Chi tiết tin tức Đức Sakya Trizin đời thứ 42 truyền dạy pháp tu Phowa tại Củ Chi, Tp.HCM 16:41:00 - 24/10/2017
(PGNĐ) - Ngày 23/10/2017, tại tháp Long Thọ, ấp Cây Trắc, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, Tp.Hồ Chí Minh cung nghinh đức Sakya Trizin đời thứ 42 từ Ấn Độ sang. Sau khi vòng quanh tham quan gia trì, Ngài truyền dạy pháp tu Phowa.
“Thông thường, từ “thần thức” được dùng cho người đã lâm chung đang ở trong giai đoạn trung ấm, trong khi từ “tâm thức” được dùng cho người còn tại thế. Trên phương diện tối hậu thì tâm thức là một dòng tương tục không có sống chết, có chăng chỉ là cái tan hoại của thân vật lý. Thêm vào đó, trong bối cảnh của pháp tu “Phowa,” và nhất là đối với các hành giả tu tập pháp chuyển di nương vào ba ẩn dụ, việc này bao gồm các nghi thức chuyển di vào giờ phút lâm chung trong giai đoạn tan rã trước khi thân và tâm thực sự tách rời (nghĩa là khi hơi thở vi tế bên trong vẫn còn hiện hữu), danh từ “tâm thức” hay “thần thức” mà ngài Sakya Trizin đời thứ 42 chia sẻ về pháp thực hành chuyển di.
Trong các bài nguyện và hồi hướng dành cho giai đoạn lìa đời và thân trung ấm có nhắc đến pháp môn chuyển di tâm thức (*) có tên gọi là “Phowa.” Đây là pháp tu khởi thủy được truyền xuống từ đức Liên Hoa Sinh sau khi đã ngài dùng thần lực đến cõi Tịnh độ thọ pháp này từ đức A Di Đà và đây cũng là một trong sáu pháp tu Du Già của Naropa. Đối với pháp tu này thì ngài Tổ sư Marpa (1012-1096) đại dịch giả Tây Tạng và Sơ Tổ dòng Kagyu, đã từng nói rằng: ‘Có nhiều giáo pháp để hành giả đạt giác ngộ, nhưng ta có một giáo pháp có thể mang lại giác ngộ mà chẳng cần thiền định, đó chính là pháp môn chuyển di tâm thức’. Do đó, trong Kim Cương thừa, pháp môn “Phowa” được xem như là phương tiện trực tiếp nhất và nhanh chóng nhất để đạt giác ngộ trong thời điểm lâm chung. Nói chung pháp chuyển di tâm thức được phân loại như sau: 1. Pháp chuyển di siêu việt tới pháp thân nhờ vào dấu ấn của “kinh nghiệm” kiến tính.
2. Pháp chuyển di trung bình tới báo thân nhờ hợp nhất các giai đoạn sinh khởi (generation stage) và viên mãn (perfection stage) dựa vào các pháp tu bản tôn của Kim Cương thừa.
3. Pháp chuyển di thấp tới hóa thân nhờ vào lòng bi mẫn vô lượng.
4. Pháp chuyển di thông thường “đến cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà” nương vào ba ẩn dụ.
5. Pháp chuyển di thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.
Theo Tạng ngữ thì động từ “Phowa”có nghĩa là dời đi, chuyển đi, dọn đi, chuyển di, chuyển dời từ một nơi này đến một nơi khác (to transfer, to move, to migrate. Và từ này cũng được các dịch giả Anh ngữ dùng trong bối cảnh của pháp “Phowa” ám chỉ hành động “phóng xuất” một cách nhanh chóng (to eject). Do đó, ngoài nghĩa bóng là hành động phóng xuất tâm thức một cách thần tốc ra khỏi xác thân để hòa nhập vào với đức A Di Đà nơi cõi Cực Lạc nương vào ba ẩn dụ (như trong “Phowa” thứ 4) thì từ “Phowa” nói chung mang một ý nghĩa thâm sâu, đó là chuyển dời (chuyển di) tâm thức của chúng ta từ một nơi là cảnh giới hay tâm cảnh của xác thân phàm đến hòa nhập vào một nơi khác là cảnh giới thanh tịnh của pháp thân, báo thân, hóa thân và cực lạc.
