thí.

Như thế nào là tội?

Tội là hành động làm cho mình và người đau khổ trong hiện tại và mai sau. Người làm tội cũng gọi là người dữ, người xấu, người ác. Tội, có tội ngoài đời và tội trong đạo. Tội ngoài đời là những kẻ vi phạm luật pháp nhà nước, bị tù đày hành hạ khổ đau.

Ở đời, người ta cho rằng những người vi phạm pháp luật của nhà nước, vi phạm quy tắc, điều lệ của cộng đồng là người gây nên tội và xử phạt tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ. Nói chung, chuẩn tắc để đánh giá một người có tội hay không là dựa vào những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ bên ngoài của người đó chứ ít xem xét đến tâm ý bên trong của họ. Và người nào gây tội mà bị phát hiện thì có thể bị luật pháp trừng phạt.

Tội trong đạo có hai loại: tội do hứa nguyện gìn giữ mà không giữ được, tội làm đau khổ người và vật. Như trước chúng ta phát nguyện giữ năm giới hoặc mười giới để thúc liễm thân tâm dứt ác làm lành. Đối trước Tam Bảo chúng ta nguyện trọn đời giữ giới, nhưng sau này do lơ là việc tu học nên bị tập khí chi phối khiến ta không giữ được trọn vẹn, gọi là tội phạm giới.

Tại sao người Phật tử khi phạm giới gọi là tội? Như trước chúng ta phát nguyện giữ giới không sát sinh sau này mình không giữ được, nên phạm tội sát sinh làm đánh mất lòng từ bi của mình. Rồi kế đến là giới không gian tham trộm cắp ta cũng vi phạm làm người mất của khổ đau. Bất cứ một hành động nào chúng ta làm khổ cho người trong hiện tại và mai sau đều là tội. Do chúng ta làm tổn thương thiệt hại đến người khác nên gọi là tội. Nhưng tội có tội nhẹ và tội nặng.

Chẳng hạn người Phật tử phát nguyện hứa giữ gìn giới luật của Phật dạy nhưng lại không giữ, như là hứa giữ gìn năm giới cấm mà lại phạm vào giới trộm cắp và khi trộm cắp như thế thì mình cũng phập phòng lo sợ không an, và người bị mất của thì chắc chắn sẽ buồn khổ lắm. Như thế, khi mình vừa trộm cắp là mình đã lo âu, khổ sở rồi, chứ chưa kể là bị pháp luật trừng trị và theo nhân quả thì trong tương lai mình sẽ bị người khác lấy cắp hoặc bị hao tổn của cải một cách đột nhiên, không đáng.

Tội nhẹ

Những điều chúng ta làm đau khổ cho người và vật mà không có sự tác ý, bởi vì ta chỉ vô tình không có ý chủ động nên gọi là tội nhẹ. Chúng ta phạm tội không phải do cố ý, họ sẽ bớt thù hận có thể thông cảm và tha thứ cho ta. Như chúng ta đang đi đường, lỡ ai đó cầm hòn đất ném chơi, nhưng vô tình lại trúng vào ta. Nếu chúng ta biết người đó không có ý ném mình, tuy hơi đau một chút nhưng ta không đến nỗi giận người đó. Thế cho nên từ lời nói cho đến hành động làm đau khổ người khác mà không có cố ý là tội nhẹ, chúng ta có thể xin lỗi hoặc sám hối sẽ hết. Như việc làm đau khổ người khác chút ít cũng là tội nhẹ.

Tội nặng

Tội nặng là những điều làm đau khổ người khác do thân miệng ý cố tình gây ra là tội nặng. Bởi vì việc làm ấy là có ý thức bằng sự cố tâm làm, khiến cho người oán giận thù hằn nên tìm cách trả đũa. Như có ai đó cố tình chửi mắng rồi kiếm chuyện đánh chúng ta, tuy nhiên việc đánh ấy bị nhiều người cản trở, nên người đó không đánh được chúng ta, song ta biết kẻ ấy cố tình đánh mình, chúng ta cũng sẽ oán giận người đó sau này tìm cách trả thù. Chính vì thế hành động có cố tâm, cố ý là hành vi quan trọng để tạo thành tội nặng.

Như chúng ta đã biết tội phát xuất từ ba nghiệp thân, miệng ý. Nơi ý nghĩ: tham lam, sân hận, si mê và tà kiến. Nơi miệng phát ra lời nói dối để hại người hoặc che dấu lỗi mình, nói lời mắng chửi hằn học khó nghe, nói lời mê hoặc để dụ dỗ người, nói lời đòn xóc hai đầu làm cho hai người hiểu lầm nhau hoặc thù ghét nhau. Nơi thân thì có thể giết người, trộm cướp, tà dâm. Chúng ta làm việc gì mà có sự hợp tác chặt chẽ của ba nghiệp thân, miệng, ý này là tội nặng.

Tuy nhiên người đã quy y Tam bảo và người chưa quy y Tam bảo khi lỡ tạo tội thì tội cũng như nhau, căn cứ theo luật pháp mà bị xử lý. Người Phật khi lỡ làm tội thì ý thức rằng mình là đệ tử Phật do tập khí thói quen nhiều đời làm cho mình phạm tội nên cố gắng ăn năn sám hối hứa nguyện chừa bỏ thì tội lỗi dần hồi được chuyển hóa và được tiêu trừ. Và điểm đặc biệc là người Phật tử chân chính không bao giờ phạm tội nặng, chỉ phạm tội nhẹ vì đã có ý thức đúng đắn về tội và phước.

Người Phật tử chân chính cần tránh tội và biết làm phước

Ý thức được sự khổ đau của người khác khi bị mất mát đau thương, chúng ta cố gắng tránh đừng gây nên tội lỗi. Vì cuộc đời đã quá nhiều khổ đau do con người gây ra, chúng ta là những người Phật tử chân chính quyết dứt ác làm lành để ngày càng hoàn thiện chính mình.

Dù là một tội nhỏ, nếu chúng ta tránh được, thì cũng phải cố gắng đừng để vi phạm. Người biết sợ tội mà hay làm phước để giúp người cứu vật là người Phật tử chân chính. Chỉ có những ai thiếu hiểu biết mới bất chấp luân thường đạo lý mới xem thường tội lỗi, do đó tội ngày càng nặng thêm.

Cho nên tránh tội làm phước là điều mỗi con người chúng ta phải ứng dụng. Người Phật tử chân chính cần phải biết rõ tội phước để thăng tiến trên con đường tu học. Trong cuộc sống, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc chứ không ai muốn mình bị khổ đau, dằn vặt. Cũng lại như thế, nếu chúng ta muốn không bị khổ đau thì đừng gieo mầm đau khổ cho ai, tức là phải tránh xa những điều tội lỗi.