Cho nên ta có thể hiểu rằng “Phowa” là tên gọi của pháp môn “Chuyển Di” nói chung, và hành động “phóng xuất” là một hành động cần thiết trong phần quán tưởng của pháp môn “Chuyển Di” này. Sau đây là những bước thực hành chính yếu của pháp môn “Phowa” (Chuyển di Thần thức); cho dù bản thân quý vị “khi đang còn tại thế” hay là đem pháp tu này vào thực hành “khi lâm chung” thì những bước thực hành cũng đều giống nhau.
Trình tự của pháp Thiền định Chuyển di Thần thức:
Hãy tĩnh tọa thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư thế Kim cương giữ cho lưng thẳng ngay.
1. Pháp chuẩn bị: Trước tiên hãy hoàn tất toàn thể các pháp tu dự bị thật rõ ràng, chi tiết, bắt đầu bằng bài tụng “Gọi đức Bản tôn từ Chốn xa” và tiếp tục cho đến phần tan hòa (Dissolution) trong bốn pháp “Bản sư Du già” (Guru Yoga).
2. Pháp Quán tưởng chính yếu: Hành giả hãy quán tưởng xác thân phàm của mình 318 trong một khoảng khắc, trở thành thân tướng của Nữ Kim Cương Du Già (Vajra Yogini). Nữ Kim Cương Du Già (Vajra Yogini) mang màu sắc đỏ, có một khuôn mặt và hai cánh tay, đang đứng bằng cả hai chân, bàn chân phải giở lên trong “tư thế dạo từng bước chân an lạc”. Tam nhãn (ba con mắt) của Kim Cương Du Già (Vajra Yogini) ngước lên trời. Những hướng dẫn này nhằm mục đích chuyển di nên quán tưởng Ngài với nét đầy quyến rũ, an bình đồng thời hơi phẫn nộ. Bàn tay phải của Ngài đưa lên trên không trung, khua lách cách một cái trống nhỏ làm bằng sọ người, đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc chiêm bao vô minh lầm lạc. Trong bàn tay trái, Ngài cầm một lưỡi dao lưỡi liềm ngang hông để cắt đứt tận gốc tam độc tham sân si. Thân mình của Ngài trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các vật trang sức bằng xương (đeo trên người). Như một căn lều bằng lụa đỏ, Ngài hiển lộ nhưng không có thực chất hay thực sự có ở đó. Tất cả những điều này là áo giáp hư huyễn bên ngoài (outer empty enclosure) của thân tướng.
Ở ngay trung tâm, suốt dọc thân thẳng đứng của quý vị (nay trong hình tướng của Nữ Kim Cương Du Già (Vajra Yogini), hãy quán tưởng đường kinh mạch trung ương giống như một cây cột trong một ngôi nhà trống. Được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi đường khí ấy nằm ngay nơi trục của thân, không nghiêng sang trái hay sang phải. Đường kinh mạch trung ương có bốn đặc tính.
Thứ nhất, mang màu xanh biếc như một phim ảnh màu chàm (indigo), tượng trưng cho Pháp Thân bất biến.
Thứ nhì, kết cấu của đường khí ấy vi tế giống như một cánh hoa sen, tượng trưng cho tính chất mỏng manh của những bức màn che chắn xuất hiện từ những thói quen huân tập.
Thứ ba, đường khí ấy sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng trưng cho bóng tối vô minh đã được xua tan.
Thứ tư, đường khí ấy thẳng như một khúc tre, là biểu hiện sẽ không bao giờ dẫn tới những con đường xấu thấp hoặc sai lạc. Đầu trên của đường kinh trung ương mở thẳng vào cửa Phạm Thiên nơi đỉnh đầu (nơi tâm thức có thể thoát ra), giống như một cửa sổ mở toang trên mái nhà, biểu hiệu cho con đường đưa tới giải thoát và những cõi tái sinh cao hơn, trong khi đầu dưới của đường kinh trung ương đóng kín lại không có lỗ mở nào, dưới rốn khoảng bốn ngón tay, biểu hiện rằng những lối trở lại vào vòng luân hồi sinh tử và các cõi tái sinh thấp đã được đóng kín. Tất cả những điều này là áo giáp rỗng rang bên ngoài (outer empty enclosure) của đường kinh mạch trung ương.
Bây giờ hãy quán tưởng bên trong đường kinh mạch trung ương ở khoảng ngang tầm trái tim, chỗ đó như hơi phồng ra, giống như một cái mắt trong một thân tre. Phía trên chỗ cái mắt phồng ra này, hãy quán tưởng giọt tinh chất (bindu) của năng lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay trên đó là tinh túy của tâm thức của bạn, một chữ hrih màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế cho visarga(*), lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió.
(*) Đây là một dấu hiệu của Phạn ngữ được phát âm như một âm “h” nặng. Theo cách phát âm của tiếng Tây Tạng thì chỉ cần kéo dài âm tiết, và được viết bằng hai vòng tròn nhỏ, cái này trên cái kia, tượng trưng cho trí tuệ và phương tiện.
Trong không gian trên đầu quý vị một cubit (khoảng 46 cm), hãy quán tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công vĩ đại nâng lên. Trên đó là một hoa sen nhiều màu, cùng với hai đĩa mặt trời và mặt trăng, cái này nằm trên cái kia, tạo thành một tấm nệm ba lớp (xếp chồng lên nhau). An tọa trên toạ cụ ấy là Bản sư vinh quang của quý vị, là kho tàng bi mẫn không gì sánh bằng, hiển lộ trong thân tướng của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, và trong thân tướng của đức Phật Thế Tôn và đức Hộ Phật A Đà. Ngài mang sắc màu đỏ, giống như một trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc. Ngài có một khuôn mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất tử của trí tuệ. Ngài đắp tam y, là y phục của một hóa thân siêu phàm 320 tuân giữ phạm hạnh thanh tịnh. Thân Ngài mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng hạn như nhục kế nhô cao (usnisa) trên đỉnh đầu và các luân xa in dấu trên lòng bàn chân - toàn thân Ngài được bao phủ trong ánh hào quang rực rỡ đến từ muôn ngàn tia ánh sáng đang phóng tỏa. Bên phải đức A Di Đà là đấng Quán Thế Âm cao quý, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật - đức Quán Thế Âm mang sắc trắng, với một khuôn mặt và bốn cánh tay. Đôi bàn tay ở phía trên chắp lại nơi tim, lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải ở phía dưới đang lần một chuỗi tràng pha lê màu trắng, và bàn tay trái phía dưới đang cầm một cành sen trắng, bông hoa nằm sát tai Ngài, tất cả các cánh hoa đều nở bung ra.
Bên trái đức A Di Đà là Kim Cương Thủ (Vajrapani), Pháp Vương của các pháp ẩn mật, hiện thân của thần uy và oai lực của tất cả chư Phật. Ngài mang sắc màu xanh dương, hai bàn tay bắt chéo trước ngực; trong tay Ngài cầm một cái chày kim cương và một cái chuông.
Đức Phật A Di Đà an tọa, hai chân xếp chéo trong tư thế Kim Cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử lẫn Niết Bàn. Còn hai vị Bồ Tát (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) trong tư thế đang đứng thẳng, điều này tượng trưng việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi ích của chúng sinh.
Xung quanh ba vị Hộ Phật và Bản Tôn chính yếu này, là tất cả các bậc Thầy của dòng truyền thừa của pháp chuyển di thâm diệu. Tất cả các Ngài hội tụ lại như những đám mây trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả các chúng sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với những đôi mắt ánh lên nụ cười, nghĩ tưởng về quý vị với niềm hoan hỷ. Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những người đưa đường vĩ đại giúp giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi những thống khổ của vòng sinh tử và các cõi thấp, đưa dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng theo văn bản, bắt đầu từ câu:
Thân xác phàm 318 của con trở thành sắc tướng của Thánh Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī)... xuống đến câu:...Ba con mắt Ngài ngước nhìn lên bầu trời.
Rồi từ câu: Đường khí mạch trung ương chạy dọc suốt giữa thân Ngài... cho tới câu:... Thân Ngài thật toàn mỹ với tất cả các tướng chính và phụ... Sau đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn như bừng bừng lên và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện sau đây:
Đức Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, đấng Hộ Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ. Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Rồi hãy tụng đọc đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần, bắt đầu từ câu: Emaho (Kỳ diệu thay)! Nơi chốn này, cõi Sắc Cứu Cánh Thiên viên mãn đã hiển hiện tự nhiên... cho đến câu: ... Nguyện cho con nắm giữ được đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!