Đức Phật ví người làm tội thì dễ dàng giống như trái banh lăn trên sườn núi xuống, vì nó đã trở thành thói quen nhiều đời của con người. Việc làm phước giống như trái banh lăn lên núi, nếu sơ ý hoặc lơ là một chút thì trái banh sẽ lăn xuống trở lại. Phật vô số kiếp đã từng làm phước, bố thí không biết mệt mỏi nhàm chán từ vật chất cho đến tinh thần nên khi phước huệ tròn đủ Ngài được thành Phật.

Chúng ta là người Phật tử chân chính cũng phải học theo gương sáng của Ngài là phước huệ song tu. Làm phước mà không thấy mình làm, không thấy vật để cho và người được cho.

BÀI 15- ỨNG DỤNG NHÂN QUẢ ĐỂ CHUYỂN HÓA SỐ PHẬN

Ai tin theo số phận sẽ đánh mất chính mình

Theo quan niệm của một số người thời xa xưa, họ cho rằng đời sống con người là do đấng tạo hóa hay thần linh thượng đế hoặc ông trời tạo ra và sắp đặt. Ai tin theo truyền thống này thì được hưởng ân sủng tối cao, ngược lại, ai không tin, không làm theo thì sẽ bị đọa vào chỗ khốn cùng. Họ cho rằng con người sinh ra đều có số mệnh định sẵn, đã có sự an bài con người khó có khả năng vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình.

Nếu ai cũng nói rằng sống trên đời này giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu, nên hư, thành bại đều do số mệnh đã định sẵn thì con người đều bất lực, xuôi tay phải chấp nhận sống theo mệnh lệnh của đấng tối cao.

Thật tế có phải vậy không? Trong khi đó thế giới hỗn loạn, chiến tranh, binh đao, con người đối xử độc ác với nhau, lại thêm nạn thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, nghèo đói, dịch bệnh, chết chóc đau thương hàng loạt… chẳng lẽ đấng tối cao cũng tạo ra những điều đau khổ ấy hay sao?

Nếu con người và muôn loài đều do một đấng thần linh thượng đế quyền năng tạo ra, tại sao lại có sự sai biệt quá lớn trong thế gian nhiều đến như vậy? Kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ trắng người đen, kẻ cao người thấp, kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ thông minh, người dốt nát.v.v… chẳng lẽ đấng tối cao muốn tạo ra nhiều nỗi bất công lớn lao và sai biệt  như thế sao?

Ngày xưa có ông thầy tướng số rất giỏi, bói đâu trúng đó, gần nhà có người nông dân nghèo nhưng chất phát, thật thà, hiền hậu. Một hôm trên đường đi làm ruộng về vô tình đi ngang qua nhà ông thầy tướng số, trời đổ mưa, người nông dân ghé vào trú mưa. Thầy tướng số nhìn anh nông dân kỹ càng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng, tướng đi rồi lắc đầu nói: “Số chú nghèo ba đời”.

Rồi thời gian trôi qua, anh nông dân mỗi ngày vẫn đi làm ruộng siêng năng cần mẫn với công việc của mình, nhưng đời sống chẳng có gì khấm khá hơn trước.

Một hôm trên đường đi về nhà, anh thấy sợi dây chuyền vàng của ai đánh rơi bên vệ đường. Anh nông dân nhặt lên rồi suy nghĩ: Người bị mất chắc sẽ phải khổ đau vì mất của. Do suy nghĩ như vậy và tội nghiệp cho người bị mất, thay vì đi về nhà dùng cơm trưa, anh ngồi lại ngay chỗ đó để chờ người mất của đến tìm trả lại.

Anh ngồi suốt từ trưa tới chiều quên cả đói bụng chỉ vì hy vọng gặp người bị mất để trả lại. Đến lúc trời vừa chập choạng tối anh thấy một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như tìm kiếm vật gì, lại vừa đi, vừa khóc sướt mướt, anh bèn kêu lại hỏi thăm cớ sự ra sao, có việc gì buồn phiền đau khổ mà phải khóc như vậy?

Cô nói trong nức nở, nghẹn ngào: Dạ thưa chú, con vừa được chồng sắp cưới tặng cho đôi bông tai và một sợi dây chuyền bằng vàng 24, chẳng may trên đường đi về nhà, sợi dây chuyền bị đứt rơi mất lúc nào con không hay. Nếu không tìm lại được nó, chắc con phải tự tử chết quá chú ơi, để khỏi bị bên chồng nghi ngờ con đem tặng cho người khác.

Nghe xong, anh nông dân mới hỏi cô về hình dáng, màu sắc của sợi dây chuyền ra sao? Cô gái mô tả đúng như sợi dây chuyền anh đã nhặt được.

Anh nông dân liền trao lại sợi dây chuyền cho cô gái và vui vẻ đi về nhà dùng bữa cơm trưa muộn màng trong trời tối. Nhờ tấm lòng tốt của anh nông dân mà cô gái thoát chết trong tầm tay và sống hạnh phúc bên chồng.

Anh nông dân tuy là người nghèo khổ, thiếu thốn, nhưng khi lượm được của rơi, anh không sanh lòng tham đắm, vì anh nghĩ rằng, người mất của rất đau khổ, nên anh không nỡ lòng nào lấy đi. Bởi vì anh là một Phật tử thuần thành luôn sống theo lời Phật dạy, nhờ hiểu thấu được lý nhân quả nên anh nông dân không quản ngại hay tiếc công, mặc dù bụng đã đói meo anh sẵn sàng ngồi lại để chờ chủ mất của đến trả lại.

Đây cũng là một nghĩa cử cao thượng với những ai đã có lòng tin nhân quả sâu sắc, hành động tốt đẹp đó nói lên tinh thần cứu khổ ban vui của người tu theo đạo Phật, không bao giờ làm tổn hại đến người khác, dù chỉ trong tâm tưởng.

Thời gian thấm thoát trôi qua, anh nông dân vẫn miệt mài với công việc đồng áng của mình vẫn với thân phận nghèo thiếu. Một hôm, anh ghé thăm nhà thầy tướng số. Thấy anh ông ngạc nhiên nói:

Tướng chú sắp làm quan rồi. Anh nông dân nói: Thưa bác, con là một nông dân thuần túy, đâu có tri thức, chữ nghĩa gì nhiều mà làm quan, người làm quan thì phải học cao hiểu rộng, có năng lực lãnh đạo giúp dân, giúp nước, còn con thì chỉ biết cày sâu cuốc bẩm ruộng đồng thiếu trước hụt sau thì giúp gì được cho ai.

Nhưng ông thầy tướng số khẳng định, tôi từ xưa đến nay xem tướng số cho ai chưa trật bao giờ. Bây giờ tôi hỏi thiệt chú: Từ ngày chú ghé nhà tôi cho đến nay, chú có làm điều phước thiện nào hay không?

Anh nông dân trả lời: Dạ, con đâu có làm việc gì lợi ích cho ai. Song anh chợt nhớ lại, có một lần con lượm được sợi dây chuyền vàng, con ngồi chờ gần đến tối để đem trả lại cho cô gái.

Đó là phước của chú đấy! Chú đã thay đổi và chuyển hoá được nghiệp nhân nghèo khổ của mình rồi. Chú sắp làm quan rồi, chú hãy nhớ lời tôi nói nhé!

Anh nông dân nghe thầy tướng nói sao hay vậy, chẳng quan tâm gì đến những lời lẽ ấy. Về nhà, anh vẫn tiếp tục công việc ruộng nương của mình từ bấy lâu nay.

Một thời gian sau trong làng cần chọn người hiền đức để bầu làm xã trưởng. Anh là người được chọn vào chức vụ ấy! Anh bây giờ mới thấy lời thầy tướng số nói không sai.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rõ ràng tướng số cũng không cố định có thể thay đổi được nếu ta biết tu nhân tích đức. Ai nói rằng cuộc sống con người là do trời định đoạt, sắp đặt con người sẽ sống phụ thuộc vào đấng tối cao ấy, thì người nghèo sẽ phải nghèo vĩnh viễn, nhưng trên thực tế có phải vậy không? Có người từ thuở hàn vi nghèo khổ, nhưng khi lớn lên biết siêng năng chăm chỉ làm việc rồi trở nên giàu có. Đó là một sự thật mà ai cũng có thể nhìn thấy.

Còn anh nông dân kia do nhiều đời trước không biết giúp đỡ, sẻ chia nên đời này phải chịu nghèo khổ. Nhờ gặp được Phập pháp và một lòng tin sâu nhân quả nên sống hiền hậu và chất phát, thật thà. Phật pháp rất sâu kín và nhiệm mầu ai có duyên lành nhiều đời mới gặp được Tam bảo sáng soi. Là một Phật tử sống tốt theo lời Phật dạy anh nông dân dù nghèo nhưng trong sạch, nhờ tâm niệm tốt đẹp lượm được của rơi mà nghĩ rằng người mất sẽ khổ đau nên cố tình ngồi lại chổ mất để trả lại cho chủ. Nhờ vậy mà anh nông dân được thay đổi cuộc đời.

Khi xưa Phật chưa ra đời, nhiều người không biết nên tin vào học thuyết số phận đã an bài hay do một đấng tối cao, quyền năng tạo ra tất cả, ai như thế nào phải chịu như thế ấy, suốt đời không thể nào thay đổi được. Đó là nói cách nhìn của người thường kiến họ lợi dụng quyền cao chức trọng để bắt buộc kẻ dưới phải phục tùng cho mình và đó là cách thức bảo vệ địa vị cho họ.

Nhờ tu chứng dưới cội bồ đề, đức Phật đã thấy rõ mọi sự sai biệt trong cuộc đời này đều do nhiều nhân duyên hòa hợp lại mà hình thành. Trong vũ trụ bao la này, không có cái gì do một nhân mà thành để bảo tồn sự sống. Còn nếu ai nói rằng có một chủ thể tạo ra tất cả thì ta biết rằng người này chưa hiểu về sự vận hành của nhân quả nghiệp báo trong bầu vũ trụ bao la với thiên hình vạn trạng. Bởi không thể có cái gì chỉ có một nhân mà hình thành.

Nếu nói cái gì cũng do trời quyết định thì tại sao có sự bất đồng và sai biệt trên thế gian này, không ai giống ai. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa thì tại sao không ban phước lành đến cho tất cả chúng sanh? Còn nếu nói rằng số phận đã định sẵn từ trước thì tại sao có người thay đổi được vận mệnh của mình như anh nông dân lượm sợi dây chuyền kia chẳng hạn.

Đức Phật dạy rằng: Chính sự tạo tác của đấng tối cao mà con người trở nên sát hại, trộm cướp, loạn luân, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhãm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc và hiểu biết sai lầm.

Nếu số mệnh đã sắp đặt sẵn, định sẵn thì thật là tai hại vô cùng, nếu ai lỡ làm những việc xấu ác thì đổ thừa số phận tôi như thế, không cố gắng phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình.

Đạo Phật quan niệm rất thiết thực, không chấp nhận hay đổ thừa cho số phận, làm cái gì được thì nói nhờ trời, còn không được thì đổ thừa tại trời, nói như vậy thì oan cho trời quá. Người nào quan niệm như thế thì vô tình hại mình, hại gia đình và xã hội, bởi vì người ấy sẽ không cố gắng phấn đấu để vươn lên, sống có ích cho cuộc đời, mà rơi vào mê tín dị đoan. Trong khi đó, mỗi con người chúng ta đều có khả năng suy luận, nhận xét, tư duy, quán chiếu có thể vận dụng sự hiểu biết của mình mà thay đổi chuyển hóa từ con người cho đến muôn loài vật.

Đạo Phật nói: “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, tất cả đều nương tựa mật thiết vào nhau, tùy theo hoàn cảnh mà có đổi thay, thay đổi vô cùng tận”.

Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, giàu lòng từ bi, đầy đủ trí tuệ, Ngài luôn thương tưởng với tất cả chúng sinh làm sao giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, tự tin chính mình, làm lành lánh dữ sống có ích cho tha nhân. Ai tin sâu nhân quả là luôn hướng đến chân thiện mỹ thì lúc nào cũng sống được bình an và hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Sự ra đời của đạo Phật đã giúp cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trị hạnh phúc thật sự cho tất cả chúng sinh. Mọi sự tốt đẹp, phải quấy, nên hư, thành bại đều do chính mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay sắp đặt số phận con người.

Từ xa xưa một số người họ lợi dụng quyền thế của mình, nên tuyên truyền con người và vạn vật sinh ra trong cõi đời này đều do một đấng thần linh thượng đế tạo ra, ai không chấp nhận tu tập theo sự hướng dẫn của họ sẽ bị đọa lạc vào chốn khốn cùng, khổ đau. Còn ai chịu nghe lời thần linh, thượng đế thì sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp.