Kế đó hãy tụng ba lần phẩm cuối cùng, bắt đầu từ câu: Với lòng quy ngưỡng trong tâm... Cuối cùng, tụng ba lần dòng cuối cùng sau đây: ... Nguyện cho con an trụ trong đại - phương quảng - trí của Pháp Thân!
Trong khi quý vị cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm vào chữ hrīh, là biểu tượng của Giác tính của bạn, và cầu nguyện với lòng quy ngưỡng hướng về bậc Thầy và đấng Hộ Phật của bạn, tức đức Phật A Di Đà, tới nỗi đôi mắt bạn trở nên đẫm lệ.
Sau đây là đến phần nghi thức phóng xuất thần thức. Khi bạn tụng “Hrīh, Hrīh,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ hrīh màu đỏ, tượng trưng cho Giác tính của bạn, được giọt tinh lực (bindu of energy) rung động màu xanh lá cây nhạt 321 nâng bổng lên, càng lúc càng được nâng bổng lên cao và luôn luôn rung động (tất cả đều nằm ở giữa đường khí mạch trung ương). Khi giọt tinh lực hiện ra ở cửa Phạm Thiên trên đỉnh đầu bạn, hãy hô lớn “Hik!” và quán tưởng giọt tinh lực ấy phóng vút lên, giống như một mũi tên được tên khổng lồ bắn đi, và tan hòa vào trái tim đức Phật A Di Đà.
Hãy thực hành nghi thức trên bảy lần, hai mươi mốt lần hoặc nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrīh trong tim bạn và lập lại tiếng hô “Hik!” như trước đó. Trong các truyền thống khác, người ta hô “Hik!” khi phóng tâm thức lên và hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống, nhưng theo truyền thống này chúng ta không hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống.
Sau đó, hãy hành trì nghi thức như trên càng nhiều lần càng tốt, số lần nhiều ít tùy nghi sao cho phù hợp với bạn, và bắt đầu với câu: Đức Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà... Sau đó tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức và những nghi thức còn lại. Rồi một lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần câu: Đức Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà... xuống đến câu: ...Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Hãy thực hành theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển di cô đọng được gọi là Cắm Cọng Cỏ, được vị tôn giả khai quật tàng kinh Nyi da Sangye 322 biên soạn và trao truyền qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen: Đức Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ trước Pháp tòa; Đức Liên Hoa Sinh xứ Oddiyāna, con khẩn cầu Ngài; Bản sư Từ ái, xin che chở con bằng lòng bi mẫn của Ngài! Chư vị Bản Sư và Tôn Sư thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt con trên con đường tu. Xin gia hộ cho con để con có thể thành tựu con đường chuyển di thâm diệu. Xin gia hộ cho con để con đường chuyển di thần tốc này có thể đưa con tới cõi tịnh độ.
Xin gia hộ cho con và những chúng sinh khác để ngay khi cuộc đời này chấm dứt, Xin cho chúng con được vãng sinh nơi cõi Cực Lạc! Emaho! Đức Phật A Di Đà, đấng Hộ pháp Phật kỳ Diệu nhất, Đức Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi và Đức Kim Cương Thủ đầy uy lực.Vì lợi lạc của bản thân cùng những chúng sinh khác, con xin chí tâm chí thành khẩn cầu chư vị:
Xin gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu. Xin gia hộ cho chúng con để vào giây phút lìa đời. Tâm thức của chúng con sẽ được chuyển di tới Pháp Giới Cực Lạc!
Hãy tụng đọc lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức như đã được giảng dạy trước đó.
Khi quý vị đã hoàn tất pháp môn chuyển di nhiều lần và đến lúc kết thúc thời khóa, hãy niêm phong pháp môn lại trong đại-phương quảng-trí của năm Thân (expanse of the five kāyas) bằng cách hô lên tiếng“P’et” năm lần. Sau đó, hãy an trú trong trạng thái an tịch tự nhiên không tạo tác bất kỳ điều gì.