Đức Phật dạy rằng, trong mỗi người chúng ta, ai cũng có khả năng giác ngộ, khả năng giải thoát, chỉ vì chúng ta không chịu thừa nhận, không chịu suy xét thấu đáo cho nên đã tạo ra những nỗi khổ niềm đau mà làm tổn hại cho nhau. Chính vì thế mà khi ta sinh ra đời phải chiêu cảm những quả báo xấu xa, đau đớn và khổ não.

Tuy sinh ra là thân phận con người như nhau, nhưng do nhân đời trước mình gieo tạo khác nhau và trong đời hiện tại mình phải chịu quả báo ấy, cho nên mỗi người có hoàn cảnh, đời sống khác nhau. Còn người mê muội, tà kiến, chấp trước, không hiểu biết đúng sai sự thật của cuộc đời thì sẽ bị rơi vào các loại súc sanh sống theo quán tính, nghiệp tập, tùy theo sự chiêu cảm mà rơi vào quả báo loài nào thì phải chịu trả suốt đời, suốt kiếp không cưỡng lại được.

Chúng ta ai được sanh ra làm người là một diễm phúc rất lớn, bởi vì chúng ta có đầy đủ phương tiện, có tư tưởng, có tư duy, có hiểu biết, có nhận định đúng sai, có tìm hiểu, học hỏi giáo lý nhân quả một cách chân chính. Ta tin tưởng rằng mình có khả năng, giác ngộ giải thoát thật sự, nên cố gắng không làm các điều ác mà hay làm các việc thiện lành tốt đẹp nhờ tin sâu nhân quả. Khi chúng ta đã biết cách làm chủ bản thân thì lúc nào ta cũng kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động trong sáng suốt, nhờ vậy ta luôn sống trong bình an hạnh phúc.

Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả, tuy nhiên  nhân quả rất đa dạng và phức tạp.

Có loại nhân quả gần, tất là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Thí dụ, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu hay còn gọi là nhân nào quả nấy. Trường hợp thứ hai như khi ta đang đói bụng, ta ăn cơm vào thì liền là no hoặc ta đánh trống thì nghe được âm thanh của trống ngay tức khắc. Ta gọi là nhân  quả hiện tiền hay nói ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. 

Có những nhân, nếu ta gieo trong hiện tại có khi ta phải trả quả trong một thời gian ngắn từ năm ba tháng cho đến vài năm mới cho ra kết quả.

 Còn có những nhân ta gieo tạo thì phải trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Và có điểm đặc biệt là khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả do thiếu những duyên phụ hoặc ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.

Như trường hợp trong một lúc ta cùng gieo ba thứ hạt giống cây lúa, cây chuối, cây mít đồng thời ta chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ ba tháng cho đến sáu tháng có kết quả, cây chuối phải thừ chin tháng đến một năm, còn cây míy ít nhất phải từ hai năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả, nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu mắt thịt, không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của luật nhân quả nghiệp báo. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giờ… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm.

Nhân quả có thể thay đổi được !

Nói đến nhân quả là nói đến sự tương quan, tương duyên mật thiết với nhau bằng những hành động do chúng ta làm ra. Làm lành được hưởng phước an vui hạnh phúc, làm ác phải chịu quả khổ đau vô cùng tận, đó là một sự thật công bằng, chúng ta có thể qua mặt được pháp luật, nhưng không thể chạy trốn toà án nhân quả được khi hội đủ nhân duyên.

Trong Kinh A-hàm, đức Phật đưa ra ví dụ rất hay: “Có một nắm muối, nếu ta bỏ vào ly nước nhỏ thì ly nước ấy sẽ bị mặn, ta không thể uống được. Cũng cùng một nắm muối đó, nếu  ta bỏ vào một lu nước lớn, tuy có nắm muối hoà tan nhưng vì nước trong lu quá nhiều, cho nên nước hơi măn mẳn ta có thể dung xài hoặc giải khát tạm thời được. Cũng cùng một nắm muối đó, ta đem bỏ vào một hồ lớn, tuy có nắm muối bỏ vào, nhưng nước trong hồ quá nhiều, vì vậy nắm muối không thể chi phối được, do đó ta có thể dùng xài bình thường.

Nhà Phật dụ cho nắm muối là nghiệp xấu ác, còn nước là nghiệp thiện lành và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy trong nhà Phật có nói rằng, gieo nhân nào gặt quả nấy, nhưng nhân quả do hành động của mình tạo ra từ thân, miệng, ý thì cũng từ chính mình ta có thể thay đổi, chuyển hóa được. Cũng như trước kia, lúc còn nhỏ, quý vị chưa biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc… đến khi lớn lên, hòa vào đời sống cộng đồng, quý vị thấy người ta làm điều đó, rồi quý vị bắt chước một vài lần nếu ai chịu tiếp tục huân tập một thời gian thì quý vị cũng biết hút thuốc, biết uống rượu, biết cờ bạc như ai vậy.

Rồi thời gian trôi qua theo năm tháng, quý vị có duyên được đến chùa học hỏi, nghe pháp biết tu tập, quý vị thấy rằng đây là những  nghiệp tập không tốt đẹp, hao tiền tốn của và dẫn đến bệnh tật, đau yếu… làm cho vợ con, người thân trong gia đình lo âu, sợ hãi làm giảm đi niềm an vui hạnh phúc. Khi chúng ta biết rõ đây là những tập nghiệp xấu thì từ đó ta ý thức biết được sự tác hại của nó, quý vị tự từ bỏ chứ không phải ai ép ta bỏ được. Nếu như quý vị không tự ý thức, không chịu từ bỏ thì dù cho đức Phật hiện tiền cũng không thể nào giúp cho quý vị bỏ được.

Nắm muối bỏ vào ly nước là đức Phật dụ cho nhân nào quả nấy để ám chỉ cho hạng người buông trôi theo số phận, chẳng chịu cố gắng làm lại cuộc đời vì nghĩ rằng số tôi như thế mà chấp nhân sống trong đau khổ lầm mê.

Nắm muối bỏ vào lu nước lớn là dụ cho người đã cố gắng thay đổi bỏ bớt, nhưng không bỏ được hoàn toàn dù sao cũng đỡ hơn hạng người trước.

Hạng người thứ ba là hạng người hoàn toàn chuyển nghiệp xấu ác do biết tu thân, tu giới và tu tâm niệm rộng lớn cho nên đức Phật dụ cho nắm muối bỏ vào một hồ nước lớn.

Chúng ta hãy thường xuyên suy xét và kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động mà có hại cho mình và cho người thì ta nhất quyết không làm. Còn những gì mà ta thấy có lợi cho mình và người thì ta cố gắng làm không bỏ qua, dù cho đó là một việc rất nhỏ. Nhờ tâm phát nguyện rộng lớn như thế, ta sẽ vượt qua được những chướng duyên nghịch cảnh trong cuộc đời. Vì sao? Vì theo đạo lý nhà Phật, ai sinh ra trong cõi đời này hầu như không ít thì nhiều, từ lớn đến nhỏ dù không làm ác nhiều cũng làm ác ít. Bởi vì chúng ta chưa có sự hiểu biết chân chính, chưa có lòng tin nhân quả vững chắc, do đó chắc chắn ai cũng có sai lầm.

Ngày nay, chúng ta may mắn gặp được thầy lành bạn tốt có đầy đủ phúc duyên, tuy điều kiện của chúng ta không được tốt đẹp trọn vẹn như người khác. Nhưng ta không có gì phải buồn phiền, khổ đau, trách móc, đổ thừa tại bị thì là… Bởi vì chúng ta biết Phật pháp, biết thực hành những lời Phật dạy, biết rõ nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc.

Khi đau ta biết thân này đau vì nghiệp tập nhiều đời nhiều kiếp mình đã gieo tạo trong quá khứ, nay ta biết được hậu quả của nó làm cho mình người khổ đau, thì ta nhất quyết không để cho tái phạm nữa, đến khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp xấu sẻ hết. Nhờ vào sự tinh cần tu tập, mà ta chuyển hóa được nỗi khổ niềm đau, vươn lên và vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Theo định luật nhân quả thì có vay ắt phải có trả hay “gieo gió gặt bão”. Nếu nói một cách cứng ngắt như vậy, vô tình chúng ta cho rằng luật nhân quả là cố định, là bất biến, điều đó chỉ đúng một phần, chưa đúng hẳn. Vì sao? Nó chỉ đúng đối với những hạng người bèo dạt mây trôi, không đủ ý chí và nghị lực để buông xả thói quen xấu của mình. Cho nên lý nhân quả rất tế nhị và sâu kín nhiệm mầu chúng ta thường nghe nói nhân nào quả nấy, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, ai nói như vậy là người chưa hiểu thấu lý nhân quả. Đạo Phật nói lý nhân quả là một chuỗi dài thời gian mang tính cách ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Khi ta gieo nhân phải trải qua một thời gian nhất định nào đó, nhanh hay chậm là tùy theo những duyên phụ thuộc mới cho ra kết quả.

Nhân nào quả nấy hay còn gọi là hiện báo gieo nhân liền gặt quả như người đói bụng ăn cơm liền no, đó là nhân quả hiện tiền. Vừa gieo nhân là có kết quả liền. Vì vậy mà người ta dễ hiểu lầm vấn đề nhân quả với số phận, nó chỉ đúng và phù hợp với hạng người bèo dạt mây trôi, không chịu cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời. Hạng người này không cần tìm hiểu, suy xét, quán chiếu chỉ sống theo phong tục tập quán, ai như thế nào mình như thế đó.

Khi gieo nhân thì phải chờ thời gian mới cho ra kết quả. Thí dụ, muốn có trái mít ăn, ta phải có một hột mít trồng xuống đất, rồi phải chờ đến ba bốn năm sau mới có trái mít, nhưng nếu thiếu sự chăm sóc, hay thời tiết không phù hợp, chưa chắc ta đã có trái mít. Biết như vậy, chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh mà tạo ra kết quả sai biệt, không nhất thiết phải nhân nào quả nấy.

Như vậy, nói nhân nào quả nấy thì không đúng hẳn, tùy theo điều kiện, nhân duyên mà nó cho ra kết quả. Chúng ta không thể nói một chiều nhân nào quả nấy một cách cứng ngắt như vậy được. Nếu nói nhân nào quả nấy thì những người tu hành như chúng tôi có lợi ích chi đâu?

Xưa kia lỡ tạo nhân ác thì ngày nay dù có tu hành vẫn chịu quả ác, vậy  tu hành để làm gì? Khi hiểu như vậy rồi, chúng ta sẽ cố gắng làm mới lại chính mình, bằng những việc làm thiết thực có lợi ích cho người và vật. Khi xưa ta chưa biết tu, thì ta gieo nghiệp lường gạt, trộm cướp   làm khổ đau cho mọi người. Nay ta biết tu rồi, nhờ quán chiếu xem xét ta thấy đó là nhân dẫn đến đau khổ mê lầm, làm tổn hại cho nhau, dứt khoát ta không làm nghiệp trộm cướp nữa thì ngay nơi đây nhân và xấu bắt đầu chấm dứt.

Như chúng ta đang chạy xe với tốc độ nhanh khi thắng gấp lại thì cái chớn của nó cũng xa hơn xe chạy tốc độ chậm, cũng vậy ai tạo thói xấu nhiều cũng chậm hơn người bình thường. Những người xuất gia tu hành thọ dụng vật thực, của đàn-na tín thí, nhờ sự giúp đỡ của Phật tử về phương tiện vật chất, tiền bạc của cải. Như vậy, chúng tôi có phải trả món nợ nhân quả này hay không? Nếu chúng ta cứ khẳng định nhân nào quả nấy, vay tiền trả tiền, vay bạc trả bạc, thì chắc chắn người xuất gia không thể trả nợ được.

 Vì sao, người xuất gia tu hành, thọ nhận sự cúng dường của đàn-na tín thí nhưng họ trả những món nợ vật chất ấy bằng hình thức khác. Người xuất gia tu hành thọ nhận sự cúng dường của đàn-na tín thí, họ phải trả món nợ ấy bằng sự tu hành chân chánh, hóa độ chúng sanh, truyền bá lời dạy của đức Phật, chỉ cho mọi người biết được nhân nào dẫn an vui hạnh phúc, nhân nào dẫn đến sa đoạ khổ đau, thì coi như trả cái nợ cơm áo gạo tiền. Bởi tiền bạc của cải quý phật tử giúp cho Tăng ni ăn thì hết, còn chúng tôi hướng dẫn chỉ dạy cách sống làm người tốt không làm tổn hại cho ai thì coi như chúng tôi đã trả nợ rồi. Chỉ sợ những ai không chịu tu hành đàng hoàng rồi giáo hoá chúng sinh mới phải chịu mang lông đội sừng mà thôi.