Sau đó, tất cả những vị Thầy của dòng truyền thừa trên đỉnh đầu quý vị sẽ tan hòa vào ba vị thượng thủ (A Di Đà, Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ); rồi hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ tan hòa vào đức Phật A Di Đà; và đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang) tan thành ánh sáng và sau đó tan hòa vào bạn. Hãy quán tưởng chính bạn ngay lập tức hóa hiện thành ra vị Hộ Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) trong sắc màu đỏ, với một khuôn mặt, hai tay và hai chân. Ngài tọa thiền trong tư thế Kim Cương (Vajra). Hai tay ngài bắt ấn thiền định, cầm một bình bát sinh lực tràn đầy cam lồ của trí tuệ bất tử và trên đỉnh bình bát có một nhánh cây như ý. Ngài mang trên mình mười ba bảo vật trang sức của Báo Thân.
Hãy tụng câu “Om Amarani Jīvantiye Svāhā” (minh chú của đức A Di Đà Vô Lượng Thọ) một trăm lần, sau đó hãy tụng đà ra ni trường thọ và những câu minh chú khác. Điều này ngăn ngừa giúp cho thọ mạng của quý vị không bị ảnh hưởng bởi pháp thực hành chuyển di và nhờ vào chân lý của duyên tương khởi này, sẽ tẩy trừ bất kỳ chướng ngại nào có thể đe dọa đến thọ mạng của bạn. Phần hành trì minh chú và quán tưởng Vô Lượng Thọ này không cần thiết khi bạn thực hành pháp chuyển di tâm thức cho một người hấp hối hay cho người đã chết, và cũng không cần thiết khi bạn đang thực sự thực hành pháp chuyển di cho chính bản thân bạn vào lúc lìa đời.
Những dấu hiệu thành tựu trong pháp chuyển di được mô tả trong bản chánh văn như sau:
Đầu đau nhức; một giọt huyết thanh (serum) lóng lánh như sương xuất hiện; Có thể từ từ cắm sâu một cọng cỏ (vào trên đỉnh đầu).
Hãy miên mật hành trì cho đến khi những dấu hiệu này xuất hiện.
Để kết thúc, hãy hồi hướng công đức và trì tụng Bài Nguyện Vãng Sinh Tây Phương Cực Lạc và những bài nguyện khác. Khác với những pháp môn hành trì khác của hai giai đoạn phát triển và hoàn thiện, những giáo huấn về con đường thâm diệu của pháp chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy đến sau một tuần lễ thực tập miên mật. Đó là điều tại sao phương pháp này được gọi là “Giáo Pháp đem lại Phật Quả phi thiền định,” và đó là điều tại sao mọi người nên lấy con đường tắt vô song này làm pháp môn hành trì hằng ngày.
Không thể tự lo cho mình, com lảm nhảm lung tung với người quá cố.
Không tu hành, nhưng con trải rộng vòm giáo pháp vô tận.
Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ gian xảo như con. Để chúng con có thể tinh tấn, hành trì miên mật.
Những giáo huấn dưới đây, gồm mười hai đề mục chính yếu, với sáu đề mục đầu tiên liên quan tới những pháp tu dự bị thông thường bên ngoài:
1. Sử dụng đời người cho những điều thật sự quan trọng bằng cách quán chiếu về những điều kiện tự do và những thuận duyên rất khó tìm.
2. Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về lẽ vô thường của cuộc đời.
3. Phát khởi quyết tâm cầu tìm giải thoát cùng với tâm từ bi nhờ vào việc nhận biết ra được bản chấtcủa toàn bộ vòng sinh tử luân hồi là đau khổ.
4. Từ bỏ những điều xấu ác và noi theo những điều tốt lành trong bất kỳ việc gì nhờ vào những hiểu biếtrốt ráo về những hậu quả của việc làm của mình.
5. Càng ngày càng thiết tha với kết quả thành tựu bằng cách nhớ đến những lợi lạc của giải thoát.
6. Bằng cách theo chân một vị Thầy tâm linh chân chính, tự rèn luyện bản thân để tích cực theo gương những chứng nghiệm và thiện hạnh của Ngài. Năm đề mục kế tiếp bao gồm những pháp tu dự bị phi thường hay những chuẩn bị bên trong:
1. Đặt ý nguyện tìm cầu giải thoát trên nền tảng của quy y Tam Bảo.