Tiền bạc quý Phật tử giúp ăn năm ba tháng thì hết hoặc nhiều lắm được vài ba năm là cùng, chứ chánh pháp của Phật đà trao lại, quý Phật tử có thể ứng dụng cả đời cũng chưa hết, còn thừa làm hành trang mang đến sử dụng ở kiếp sau. Vì vậy trong các bản kinh đức Phật thường hay nói, trong các hạnh bố thí, bố thí chánh pháp là thù thắng hơn tất cả, vì giúp cho mọi người được an vui hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.

Thí dụ, như người mới sanh ra bị bệnh hoạn tàn tật suốt đời là do kiếp trước gieo nhân đánh đập hành hạ chúng sinh, cho nên ngày hôm nay phải chịu nhận hậu quả khổ đau như thế.

Vì thế, nhân quả theo ta như bóng với hình dù tram kiếp ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất. Chúng ta có thể qua mặt được luật pháp của thế gian, nhưng không thể nào trốn tránh quá trình diễn biến của nhân quả. Người biết tu khi gặp quả xấu đến thì không đổ thừa tại, bị, thì, là… gì hết, mà luôn biết rằng, tất cả đều do nhân xấu của mỉnh tạo khi trước nhờ vậy ta chỉ cố gắng tu hành thì từ từ quả xấu đó sẽ hết.

Thời xa xưa, những hiện tượng như mưa gió, bão bùng, sấm sét long trời lở đất, con người cho rằng, đó chính là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm điều xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng, có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc bất thiện. Từ đó, lâu dần thành ra phong tục, tập quán, rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người, họ quên đi những điều rất thực tiễn là gieo nhân nào thì ắt gặt quả nấy.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ, tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này. Sự hình thành của muôn loài vật theo nguyên lý duyên khởi ”Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”.

Đây là nguyên lý sống do đức Phật chứng ngộ mà nói ra, không phải do suy luận vu vơ, huyền hoặc. Ngài chỉ cho con người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trị bình đẳng cho con người, bằng việc làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Con người có quyền làm chủ chính mình, nên hư, thành bại, phải quấy, tốt xấu, đều do con người tạo lấy, không một đấng tối cao nào có quyền ban phước, giáng họa. Đó là chân lý nhiệm mầu của đời sống con người.

Hoặc giả lúc ta chưa biết tu, miệng hay nói lời hung dữ, ác độc, cay nghiệt, làm cho người oán giận, thù hằn, phiền não, khổ đau. Nay biết tu rồi, ta ý thức được đó là lời nói làm tổn hại đến người, nên thường nói lời hòa nhã, chân thật, dịu dàng, dễ nghe… Đó là ta biết chuyển nhân xấu từ miệng thành thiện ích.

Như vậy, nhân quả khác với số phận là có thể thay đổi được. Nhờ đó, con người có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thực hành được những điều đó chính là người khéo biết tu vậy.

Còn nói số phận con người là cố định, không thể thay đổi được, thì người giàu sẽ ỷ lại, họ sẽ hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, đến khi phước hết, họa đến, họ làm sao trở tay cho kịp, đành bó tay ngồi than thân, trách phận, oán trời, trách đất, đổ thừa tại-bị-thì- là…; còn người nghèo thì lại nghĩ rằng, dù có siêng năng, tinh cần, cũng mất công vô ích, cho nên chẳng cần phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình, cuối cùng đã nghèo lại càng nghèo thêm.

Vì vậy, việc hiểu và ứng dụng lý nhân quả trong đời sống hằng ngày giúp con người có thêm ý chí, nghị lực, giàu lòng can đảm, không bi quan, yếm thế, không oán than hay đổ thừa số phận khi gặp bế tắc; dù gặp nhiều khó khăn, chướng ngại, nhưng ta vẫn vui vẻ vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối, thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình, hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác, dễ dẫn đến mê tín, dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật, nên luôn sống trong đau khổ, lầm mê.

Còn ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên, hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân-miệng-ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy, thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh, van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm, dám chịu, không đổ thừa cho ai.

Đạo Phật là một tôn giáo có chất liệu rất thực tế trong đời sống con người. Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là để phục vụ cho lợi ích nhân loại và muôn loài. Đạo Phật luôn nêu cao tinh thần nhân quả và khả năng giác ngộ của con người. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này, nếu đem ra khảo sát thật kỹ, chúng ta sẽ thấy không một sự vật nào thoát ra ngoài lý nhân quả. “Thấy quả biết nhân, thấy nhân biết quả” là tinh thần thực tiễn rất khoa học, không mơ hồ, không ảo tưởng. Một số khảo cứu của các nhà khoa học đã chứng minh lời Phật dạy là chân lý.

Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ tự tin nơi chính mình, không ỷ lại vào một đấng quyền năng nào có thể ban phước, giáng họa cho con người. Trong đời sống này, khổ hay vui là do mình tạo lấy mà thôi. Chính con người là thượng đế tối cao của con người. Con người có quyền quyết định mọi vấn dề trong cuộc sống và có quyền làm chủ mọi hành động từ thân-miệng-ý, và trong khuôn khổ nhất định, người làm lành được hưởng phước, người làm ác phải chịu khổ đau, ta không thể đổ thừa cho ai cả.

Giáo lý nhà Phật từ thấp tới cao, từ đạo làm người cho đến đạo hiền Thánh, đều dựa trên nền tảng lý nhân quả; vì vậy, trong cuộc sống của chúng ta, ai không thấu hiểu lý nhân quả thì sự tu hành của mình khó mà đạt được kết quả tốt đẹp.

Người Phật tử chân chính phải tin sâu nhân quả, nghiệp báo, nó là một nguyên lý giúp con người ý thức, và chịu trách nhiệm về những hành vi tạo tác của mình trong đời sống hiện tại. Người tu theo đạo Phật cần phải hiểu thấu lý nhân quả một cách tường tận, lấy đó làm kim chỉ nam, làm phương châm tu hành ngay tại đây và bây giờ, để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

BÀI- 16 ĐẠO PHẬT TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO CON NGƯỜI

Trong cuộc đời này có hai thứ tự do mà ai cũng có thể mong muốn: tự do thỏa mãn hưởng thụ về vật chất như tiền tài, danh vọng địa vị, sắc đẹp, ăn ngon mặc ấm và ngủ nghỉ thoải mái và tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc của phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tự do theo đúng nghĩa của nó là thật sự giải thoát khỏi các sự tham muốn hưởng thụ, chứ không phải là tự do thỏa mãn dục vọng.