2. Thiết lập một cái khung vững chắc cho vô lượng công hạnh của một vị Bồ Tát bằng cách khơi dậy tâm Bồ Đề tối thượng.
3. Sám hối những ác hạnh và những vi phạm giới hạnh, là gốc rễ của tất cả những gì bất thiện, và nương vào bốn lực tịnh hóa nghiệp, thực hành thiền định và trì tụng về đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva). 4. Tích lũy công đức và trí tuệ, là suối nguồn của tất cả những tiến triển tâm linh, bằng cách cúng dường những cõi Tịnh Độ của ba Thân (kāyas) trong hình thức của một mạn đà la.
5. Tự khơi dậy tuệ giác tối thượng trong bản thân bằng cách khẩn nguyện Bản Sư, là suối nguồn của mọi năng lực gia trì.
Cuối cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước khi bạn có thể hoàn tất con đường tu, hãy nương vào pháp chuyển di tâm thức để nối kết với các cõi tịnh độ, dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định.
Những pháp tu dự bị này cũng có thể được trình bày như sau:
(1) Nhờ vào bốn tư tưởng quán chiếu chuyển tâm giúp bạn quay lưng lại với cõi sinh tử luân hồi và nhờ vào những hiểu biết về lợi ích của giải thoát, bạn có thể làm sống dậy lòng cương quyết tìm cầu giải thoát, và chính lòng cương quyết chí thành này sẽ mở ra một lối vào cho toàn bộ con đường tu.
(2) Nhờ theo chân một vị Thầy tâm linh, suối nguồn của mọi phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ tạo được những thuận duyên cho con đường tu.
(3) Nhờ quy y Tam Bảo làm nền tảng, và nhờ khơi dậy được tâm Bồ Đề, tu tập hành trì theo sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) mà bạn sẽ được dẫn dắt đi trên con đường chánh đạo của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác. . .”
Sau buổi Pháp thoại, hàng nghìn người xếp hàng dâng lễ phẩm cúng dường, và thụ quán đỉnh Bạch Văn Thù, chúc Phúc Cát tường trong niềm hoan hỷ, pháp lạc vô biên.
Công Viên Hỏa Táng Tháp Long Thọ được đầu tư và xây dựng tại nghĩa trang chính sách Huyện Củ Chi - ấp Cây Trắc, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trung tâm Hỏa táng Long Thọ, được sở hữu độc quyền hệ thống Super power III của Mỹ với công nghệ hỏa táng tân tiến nhất hiện nay. Với đặc điểm không khói, không ùi, không gây ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng, khu Hỏa táng Long Thọ vừa đảm bảo an toàn môi sinh tại các khu vựa lân cận, đòng thời rút ngắn đáng kể thời gian hỏa táng. Khách hàng có thể trực tiếp quan sát từ khu vực cách ly toàn bộ diễn biến của quá trình thực hiện hỏa táng để kiểm nghiệm công nghệ cũng như được trực tiếp theo dõi việc hỏa táng di hài người thân.
Khu vực Tang lễ với 10 phòng hành lễ trang trọng, tôn nghiêm, trang bị hệ thống âm thanh, ánh sáng cùng màn hình LED và hệ thống camera tường thuật diễn biến buổi lễ theo tiêu chuẩn châu Âu, giúp gia đình chu toàn buổi lễ tiễn đưa vầy đầy đủ nghi thức, trọn vẹn và thanh thản cho chuyến hành trình đến cõi lạc của thân quyến.
Khu vực phòng hành lễ của Hỏa táng Long Thọ được thiết kế sang trọng, mang nhiều nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam, từ họa tiết chim hạc của trống đồng đến hoa sen điêu khác chạm trỗ tỉ mỉ tinh tế trên tường. các thiết kế tại Hỏa táng Long Thọ luôn đề cao việc gìn giữ văn hóa dân tộc Việt, thanh tịnh, trang nhã và đảm bảo sự sang trọng cho buổi lễ tiễn đưa người quá cố về với cõi vĩnh hằng.
Vân Tuyền
Bình luận
Gửi bình luận của bạn
|
Tin nhiều người đọc Danh bạ website Phật giáo Sự kiện - Hội thảo
Đăng ký bản tin |