Các nước tân tiến văn minh hiện đại chỉ công nhận loại tự do đầu tiên, là tự do thỏa mãn các nhu cầu vật chất cho con người. Và mọi người tôn thờ loại tự do ấy bằng tuyên ngôn dân chủ nhân quyền được luật pháp chấp nhận. Chính loại tự do hưởng thụ vật chất này mà thế giới con người lúc nào cũng tranh giành và tìm cách chiếm đoạt giết hại lẫn nhau.

Loại tự do thứ hai là tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc về hưởng thụ vật chất nhờ biết cách làm chủ bản thân điều phục được thân, miệng, ý an nhiên tự tại, giải thoát trong mọi hoàn cảnh. Chỉ có đạo Phật là biết tôn trọng quyền tự do con người không ép buộc và áp đặt một ai.

Có hai vị thầy được mời dự lễ cúng dường trai tăng tại một nhà Phật tử. Trong phòng khách gia đình họ được thân chủ tiếp đãi nồng hậu, tuy nhiên có một điều làm cho vị thầy trẻ chú ý đó là trong nhà có một bể nuôi nhiều loại cá.

Vị thầy nhỏ tuổi hơn cảm thấy không bằng lòng về việc nuôi cá trong bể là không hợp với giáo lý từ bi của đạo Phật. Lũ cá kia thật là tội nghiệp vì không được tự do thoải mái bơi lội trong vùng sông nước mênh mông hay ao hồ rộng lớn.

Vị thầy lớn tuổi mới giải thích cho vị thầy trẻ nghe rằng, quả là những con cá ấy không được tự do bơi lội tung tăng theo sở thích riêng của chúng, nhưng chúng sống trong bể kính thì sẽ thoát khỏi nhiều mối nguy hiểm do các loài khác xâm hại. Rồi vị thầy lớn tuổi mới kể ra sự tự do của chúng như sau:

Chúng ta có bao giờ thấy những người đi câu trong một bể cá trong nhà chưa? Chắc chắn là không có rồi! Vậy là sự tự do đầu tiên mà những con cá kia có được là không bị những người đi câu đe dọa mạng sống. Chúng ta hãy thử tưởng tượng hoàn cảnh của cá trong ao hồ sông suối thiên nhiên coi mạng sống của chúng thường xuyên bị đe dọa như thế nào?

Khi chúng thấy những con mồi ngon béo bở do loài người giăng bẫy, chúng có biết chắc là khi xơi tái con mồi kia có bảo đảm tính mạng an toàn hay không? Đối với những con cá được sống trong môi trường tự nhiên, mạng sống của chúng luôn bị đe dọa theo nguyên lý lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu và việc ăn của cá chất chứa nhiều nỗi hiểm nguy trong lo sợ. Bữa ăn ngon của chúng thường dẫn đến nhiều tai họa vì những miếng mồi béo bở.

Cá trong thiên nhiên ao hồ sông suối thường sống trong khủng hoảng bởi nỗi lo sợ chết chóc bất đắc kỳ tử. Còn những con cá trong bể kính được tự do khỏi sợ mối nguy hiểm đến tính mạng, bởi vì nó được bảo bọc bởi những người có lương tâm rộng lớn bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Cá trong tự nhiên thường lo sợ bị những loài khác hoặc những con cá lớn ăn nuốt cá bé. Trong thời buổi hiện nay ở nhiều sông hồ ao suối thường bị ô nhiễm nặng bởi những con người không có lương tâm đạo đức! Thế nhưng không có người nuôi nào lại thả những con cá lớn vào để ăn những con cá mình nuôi đâu! Vậy thì những con cá nuôi trong bể kính, sẽ thoát khỏi mối hiểm nguy bị cá lớn ăn thịt và muôn loài khác đe dọa mạng sống.

Trong tự nhiên, có những con cá không thể tìm được thức ăn, có khi gặp mồi của con người giăng bẫy. Còn cá trong bể kính cứ ngày hai lần, bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Cho nên những con cá trong bể kính không bị cái đói đe dọa.

Trong tự nhiên, khi cá bị bệnh, chẳng có ai săn sóc, điều trị nên đành chịu chết dần, chết mòn trong đau đớn. Còn cá trong bể kính thì được bảo hiểm y tế đầy đủ. Khi có ốm đau, chủ nhà liền mời thầy thuốc đến khám bệnh, mà cũng không cần phải đi bệnh viện nữa. Như thế con cá trong bể kính được tự do khỏi mối nguy cơ không bị bệnh hoạn xâm nhập.

Nói xong vị thầy lớn tóm tắt lại như sau. Làm thân cá trong bể kính được hưởng nhiều thuận lợi trong cuộc sống tuy có bị hạn chế đôi chút về không gian. Quả thật là chúng không được tự do theo đuổi các sở thích của mình và bơi đi đây đi đó, nhưng chúng thoát khỏi những mối đe dọa hiểm nguy bên ngoài.

Vị thầy lớn tuổi lại nói tiếp, cũng vậy những người tu hành phải gìn giữ giới luật sống trong khuôn khổ nhất định. Quả thật là họ không được tự do theo đuổi những dục vọng thấp hèn và thỏa mãn những mong muốn này nọ, nhưng họ sẽ từng bước thoát khỏi nhiều sự dính mắc ràng buộc bởi tham lam, sân giận và si mê nên họ dễ dàng tiếp nhận được bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Đã làm người thì tất nhiên chúng ta phải có nhiều mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, nào là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, cộng đồng xã hội ..… không một ai có thể tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Và khi mối tương quan này được hình thành thì con người sẽ bị ràng buộc trong luyến ái bởi sự thương ghét vì muốn chiếm hữu. Cha mẹ luôn bênh vực cho con cái, anh chị em sẽ bênh vực lẫn nhau, vợ phải bênh vực cho chồng… vì những người này là gia đình người thân của tôi. Còn những người không nằm trong giòng máu huyết thống phải là kẻ xa lạ, cho nên khi người thân của mình sai phạm nhưng ta vẫn cố tình bao che và bênh vực, thậm chí còn tìm cách hại người đó để bảo vệ quyền lợi của mình.

Cá ở trong tự nhiên được ví như tất cả mọi người thích hưởng thụ vật chất đầy đủ mà không quan tâm đến phần tinh thần cho nên suốt cuộc đời sống trong đau khổ lầm mê.

Cá trong bể kính được ví như những người tu theo đạo Phật nhờ có giới luật bảo hộ cùng với cung thiền định và kiếm trí tuệ, nhờ vậy người tu luôn sống trong bình yên hạnh phúc, thoát khỏi mọi sự cám dỗ bên ngoài.

Chính vì vậy, để được tự do tự tại trong cuộc sống mà vẫn góp phần làm lợi ích cho xã hội, nó đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên quán niệm, giám sát chặt chẽ thân miệng ý của mình.

Đây chính là kinh nghiệm mà đức Thế Tôn đã thực chứng và chỉ dạy lại cho chúng đệ tử rằng: “Này các vị khất sĩ! Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục. Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị khất sĩ ấy ý thức là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm không có sân hận, vị ấy ý thức là trong tâm không có sân hận. Mỗi khi tâm thức mình si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình si mê. Mỗi khi tâm thức mình không si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không si mê.

Để ta được tự do, tự tại trong cuộc sống, không bị dính mắc bởi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nghỉ thoải mái, ta chỉ cần nhận biết rõ tâm ý mình mà không cần phải chống đối, trừ khử thì tâm Phật thanh tịnh sáng suốt hiện tiền.

Chính vì lẽ đó cho nên đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu. Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu? Này Hiền giả, khi ta đứng lại, thời ta chìm xuống; khi ta bước tới, thời ta trôi giạt. Do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu”.

Bước tới là chạy theo sự tham muốn hưởng thụ dục lạc, còn đứng lại là nắm giữ, sở hữu cái mình ưa thích. Chính vì muốn sở hữu “cái này là của tôi” nên khi bị người khác chiếm đoạt hoặc bị mất mát thì tâm sân hận phát khởi nên lúc nào cũng oán giận ghét bỏ mà tìm cách trả thù.

Đức Phật là người duy nhất trên thế gian này đem lại cho nhân loại quyền bình đẳng và tự do của con người. Ngài không nhân danh thần linh thượng đế hay đấng tối cao ban phước giáng họa như các truyền thống xa xưa, Ngài chỉ nhân danh con người, vì con người là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Con người là động vật tối thượng có suy nghĩ và nhận thức sáng suốt, bởi biết tư duy, nghiệm xét, tìm tòi. Con người ai cũng thích được thong thả tự do, nếu có sự ép buộc kềm chế từ bên ngoài là đánh mất quyền tự do của con người. Chính vì thế chúng ta đến với đạo Phật không có điều kiện bắt buộc gì cả, chỉ cần ta có ý thức mến đạo thích tu vì tình người trong cuộc sống là đủ rồi.

Chúng ta, sau khi trở thành người Phật tử cũng không có sự bắt buộc nào, khi phát tâm quy y trong nhà Phật có khuyến khích mọi người nên giữ gìn năm giới cấm: Như không sát sinh hại vật trước tiên là không được giết người, sau đó hạn chế tối đa giết hại các loài vật. Không gian tham trộm cướp. Không tà dâm mà hay sống chung thủy một vợ, một chồng. Không nói dối hại người hoặc lường gạt. Không dùng và tiêu thụ các chất độc hại như uống rượu say xỉn hoặc dùng xì ke ma túy. Đó là phương tiện nhằm đem lại sự bình an, hạnh phúc cho quý Phật tử đó thôi.

Cho đến khổ đau và an vui của con người, đạo Phật nói rõ đều do con người tự do tạo lấy theo nguyên lý nhân quả mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Đức Phật nói, ta không có quyền ban phước giáng họa cho con người. Ngài chỉ là vị thầy dẫn đường hướng dẫn cho mọi người biết được điều hay lẽ phải, còn làm được hay không là do chính mình quyết định. Ta hành động tốt hay giúp đỡ mọi người sẽ mang niềm vui cho mình, ta nếu hành động xấu sẽ chuốc quả khổ đau.

Tự do trong nhà Phật là kêu gọi mọi người ý thức tự giác để ta biết cách làm chủ bản thân qua thân miệng ý và thắng được mọi cám dỗ bên ngoài. Tất cả mọi thứ tiền tài, sắc đẹp, danh lợi và quyền lực không lôi cuốn được ta là tự do. Người đời miệng luôn nói tự do, đòi tự do, kêu gọi tự do mà đam mê tửu sắc, vui chơi hưởng thụ quá đáng dẫn đến tan nhà nát cửa thì bao giờ mới được tự do?

Tự do là chân giá trị sống của con người, song muốn tự do ta phải có đầy đủ giới, định, tuệ và sức mạnh nghị lực mới mong chiến thắng bọn ma mị tài, sắc, danh lợi... Nhân không dính mắc mọi sự cám dỗ bên ngoài là ta đang được tự do và cuối cùng dẫn đến quả giác ngộ, giải thoát.

Chúng ta giải thoát bằng cách nào? Thật sự chúng ta không cần tìm giải thoát ở đâu xa, ngay nơi thân tâm này mình có đủ khả năng làm chủ bản thân qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bằng sự bảo hộ của giới luật, cùng với cung thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ.

Giới luật, thiền định và trí tuệ như cái đỉnh ba chân, khi chúng ta phát huy và gìn giữ được ba yếu tố trên thì việc tu của chúng ta rất đơn giản và nhẹ nhàng. Giữ giới rất quan trọng vì nó là nhân dẫn đến thiền định, người phạm giới thì tâm niệm toan tính lăng xăng.

Đối với tất cả vọng niệm ta không cần xua đuổi, khử trừ mà chỉ cần nhận diện và nhìn chúng như gió thoảng mây bay thì tất cả niệm sẽ tan hòa vào hư không. Khi đó ta thấy chỉ là thấy mọi hình ảnh sự vật mà không dính mắc vào đó, nên vọng niệm không có cơ hội phát sinh nhờ vậy ta an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chỗ này các tổ thường dạy niệm cho đến vô niệm vì vẫn thấy nghe mà thường biết rõ ràng.

 

 

Tác giả: Thích Đạt Ma Phổ Giác

 

T

Bình luận
Gửi bình luận của bạn

Danh bạ website Phật giáo
Sự kiện - Hội thảo
  • Về Thiền học khởi nguyên của Phật Giáo Việt Nam
  • Giới thiệu sách - Tìm người trong hơi thở
  • Chuyện xưa... mai trắng Hà thành
  • Đôi dòng xúc cảm
  • 108 Lời tự tại – Nâng cao phẩm chất cuộc sống
  • Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?
  • Em nên đi tu hay lấy chồng?
  • Trần Nhân Tông – đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt
  • Bình an giữa cuộc đời
  • Ăn và Đạo Pháp

Đăng ký bản tin